1. Mầu nhiệm Phục sinh là gì?
2. Mầu nhiệm Phục Sinh đem lại cho nhân loại những ý nghĩa và ân lộc nào?
3. Sống mầu nhiệm Phục sinh như thế nào để loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay?
Nội dung:
Chúng ta đang sống trong bối cảnh cả thế giới phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề về số lượng người tử vong, nhiễm bệnh cũng như về mọi lĩnh vực bởi Đại Dịch Covid 19. Là người Công Giáo, được đức tin hướng dẫn, chúng ta chỉ biết đặt mọi sự dưới sự quan phòng của Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng quyền năng và làm Chủ mọi sự trên toàn bộ vũ trụ này. Nhờ mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su, những người tín hữu của Chúa sẽ luôn luôn vững bước, can đảm, khôn ngoan để đối diện với mọi vấn đề dẫu có khó khăn, gian nan và ngay cả sự chết. Cũng nhờ mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su mà mỗi chúng ta, ki-tô hữu luôn sống lạc quan, đầy niềm hy vọng qua mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời. Phải chăng nhờ vậy, chúng ta có cơ hội để loan báo Tin Mừng cho những người đang sống bên cạnh chúng ta trong mọi nơi và mọi lúc, nhất là trong bối cảnh đầy biến động này?
1/ Mầu nhiệm Phục Sinh là gì?
Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm lớn trong đạo, là mầu nhiệm mừng Đức Giê-su Sống lại từ cõi chết. Chính các Tông đồ, cụ thể là Thánh Phaolô đã mạnh mẽ tuyên xưng: “Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.”(Cv 13, 32-33). ‘Sự Sống Lại của Chúa Giê-su là chân lý cao cả nhất của đức tin chúng ta vào Đức Ki-tô, với tính cách là một chân lý trung tâm đã được tin và thể hiện trong cuộc sống bởi cộng đoàn Ki-tô giáo tiên khởi, đã được lưu truyền bởi Thánh Truyền như chân lý nền tảng, đã được xác lập bởi các văn kiện của Tân Ước, và được rao giảng, đồng thời cùng với thập giá, như là phần thiết yếu của mầu nhiệm Vượt Qua.’ (x. GLHTCG, số 638). Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Ki-tô là một biến cố có thật bởi ngôi mộ trống và các cuộc hiện ra với các môn đệ. Về điều này, chính thánh Phaolô cũng đã khẳng quyết với cộng đoàn Côrintô: “ Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.” (1Cr 15, 3-4). Đức Giê-su Sống Lại thật rồi, đó là niềm tin của mỗi chúng ta. Thế nhưng, sự sống lại của Đức Giê-su Ki-tô đã đem lại những ý nghĩa và hiệu quả nào cho mỗi chúng ta?
2/ Mầu nhiệm Phục Sinh đem lại cho nhân loại những ý nghĩa và hiệu quả nào?
Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô đã đem lại những hiệu quả cho nền tảng đức tin của chúng ta. Chính Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Đức Kitô không sống lại, thì tất cả lời giảng của chúng tôi đều là vô ích, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.” (1Cr 15,14). Như vậy, Thánh nhân đã khẳng định Đức Giê-su Ki-tô đã sống lại thật sự. Theo Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 653: Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Sự phục sinh là việc hoàn thành mầu nhiệm này theo kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hơn nữa, Đức Ki-tô, nhờ Sự Chết của Người, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhờ sự Phục Sinh của Người, mở đường cho chúng ta tiến vào cuộc sống mới. “…cũng như Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết…, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới”. (Rm 6,4). Như thế, sự Sống Lại của Đức Ki-tô đem lại niềm vui khôn tả cho mỗi người vì nhờ vậy, chúng ta được phục hồi con người tội lỗi để trở nên nghĩa thiết với Ngài. Cũng nhờ sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, từ nay chúng ta sẽ không còn phải chết nữa. Điều này được Kinh Thánh xác quyết rằng: “Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc ngàn thu…Như mọi ngươi vì liên đới với Adam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15, 20-22).
Bên cạnh đó, Sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô giúp mỗi chúng ta biết hướng thượng, biết hướng về Trời để được sống thay vì chỉ biết nhìn xuống và sống trong sự tội của ma quỷ, của xác thịt và thế gian. Hướng về trời để rồi từ nay mỗi chúng ta không sống trong sự thất vọng nhưng luôn luôn sống trong tinh thần lạc quan và hy vọng. Vì từ con người phải chết và chết đời đời do tội, nay nhờ sự Phục Sinh, chúng ta sẽ được sống muôn đời. Cũng như Đức Giê-su đã phải trải qua đau khổ và Cái Chết mới được Sống Lại, chúng ta cũng được vững tin và lạc quan dẫu có những khó khăn, gian nan và thử thách vì biết rằng “Hạt giống có chết đi mới sinh ra bông hạt khác”(x.Ga 12,24). Cũng vậy, có ngày Thứ 6 Tuần Thánh mới có Ngày Chúa nhật Phục Sinh. Nhờ đặt nền tảng vào chân lý Phục Sinh như vậy, chúng ta cố gắng sống vui, lạc quan và hy vọng mỗi ngày dù có bóng đêm của tội lỗi bao phủ bởi tính xác thịt, bởi những cám dỗ của ma quỷ cũng như bởi những cái hư nát của thế gian. Đặc biệt, Đức Ki-tô Phục Sinh đã đem lại sự bình an đích thực cho các môn đệ nói riêng và mỗi chúng ta nói chung: “Bình an cho anh em” (x, Lc 24,37; Ga 20,19.21.26). Sự bình an mà không một ai hay thứ gì có thể đem lại. Nếu mỗi chúng ta biết sống mầu nhiệm Phục Sinh với những hiệu quả mà Đức Ki-tô đem lại, chúng ta sẽ trở nên chứng nhân của niềm vui và niềm hy vọng cho thế giới nhiễu nhương này. Vậy,
3/ Chúng ta phải sống mầu nhiệm Phục sinh như thế nào để loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay?
Như chúng ta đã biết, Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô đã đem lại cho chúng ta niềm vui trọn vẹn. Niềm vui vì từ nay chúng ta không còn sống trong sự sợ hãi và thất vọng nữa. Niềm vui Phục Sinh là nguồn sống giúp chúng ta biết vượt qua những gian nan, khổ đau và những thất bại trong cuộc đời vì biết rằng ‘lửa phải thử vàng’ và ‘gian nan mới thử đức’, vì phải trải qua thập giá mới đến vinh quang là vậy. Chính vì thế, người Công Giáo sống và làm việc nơi mọi môi trường không được phép buồn bã và thất vọng nhưng phải luôn luôn tin tưởng, lạc quan và vui vẻ trong mọi hoàn cảnh. Nhờ nét mặt vui tươi và ánh mắt dễ thương như thế, mọi người mà chúng ta gặp trên đường đời sẽ nhận ra được dấu chỉ của niềm vui và hy vọng của Đạo Công Giáo.
Mặt khác, người sống mầu nhiệm Phục Sinh là người luôn ý thức có Chúa luôn hiện diện với mình. Mà có Chúa hiện diện là có sự bình an và niềm vui trào dâng. Một khi đã có niềm vui và bình an từ Chúa, người ki-tô hữu cố gắng trở nên ‘vui người vui, khóc với người khóc’, trở nên người dễ mến và hoà nhã với mọi thành phần mà không phân biệt lương giáo hay sắc tộc. Như vậy, sự hiện diện của chúng ta là để trao ban niềm vui và bình an cho người khác thay vì tin buồn, ‘tin vịt’, tin nhảm nhỉ, hay sự bất an và bất hạnh cho họ. Điều này, Chúa Giê-su cũng mong các môn đệ khi đến nhà nào thì hãy nói: “Bình an cho nhà này” là vậy (x.Lc 10, 1-12). Phải chăng sống mầu nhiệm Phục sinh là hiện diện và trao ban sự bình an và niềm vui cho những người mà chúng ta gặp gỡ trên đường đời? Phải chăng đây là một trong những cách thức loan báo Tin Mừng hữu hiệu mà Chúa và Giáo Hội đang mong ước.
Hơn nữa, người sống Mầu nhiệm Phục Sinh là người sẵn sàng ra đi và gặp gỡ anh chị em đồng loại trong mọi nơi mọi lúc mà không ngần ngại khó khăn và cản lối. Vì một khi đã được gặp Đấng Phục Sinh nơi đời sống cầu nguyện, nhất là nơi Thánh Lễ hằng ngày, ít nhất là ngày Chúa Nhật, mà chúng ta lại không thể không gặp hình ảnh của Chúa nơi mọi người, nhất là nơi người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền và già cả neo đơn. Như thế, vô tình hay hữu ý, chúng ta đang làm cho nhiều người nhận ra được gương mặt của một vị Thiên Chúa vô hình ngang qua sự hiện diện hữu hình của con cái Chúa nơi đời sống hằng ngày.
Bên cạnh đó, người sống mầu nhiệm Phục sinh là người sống mối tình tương thân tương ái trong mọi nơi và mọi lúc mà không phân biệt bất kỳ đối tượng nào cả. Vì tất cả đều là anh em dưới mái nhà chung trong sự quan phòng của vị Thiên Chúa, Đấng sáng tạo muôn loài muôn vật. Người sống mầu nhiệm Phục Sinh là người đặt yêu thương và tha thứ lên trên hết trong sự gặp gỡ, đối thoại và tiếp cận. Phải chăng đây là bài học đáng ghi nhớ cho mỗi chúng ta khi muốn giới thiệu Thiên Chúa Tình Yêu ngang qua Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng lập nên Đạo Yêu Thương cho anh chị em đồng loại, nhất là những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
Như vậy, sống mầu nhiệm Phục Sinh là trở nên chứng nhân của niềm hy vọng. Vì xuất phát từ nguồn sung mãn là Thiên Chúa, nguồn hy vọng duy nhất cho chúng ta về sự sống đời đời, chúng ta sẵn sàng hy sinh, dấn thân và phục vụ trong mọi hoàn cảnh cho mọi người dầu chất chứa những chông gai, bão táp, vấp ngã, ngay cả cái chết trên nẻo đường. Vì thế, người có niềm vui Phục Sinh là người luôn để sự bình an, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa chiếm đoạt và hướng dẫn hầu có thể trở nên ánh sáng Phục sinh đốt cháy trong mọi ngõ ngách nơi vùng ngoại biên những tâm hồn khô khan, nguội lạnh và u tối.
Quả thật, mừng mầu nhiệm Đức Giê-su Ki-tô Sống Lại, chúng ta rất đỗi vui mừng và hân hoan ca tụng tình yêu khôn dò thấu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Vì từ nay, chúng ta không còn sợ hãi và buồn bã bởi sự tội cũng như sự chết, nhưng chúng ta sẽ được giải thoát nhờ sự Sống Lại của Đức Giê-su Ki-tô. Tuy nhiên, để đón nhận được ân sủng của Đấng Phục Sinh, chúng ta đòi buộc phải chấp nhận chết đi cái tôi ích kỷ, cái tôi tội lỗi, con người cũ với bao nhiêu bất xứng, yếu đuối và xấu xa hằng ngày. Nhờ đó chúng ta trở nên những chứng nhân sống động cho thế giới này ngang qua ‘cách sống mới’ bởi những ân lộc của Chúa Phục Sinh là hy vọng hơn là thất vọng, là yêu thương hơn ghen ghét, là lạc quan vui sống hơn chan chứa nỗi buồn, là bình an hoan lạc hơn là buồn bã kêu than…
Linh mục Phaolô Phạm Trọng Phương
64. Sự cứu độ của con chính là Đức Chúa Giê-su.
(Thánh Jerome)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một quyền sư truyền thụ cho để tử, nói:
- “Lúc đánh quyền, tiên vàn đừng đánh trên vai của người ta, nếu đánh lầm một quyền, thì không thể không chết người được”.
Đệ tử hỏi:
- “Tại sao lại ghê gớm thế?”
Quyền sư nói:
- “Mới đầu tâm của con người thì ở trên ngực, mặc dù có nghiêng, nhưng chỉ nghiêng chút ít; thời nay tâm của con người bất chính nên đều đem nó để trên vai, nếu dụng tâm đánh một quyền không phải là đánh chết họ sao?”
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 5:
Tâm là một điểm tuy nhỏ nhưng quan trọng, nên người ta mới gọi là tâm điểm.
Tâm của con người càng quan trọng hơn vì nó nói lên nhân cách của một con người:
- Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên.
- Tâm gian dối thì cuộc sống bất an.
- Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.
- Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.
- Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá…
Cho nên, người Ki-tô hữu không những đem tâm của mình đặt ngay trên ngực để yêu thương, mà còn:
- Đặt trên tay để giúp đỡ người khác.
- Đặt trên mắt để nhìn thấy nổi khổ của tha nhân.
- Đặt trên chân để mau mắn chạy đến với người cùng khổ.
- Đặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
- Đặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác.
- Đặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em chị em.
Thân xác không tim thì thân xác chết, làm người không có tâm thiện thì cuộc sống chỉ có hận thù và là mối nguy hiểm cho mọi người.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Mừng: Ga 18, 1 – 19, 42.
“Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.”
Bạn thân mến,
Hôm nay Giáo Hội Công Giáo trên toàn thế giới tưởng niệm cuộc khổ nạn và chết trên thập giá của Đức Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng cứu chuộc nhân loại khỏi ách tội lỗi và tử thần. Hôm nay, mỗi giáo dân theo luật định của Giáo Hội phải ăn chay kiêng thịt, để thông phần đau khổ với Đức Chúa Giê-su và với những anh chị em bất hạnh trong xã hội, trong tâm tình ấy, tôi xin chia sẻ với bạn hai cảm nghiệm trong cuộc sống sau đây:
1. Chia sẻ đau khổ với Đức Chúa Giê-su Ki-tô.
Thông phần với những đau khổ của Đức Chúa Giê-su chịu đóng đinh là bổn phận của chúng ta, và việc chia sẻ này luôn xảy ra hằng ngày trong cuộc sống của người Ki-tô hữu, bởi vì chính Ngài đã dùng sự đau khổ và sự chết để cứu chuộc chúng ta.
Đức Chúa Giê-su là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là người tôi trung của Thiên Chúa, ngày hôm nay của hơn hai ngàn năm trước đang đứng trước mặt quan tòa Phi-la-tô để bị chính những người mà Ngài đã dạy dỗ, thi ân giáng phúc, giờ đang vu khống đang kết án Ngài; ngày hôm nay của hơn hai ngàn năm trước Đức Chúa Giê-su bị án phạt vác cây thập giá đi lên đồi Gol-gô-tha để chịu đóng đinh chân tay vào thập giá; và ngày hôm nay của hơn hai ngàn năm trước, Đức Chúa Giê-su chịu chết trên cây thập giá và hoàn tất việc cứu chuộc nhân loại của Ngài.
Không còn hình ảnh nào đau khổ hơn cho bằng thân xác quằn quại đau đớn trên thập giá đợi thần chết đến từng giây phút, không có sự đau khổ nào cho bằng người mẹ đứng dưới chân thập giá của con mình, để nhìn thấy con mình mà một giọt máu cũng không còn đang phơi nắng đợi chết, tất cả những hình ảnh đó vẫn còn in đậm trong tâm trí của những người Ki-tô hữu, của bạn và tôi, và chính những đau khổ ấy đem lại ơn cứu độ cho nhân loại...
Hãy thông phần những đau khổ với Đức Chúa Giê-su trong cuộc sống hằng ngày của mình, những đau khổ đó chính là bình thuốc thơm của bà Ma-ri-a Mác-da-la lau sạch và làm giảm đau nơi vết thương của Đức Chúa Giê-su...
2. Chia sẻ đau khổ với tha nhân.
Ngày hôm nay, những đau khổ ấy của Đức Chúa Giê-su vẫn còn diễn ra hằng ngày trước mắt chúng ta nơi những người anh em chị em bất hạnh, họ chính là hình ảnh đau khổ của Đức Chúa Giê-su trên thập giá, họ chính là những Giê-su đang vác những cây thập giá quá sức mình do những bất công của người đời chất lên vai họ, họ đang bị quất từng ngọn roi vu khống cáo gian vào tâm hồn do những người anh em chị em đồng loại của họ, họ đang cất bước mệt nhọc làm thêm giờ, lao động nặng nhọc và bị coi rẽ vì những ông chủ bất công và tàn ác...
Ngày hôm nay, chúng ta hãy mang trong mình quả tim đau khổ của Đức Mẹ Ma-ri-a đứng dưới chân thập giá, nhìn thấy những đau khổ của người bất hạnh để an ủi, cảm thông và giúp đỡ họ; ngày hôm nay chúng ta hãy mang trong mình quả tim của những người phụ nữ thành Giê-ru-sa-lem biết cảm thông trước những đau khổ của tha nhân, để được sự an ủi của Đức Chúa Giê-su trong cuộc sống của mình...
Bạn thân mến,
Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày đau khổ và chết của Đức Chúa Giê-su ngày xưa, nhưng là ngày cứu thoát của chúng ta ngày hôm nay, do đó, khi bạn và tôi tham dự những nghi lễ của ngày hôm nay, từng câu từng chữ của bài thương khó của Đức Chúa Giê-su mà bạn đang nghe, bạn hãy đặt mình vào những nhân vật trong bài Tin Mừng, để coi tâm tình của mình, cuộc sống của mình là ai trong năm hạng người đang kết án Đức Chúa Giê-su: các thầy thượng tế, người biệt phái Pha-ri-siêu, các kinh sư, các thầy thông luật và dân chúng.
Chia sẻ những đau khổ với tha nhân là thông phần những đau khổ với Đức Chúa Giê-su, bởi vì họ là hình ảnh đau khổ của Ngài trên thập giá vào ngày thứ sáu buồn thảm năm xưa ấy trên đồi Gol-gô-tha...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
65. Các con muốn cứu linh hồn mình thì phải cưỡng bức mình phải nổ lực.
(Thánh Alphonsus de Liguori)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một tên phá gia chi tử, thích phóng sinh, làm cho long vương cảm động, bèn sai quỷ dạ xoa đem tặng cho anh ta một báu vật gọi là “bài hải can”, chỉ cần đem lắc trong biển thì biển khô và tiền vàng lộ ra.
Người ấy được báu vật, bèn mỗi ngày đi biển lắc, không bao lâu thì trở thành người giàu có.
Sau đó, báu vật mất tiêu, phá gia chi tử bất đắc dĩ phải dùng ngón tay để trong nước biển lắc tới lắc lui, quỷ dạ xoa thấy thì nói với hắn ta:
- “Tiền của ông hết rồi, còn lắc gì vậy?”
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 6:
Con người ta dù nghèo hay giàu thì cũng đều có gặp vận may một lần trong cuộc đời, người ta gọi đó là cơ hội. Có người gặp cơ hội thì làm giàu nên gọi là gặp hên, có người bỏ qua cơ hội nên gặp vận xui, xui và hên đều ở trong cơ hội mà ra.
Thực ra, cơ hội đến rất nhiều lần cho người lầm lạc biết đường hoán cải đời sống, cơ hội cũng đến nhiều lần cho những người muốn tiến thân trong cuộc đời, cơ hội cũng đứng đợi trước cửa nhà của người cần cù mẫn cán để họ công thành danh toại..v.v….chỉ có những ai vì quá tự tin vào sức lực tài trí của mình nên mới không thấy cơ hội đang đến với mình mà thôi.
Thiên Chúa là chủ nhân của cơ hội, chính Ngài luôn tạo nhiều cơ hội cho nhân loại nhận biết Ngài hiện diện trong vũ trụ, chính Ngài đã gieo rắc cơ hội trong cuộc sống của con người, và chỉ những ai thành tâm thiện chí, khiêm tốn và biết cầu nguyện mới thấy được cơ hội mà Thiên Chúa dành cho họ mà thôi.
Người Ki-tô hữu là người có nhiều cơ hội nhất để trở nên đồng hình đồng dạng với Đ ức Chúa Giê-su, vì họ được học hỏi và biết cách nắm lấy cơ hội để nên thánh mà Đ ức Chúa Giê-su đã dạy qua giáo hội và trong Thánh Kinh và trong cuộc sống của họ…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Anh Chị Em thân mến,
Việc tưởng niệm Chúa Kitô chịu chết và sống lại đạt tới cao điểm trong đêm Vượt Qua nầy Đây là đêm mà người Dothái ăn thịt chiên và được cứu thoát. Đây là đêm mà Chúa Kitô đã đập tan xiềng xích của tội lỗi và sự chết. Đây là đêm mà Giáo Hội từ thuở ban đầu vẫn chờ mong Chúa đến.
Đêm Canh Thức hôm nay gồm có 4 phần chính:
Phần I:
Là nghi thức rước nến Phục Sinh. Nến nầy, tượng trưng cho đám mây sáng khi xưa đã dẫn dân Dothái trên đường về Đất Hứa Ngày nay, nến nầy tượng trưng cho Chúa Kitô là Ánh Sáng thế gian.
Phần II:
Là phần Phụng Vụ Lời Chúa. Đêm nay, chúng ta sẽ nghe ôn lại tất cả lịch sử của ơn cứu độ từ buổi khai thiên lập địa, đến biến cố dân Dothái qua Biển Đỏ cho đến biến cố Chúa Sống Lại và Lên Trời.
Phần III:
Là phần Phụng Vụ Phép Rửa Tội. Hội Thánh khắp nơi trong đêm nay hoặc là ngày mai, vui mừng đón tiếp Anh Chị Em Tân Tòng, sau một thời gian đã được chuẩn bị, sẵn sàng được đón nhận vào Giáo Hội Chúa qua bí tích rửa tội Dịp nầy, toàn thể Cộng Đoàn dân Chúa sẽ lặp lại lời cam kết khi chịu phép rửa tội Qua phép rửa tội, chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, để rồi cũng được sống lại với Người trong một cuộc sống mới.
Phần IV:
Là phần Phụng Vụ Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể là tiệc thánh của giao ước mới Trong giao ước nầy, các môn đồ nhận ra Đức Kitô khi Người bẻ bánh. Ngài đã chết và sống lại và Ngài dùng chính Ngài làm của nuôi trần gian cho tới khi Ngài trở lại để phán xét trần gian.
Giờ đây, chúng ta cùng với Giáo Hội hoàn vũ mở đầu phần canh thức đêm nay, bằng việc tham dự nghi thức làm phép nến Phục Sinh. Kính mời Anh Chị Em hướng về phía cuối Trung Tâm, để tham dự nghi thức làm phép lửa và nến.
Hãy thắp lên ngọn lửa đức tin, soi sáng cho chính chúng ta và những người sống xung quanh, để họ cùng nhận biết Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Hãy thắp lên ngọn nến tâm hồn để hâm nóng tình nhân loại, để Chúa Kitô là Ánh Sáng luôn chiếu giãi trong lòng ta và lòng của thế giới nầy, cho đến khi chúng ta cùng tham dự bàn tiệc vĩnh cửu trên thiên quốc.
*********************************************************
Sau khi Linh mục đã làm phép nến, lửa mới và đi kiệu nến vào Trung Tâm (Nhà Thờ), Ngài sẽ đặt cây nến vào chỗ đã được chuẩn bị sẵn và sẽ xông hương cây nến Phục Sinh xong thì Dẫn Lễ Viên sẽ chuẩn bị tâm hồn giáo dân vào bài ca MỪNG VUI LÊN với những lời sau đây:
Anh Chị Em thân mến,
Giờ đây, Linh mục sẽ thay mặt toàn thể Cộng Đoàn dân Chúa công bố TIN MỪNG PHỤC SINH: Chúa đã sống lại khải hoàn. Ngài đã chiến thắng quyền lực của bóng tối và sự chết. Anh Chị Em hãy mừng vui lên, vì Chúa đã sống lại.
Sau bài ca Mừng Vui Lên là phần Phụng Vụ Lời Chúa. Trước mỗi bài đọc sẽ có một lời nguyện. Sau mỗi lời nguyện Dẫn Lễ Viên mới đọc bài giới thiệu dẫn vào bài đọc.
TRƯỚC BÀI ĐỌC I VỀ SÁNG THẾ KÝ:
Không có Chúa, tất cà đều là hư vô. Con người ngày hôm nay đang quên điều đó. Vì yêu thương Chúa đã dựng nên tất cả. Bài đọc đầu tiên trình bày cho chúng ta thấy công trình Chúa đã dựng nên. Công trình này được viết theo thể văn dễ hiểu của thời bấy giờ.
TRƯỚC BÀI ĐỌC II VỀ ABRAHAM SÁT TẾ ISAAC:
Vâng nghe lệnh Chúa truyền, Abraham đem con là Isaác đi hiến dâng cho Thiên Chú? Chính vì sự vâng lời nầy mà Chúa đã ban cho ông một dòng dõi đông đảo con cháu sau nầy.
TRƯỚC BÀI ĐỌC III VỀ DÂN DOTHÁI VƯỢT QUA BIỂN ĐỎ:
Biển Đỏ, đánh dấu một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân Dothái; kỷ nguyên được thoát vòng nô lệ để tự do tiến về miền Đất Hứa. Họ đã vượt qua Biển Đỏ, tiến đi trong niềm hân hoan với lòng đầy tin tưởng.
*****************************************************
Sau bài đọc III thì ca đoàn sẽ hát bài đáp ca và Linh mục sẽ đọc lời nguyện. Các cây nến trên bàn thờ sẽ được đốt từ cây nến Phục Sinh. Sau đó, Linh mục sẽ xướng lên bài Vinh Danh.
Sau Kinh Vinh Danh và Lời Nguyện Đầu Lễ, Dẫn Lễ Viên sẽ đọc bài dẫn vào Bài Đọc IV đó là bài Thánh Thư.
TRƯỚC BÀI ĐỌC IV (THƯ THÁNH PHAOLÔ GỞI TÍN HỮU RÔMA)
Cùng đích đời sống của người Kitô hữu là chính Chúa. Chính biến cố Chúa sống lại đã mang lại cho đời sống của những người tin vào Chúa Kitô một ý nghĩa sống đích thực.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Khi những người lính canh Dothái lăng tảng đá đóng kín cửa mồ Đức Kitô, họ tưởng thế là xong lịch sử của một Giêsu thành Nazarét. Nhưng không, ý Chúa nhiệm mầu. Kính mời Anh Chị Em nghe Tin Mừng Sống Lại của Chúa chúng ta sau đây của thánh sử Marcô.
**********************************************************
Nếu có ai được rửa tội thì Linh mục sẽ cử hành sau bài giảng. Nếu không thì cộng đoàn sẽ tuyên xưng đức tin. Sau phần tuyên xưng đức tin thì Linh mục sẽ đi rải nước thánh mới được làm phép trên dân chúng để nhắc nhở ơn phép rửa tội.
Sau đó, thánh lễ được tiếp tục với phần dâng lễ vật.
KHÔNG CÓ LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN TRONG THÁNH LỄ VỌNG PHỤC SINH.
Lưu Ý: Dẫn Lễ Viên Lễ đêm nay, nhớ mang theo đèn Pin vì khi làm phép lửa các đèn trong Nhà Thờ - Trung Tâm sẽ tắt. Cho nên cần đèn để đọc bài mở đầu nghi thức. Cám ơn.
THÁNH THƯ: Rm 6, 3-11
“Chúa Kitô, một khi tự trong cõi chết sống lại, Người không chết nữa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của người, để như Đức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế.
Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy. Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi.
Mà nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Đáp: Alleluia, alleluia, alleluia.
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.
PHÚC ÂM NĂM B: Mc 16, 1-8
“Đức Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, đã sống lại”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Người đến xứ Galilêa trước các ông. Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước”. Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi.
Đó là lời Chúa.
(Suy niệm lễ Phục sinh)
Tất cả mọi người trên thế giới thuộc đủ mọi chủng tộc, quốc gia, tôn giáo, ở bất kỳ thời đại nào, từ xưa cũng như hiện nay… đều có một kẻ thù chung hết sức nguy hại và rất đáng sợ.
Kẻ thù đó là ai?
Đó là sự chết, thường được người đời đặt cho nó một danh hiệu khủng khiếp là thần Chết.
Đúng thế, thần Chết là kẻ thù chung của nhân loại, là kẻ thù truyền kiếp của loài người và nhân loại đã đồng tâm hiệp lực trong việc đẩy lui hoặc diệt trừ thần Chết càng sớm càng tốt.
Suốt dòng lịch sử loài người, nhân loại đã đem hết tài năng, trí tuệ, công sức của mình để bào chế thuốc men, tìm kiếm đủ thứ phương thức trị liệu, nghiên cứu những phương thuốc trường sinh… nhằm kéo dài tuổi thọ, nhằm đẩy lùi sự chết, nhưng đã hoàn toàn thất bại trước thần Chết.
Thế thì biết cậy dựa vào ai để đánh bại kẻ thù chung này? Ai là siêu nhân trên địa cầu này có thể tiêu diệt hay đẩy lùi thần Chết?
Thưa, chỉ có một Đấng duy nhất có thể đánh bại thần Chết mà thôi. Vị này là một Con Người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa, đó là Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su chiến thắng Thần Chết khi đến thành Na-in, Ngài thấy người ta khiêng đi chôn người thanh niên con trai một bà goá; mặc dù anh này đã lọt vào tay Tử thần nhưng Chúa Giê-su vẫn dành lại được, đưa anh về với thế giới người sống (Lc 7, 11-17).
Chúa Giê-su chiến thắng thần Chết khi làm cho con gái ông Giai-rô, mặc dù bé đã chết, Ngài vẫn đưa bé trở về với cuộc sống (Mc 15, 21-43).
Chúa Giê-su chiến thắng thần Chết khi La-da-rô đã nằm trong họng thần Chết 4 ngày rồi, vậy mà Chúa Giê-su vẫn giải cứu anh khỏi móng vuốt tử thần để cho anh được sống (Ga 11, 1-45).
Và đặc biệt là trong cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, tử thần tưởng đã tiêu diệt Chúa Giê-su, hạ đo ván Chúa Giê-su, khiến Ngài phải tắt thở trên thập giá, rồi bị mai táng trong mồ... Các môn đệ của Ngài tỏ ra tuyệt vọng vì chủ tướng của mình đã thảm bại trước thần Chết. Thần Chết tưởng là đã chiến thắng Chúa Giê-su. Thế nhưng nó đã lầm. Chúa Giê-su đã sống lại trong vinh quang và mở đường vào thiên quốc.
Thế là từ đây, một trang sử mới bắt đầu, một kỷ nguyên mới khởi sự, đó là kỷ nguyên Chúa Giê-su chiến thắng tử thần và giải thoát muôn người khỏi tai ách của nó, không những giải thoát mà còn đưa muôn người vào cõi sống đời đời vinh quang bất diệt.
Cuộc chiến thắng oanh liệt của Chúa Giê-su trước tử thần đem lại cho chúng ta nhiều hy vọng và niềm vui vô cùng lớn lao như lời Thánh Phao-lô nói:
Nhờ Chúa Giê-su chiến thắng thần Chết, “cái thân xác phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử.
Và “sẽ ứng nghiệm lời Kinh thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi… Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? … Hãy tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng sự chết nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta (I Cr 15, 54- 57).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã chiến thắng thần Chết, đã giải thoát chúng con khỏi móng vuốt tử thần và mở cửa thiên đàng cho chúng con. Chúng con xin tôn vinh chúc tụng Chúa. Chúng con tôn thờ Chúa là chủ tướng của chúng con. Xin cho chúng con bền tâm theo Chúa đến cùng, tuân giữ luật mến Chúa yêu người như Chúa đã dạy, để được Chúa dẫn vào cõi phúc đời đời vinh hiển. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Dẫn Nhập: Anh Chị Em thân mến
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội Mẹ Thánh, chúng ta hân hoan và hiệp thông cử hành Mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô. Biến cố phục sinh của Đức Kitô là chân lý nền tảng đức tin người Kitô hữu.
Qua sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài đã mở cửa mồ, đẩy lui thần chết và tội lỗi đã và đang bao trùm thế giới. Ngài đã biến đau khổ là con đường dẫn đến vinh quang. Biến ngôi mộ là điểm tựa bậc lên một sức sống mới dẫn đưa vào cuộc sống mới trường sinh.
Như vậy, qua cuộc sống mới trong mùa phục sinh, chúng ta khước từ những tính nết xấu, chôn những thói quen không tốt, tội lỗi vào ngôi mồ và bừng lên cuộc sống mới trong mùa Phục Sinh đang đến.
Với những tư tưởng chuẩn bị, chúng ta cùng với ca đoàn xướng lên bài ca đầu lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh khải hoàn hôm nay.
Trước Bài Đọc I:
Sách Tông đồ Công Vụ trình bày cho chúng ta việc thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng Phục Sinh: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã nhập thể, chịu chết và nay đã sống lại, cho những ai tin vào danh thánh Đấng đã phục sinh sẽ được ơn cứu độ.
Trước Bài Đọc II:
Trong bài đọc gửi dân thành Colôsê, thánh Phaolô trình bày: qua Phép Rửa, chúng ta đã chết cho con người cũ là tội lỗi và chúng ta được tham dự vào sự sống mới của Chúa Kitô Phục Sinh. Vì thế, chúng ta cuộc sống của chúng ta luôn tìm kiếm những sự trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Trước Bài Tin Mừng:
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện bà Maria Mađalêla đi thăm mồ Chúa. Không thấy xác Chúa, bà về báo cho tông đồ Phêrô và Gioan. Hai ông cùng chạy đến mồ, và khi Gioan nhìn thấy ngôi mộ trống, ông đã tin rằng Chúa Kitô đã sống lại.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa Cha toàn năng đã làm Đức Kitô sống lại từ cõi chết, để giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tử thần và ban cho chúng ta sự sống mới. Trong niềm tin và phó thác, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin sau đây:
1. Chúng ta cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn trong Giáo Hội, luôn vững tin vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, và nhiệt thành trong việc loan báo Tin Mừng Phục sinh cho thế giới bằng lời rao giảng, đời sống cầu nguyện và gương sáng đức tin. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Chúng ta cùng cầu xin cho các Kitô hữu luôn nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng để ánh sáng của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh chiếu tỏa trên khắp hoàn vũ, để thế giới có thêm nhiều nguời đón nhận tin mừng phục sinh. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin Chúa cho mỗi Kitô hữu biết sống tín thác nơi tình yêu Thiên Chúa trong mọi trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đức tin được tôi luyện trong thử thách và được tăng trưởng trong mầu nhiệm Vượt Qua và Phục Sinh của Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người trong Cộng đoàn-Giáo Xứ luôn ý thức mình là thành phần của Dân Thánh Chúa, luôn sống chan hòa tình yêu của Chúa Giêsu Phục Sinh. Đem tình yêu của Chúa Kitô phục sinh đến cho mọi người sống chung quanh. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các tìn hữu của Chúa đã qua đời, những linh hồn mồ côi không còn ai để nguyện cầu, nhất là những nạn nhân của Covid-19. Xin cho các ngài được hưởng niềm vui Phục Sinh vĩnh cửu trên thiên quốc. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Chúa, Chúa đã chết và sống lại để cứu độ trần gian. Xin giúp chúng con biết đón nhận ơn Phục Sinh và xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, để triển nở ơn Phục Sinh trong cuộc sống luôn đổi mới, thánh thiện và mang niềm vui phục sinh đến cho những ai cần sống ơn phục sinh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Amen.
Gặp được Chúa, phần thưởng cho người bền đỗ đến cùng
(Ga 20, 1-20)
Kinh Thánh kể lại rằng, sau khi sống lại, người đầu tiên được Chúa Giêsu hiện ra, đó là bà Maria Madalêna. Mỗi tác giả Tin Mừng có một cách tường thuật khác nhau, nhưng tất cả đều có một điểm chúng, đó là miêu tả một hình ảnh bà Maria Madalena có một lòng yêu mến Chúa khi Ngài còn sống, và bền bỉ chờ điều gì xảy ra sau khi thân xác Chúa được mai táng trong mồ. Nhờ sự kiên trì đó, cuối cùng bà đã được toại nguyện, được nhìn thấy Chúa và được giao cho sứ vụ loan báo Tin Mừng phục sinh
Theo truyền thống, ta thường nghe nhiều giải thích cho rằng Đức Giêsu hiện ra cho người phụ nữ này, vì Ngài biết phụ nữ thường khó giữ được bí mật, chỉ cần nghe biết một thông tin nào họ lập tức sẽ nói cho người khác biết ngay. Điều này nghe rất hợp lý, nhưng có vẻ hơi hạ thấp danh giá của phụ nữ, và được hiểu rằng phụ nữ toàn là đối tượng “lắm chuyện”.
Tuy nhiên, qua lăng kính của các tác giả Tin Mùng, trong suốt thời gian xác Chúa được chôn cất trong mồ, ai nấy đều sợ hãi không dám xuất đầu lộ diện, chỉ có bà Madalena vẫn âm thầm ra mồ chờ xem một tin vui như lời Chúa đã hứa khi xưa. Quả thật Chúa đã cho bà thấy Ngài đã sống lại, bà đã trở thành người đầu tiên loan báo Tin Mừng phục sinh của Ngài. Các thần học gia hiện đại lý giải thêm, nếu Chúa hiện ra với nam giới không chắc họ đã tin và sẵn sàng hối hả chạy đi để tường thuật điều đã xảy ra cho các môn đệ. Tôi thích lối giải thích này, vì nó nói lên được ưu điểm, vai trò, phẩm giá và địa vị của phụ nữ trong xã hội, trong Giáo Hội, nhất là trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Trở lại với hình ảnh của bà Madalena, rất dễ dàng nhìn thấy, bà là người có một tinh thần gắn bó và tìm kiếm Chúa hết sức bền bỉ. Thánh Kinh cho ta thấy bà chính là người được Chúa chữa cho khỏi bảy quỉ ám và sau đó bà đã theo chân Chúa một cách sát sao. Thánh Kinh cho ta thêm thông tin, khi Chúa Giêsu bị bắt, bị giải đi đóng đanh và khi Ngài bị treo trên thập giá thì có mấy người phụ nữ đứng gần thập giá Chúa, trong đó có Đức Mẹ và bà Maria Madalena (Ga 19, 25). Đến khi xác của Ngài được hạ xuống và chôn cất trong mồ thì bà Madalena còn ở lại đó mà khóc lóc thảm thương (Mt 27, 6).
Người bà thương mến đã không còn nữa và thân xác Ngài đã được mai táng trong mồ. Trước cảnh tượng đó, bà rất đau lòng, ngày đêm khóc lóc và thương nhớ Ngài. Những ngày ấy chắc chắn bà không ăn, không ngủ và bồi hồi đợi chờ Thiên Chúa phục sinh, hay ít nhất bà muốn thấy điều gì sẽ xảy ra, vì hôm ấy đã ngày thứ 3 sau khi Đức Giêsu chịu chết. Bà và mấy người bạn mới ra mồ từ sáng sớm, vừa để được nhìn thấy Chúa, vừa để được chính mắt thấy điều kỳ diệu của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã hứa trước kia với họ.
Nhưng tiếc thay khi họ đến thì cửa mồ đã bị mở toang, người mà họ thương mến không còn nữa, chỉ thấy mấy miếng vải dùng để lượm xác còn đặt trong mồ. Nỗi buồn lại càng buồn thêm, lần này thực sự đã đưa đến cho bà Madalena và các bạn sự hoang mang, không những không thấy điều kỳ diệu của Thiên Chúa mà ngay cả thân xác được chôn cất ngay trong nấm mồ này cũng không còn nữa. Các bà lại than khóc...
Họ vừa đau buồn, hoang mang và sợ hãi liền hối hả chạy về báo tin cho các môn đệ. Khi các môn đệ đến mồ thấy cảnh tượng xảy ra như các bà vừa nói. Họ cũng không tránh khỏi sự hoang mang, chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra, và họ đã trở về nhà trong vô vọng.
Điều đáng được nhấn mạnh ở đây, đó là sau khi không thấy xác của Thầy mình nữa thì các môn đệ trở về nhà, còn bà Maria Madalena thì không đành lòng, “bà đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc” (Ga 20: 11). Đúng là một sự kiên nhẫn khiến ai nấy phải kính phục, cho dù ai có tuyệt vọng, cho dù những môn đệ, những kẻ thân cận của Đức Giêsu có rời khỏi Thầy mình đi chăng nữa, thì bà Maria Madalena vẫn một mực kiên tâm đợi chờ. Tâm hồn bà mòn mỏi ước mong, tình huống có vẻ rất vô vọng, có vẻ không khả quan chút nào, không phải là bà đang trong cảnh mơ màng mà ai cũng biết sự thật là xác Đức Giêsu không còn đó nữa. Nhưng bà Maria Madalena vẫn cứ đợi, bà nhất quyết không bỏ cuộc mà tin chắc sẽ có điều gì khả quan hơn. Vì thế, “bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mồ” (Ga 20:12).
Một hành động mà chúng ta thường thấy khi có người thân chúng ta qua đời, khi thân xác của họ đã được đưa đi an táng, nhưng chúng ta vẫn lặng lẽ ngắm nhìn chiếc giường, chiếc ghế hay nơi mà ngày thường người thân chúng ta thường ở đó. Trong lúc nước mắt của bà Maria Madalena đang đầm đìa, bà nhìn vào mộ, thấy 2 vị thiên thần ngồi đó và họ bắt đầu trò chuyện với bà.
Thiên thần hỏi: “Này bà, sao bà khóc?” (Ga 20, 15). Bà Maria thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Chúa ở đâu!” (Ga 20, 15).
Nếu theo cách tường thuật của Gioan thì thiên thần vẫn không báo cho bà Maria về sự kiện Chúa đã phục sinh, nhưng ít ra cũng cho chúng ta thấy được bà Maria coi Chúa như là vị thầy, vị Chúa của mình chứ không giống như có người lý giải rằng giữa Chúa Giêsu và bà Maria có một tình cảm nam nữ.
Sau khi nói chuyện với thiên thần, như một linh cảm, bà quay mặt lại, thì nhìn thấy Đức Giêsu đứng đó. Nhưng vì bà đã khóc quá nhiều, vì nước mắt hãy còn đầm đìa khiến bà nhìn không rõ, hoặc thân xác Chúa Giêsu sau khi sống lại đã thay đổi, khiến bà không nhận ra Thầy mình, vì thế bà đã tưởng rằng đấy là một người làm vườn. Nhưng lúc này đúng là lúc sự bền bỉ tìm kiếm của bà được đền đáp. Lúc này đây là lúc lòng mến được lấp đầy, lúc này đây là lúc nỗi đau mất mát của bà được “chữa lành”. Đức Giêsu gọi chính tên bà “M-a-ri-a” (Ga 20, 16).
Một tiếng gọi thân thương như hồi nào Chúa đã dùng để gọi bà, một tiếng nói và âm thanh của Chúa thật là gần gũi để rồi khiến bà hết sức vui mừng mà chạy đến ôm chầm lấy chân Thầy mình và kêu lên “Ráp-bu-ni” nghĩa là “Lạy Thầy” (Ga 20,16). Một niềm vui không giống như một niềm vui bình thường để bà nhảy tưng lên và hét vang như các phụ nữ khác thường tỏ bày. Nhưng là một niềm vui đã trải qua nỗi đau lâu ngày, một niềm vui không dễ dàng được đổi ngay bằng tiếng cười mà phải được tiếp tục bằng những tiếng nức nở dài sau đó. Bà không dám nhìn thẳng vào dung mạo của Thầy, mà sấp mình xuống dưới chân, trước là để tôn kính một vị thầy, sau nữa cũng là để dấu diếm những giọt nước mắt không ngừng rơi vì vui sướng.
Thử đặt lại câu hỏi tại sao bà Maria Madalena lại bền bỉ chờ đợi được như vậy để sau đó được Thiên Chúa tỏ mình ra, được Thầy Giêsu hiện ra báo hiệu sự Phục sinh của Ngài? Sự bền chí không chỉ để tin tưởng vào một điều gì đó sẽ xảy ra trong tương lai, đôi khi nó còn là những kết quả của những kinh nghiệm trong quá khứ. Bà Maria Madalena đã bền bỉ chờ đợi giây phút được nhìn thấy Chúa trong vinh quang, vì trong quá khứ bà được Chúa yêu thương và chữa lành. Trong tâm thức của bà, Đức Giêsu là một vị Thiên Chúa nhân từ bênh vực cho bà và dạy bảo bà “hãy đi và đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11).
Quả vậy, một con người đã bị thần lực ma quỉ thống trị, khiến ai nấy đều ghét bỏ và đòi ném đá cho đến chết. Một tình trạng tưởng chừng như không bao giờ được coi là một con người nhưng nhờ vào lòng nhân từ và tha thứ của Chúa Giêsu, mà cuộc đời của bà Maria Madalena đã được thay đổi hoàn toàn. Nhờ vào sự tin tưởng của Chúa Giêsu bà đã được trở lại làm người, giống như mọi người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã trả lại cho bà tất cả: danh dự và phẩm giá của một con người.
Vâng, chỉ có Ngài mới có khả năng và mới sẵn sàng trả lại tự do cho bà, chỉ có tình yêu của Giêsu mới biến đổi được con người của bà. Qua Đức Giêsu bà đã trở nên một con người mới. Như thế, vì được đón nhận một phúc ân quá sức cao quí, chỉ có người đã nhận ra vị ban ân huệ đó cho mình là ai bà mới một mực quyết tâm tin tưởng gắn bó và một mực đợi chờ ngày vinh quang của Ngài.
Quả vậy, khi bà Maria Madalena nhận được niềm vui đó, bà hết sức vui mừng khi nhìn thấy Đấng xuất hiện trước mặt mình chính là Thầy Giêsu. Đấng mà bà yêu mến nay đã phục sinh, đối với bà đây là một niềm vui mừng không thế nào diễn tả. Hơn nữa, khi bà muốn ôm chầm lấy chân Chúa, thì Chúa lại phán với bà rằng: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, nên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của an hem” (Ga 20, 19).
Như thế, niềm vui của bà Maria Madalena phải là niềm vui của hết cả anh chị em. Tin Mừng bà được đón nhận, không chỉ để giữ lại cho riêng mình, nhưng bà đã hối hả đi loan báo cho anh em. Phần chúng ta, nhờ đức tin chúng ta cũng được đón nhận Tin Mừng phục sinh. Đây là một món quà hết sức có giá trị, là niềm vui quả thật lớn lao. Niềm vui đó và món quà đó sẽ trọn vẹn hơn khi chúng ta biết sẵn sàng chia sẻ cho anh em. Đây cũng là sứ vụ loan báo Tin Mừng của mọi tín hữu và của Giáo Hội chúng ta.
Cv 10,34.37-43; Cl 3,1-4; Mc 16,1-8
Cùng Chúa chiến thắng sự chết
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.
(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà MA-RI-A mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn tin là họ hãy trở về xứ Ga-li-lê để gặp Người tại đó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, cuối ngày Thứ Bảy và bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cùng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt nên gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi đã xuất hiện tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong mấy người đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40), có mặt khi mai táng và đã quan sát nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc mấy phụ nữ đã đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên gọi, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Hội Thánh sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian Đức Giê-su được môn đệ mai táng quá ngắn và được làm vội vã, nên mấy phụ nữ này đã phải mua thêm dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc của ngày Chúa Nhật, tức khoảng 6 giờ sáng.
- C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.
- C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một người phàm nữa.
- C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu thơm cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất mà dân Do thái sống lẫn lộn với các lương dân.
- HỎI:
So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: Anh La-da-rô, người con trai bà góa thành Na-in, con gái ông Gia-ia… có giống với thân xác loài người được sống lại vào ngày tận thế không?
- ĐÁP:
+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho ông Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, cho ông xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương nơi cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng cho thấy Người không phải là ma vì có xương thịt mà các ông có thể nhìn xem và sờ thấy. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiến của các ông (x Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà vẫn không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa nhà Tiệc Ly đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh cũng hiện diện ở khắp nơi nên dù không hiện diện cụ thể mà vẫn nghe được lời Tô-ma nói với các anh em môn đệ (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh tuy đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng thân xác Người có đặc tính thiêng liêng, nên người ta không thể xác định Người đang ở nơi đâu (x. Lc 24,51; Pl 2, 9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được khiêng đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh. Người ta sẽ bước vào một cuộc sống mới vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
2. CÂU CHUYỆN:
1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH XUA TAN BÓNG TỐI GIAN ÁC TỘI LỖI:
JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng một hôm đang thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa Kỳ. Giữa buổi diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".
Đèn tắt, sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên những tiếng hô: "Đã thấy!".
Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng.
Ông John Keller kết luận: "Nếu tất cả mọi người chúng ta hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng của tình thương và lòng tốt của chúng ta".
Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ dần dần bớt tối đi. Nếu tất cả mọi người đều thắp sáng lên ngọn đèn tin yêu của mình, thì thế giới này sẽ bừng sáng lên.
Mỗi tín hữu chúng ta đều có cây đèn đức tin, nếu được cháy sáng đức cậy và đức mến, thì mỗi gia đình, cộng đoàn Hội Thánh, và cả thế giới sẽ rực sáng lên tình thương, niềm vui và ơn cứu độ như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
2) CÂU CHUYỆN LỘT XÁC NÊN MỚI:
Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là SƠ-SIU ĐƠ MIU-Ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa giỡn trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông đang ngồi, và nằm im như chết. Đơ Miu-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Miu-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy dường như nó đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng dần lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn mới nhập bọn kia. Đơ Miu-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết rồi sống lại trong thời gian chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi phục sinh và đã hiện ra gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...
3) THANH TẨY MÙI HỔ DỮ:
Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp” như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, lại vừa huấn luyện thú của một đoàn xiếc. Người chồng, dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thú không thể thiếu mùi ấy, vì nhờ đó mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và ngoan ngoãn nghe theo cô. Rồi một hôm, hai vợ chồng giận nhau và cơn giận kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành bằng cách tẩy sạch mùi cọp bằng một loại nước hoa thơm phứ và hai người đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đến đêm hôm sau thì người vợ đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị trước đó chị đã thuần hóa được. Vì nó đã không còn nhận ra chị khi mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và chỉ trong phút chốc, chị đã bị tan xác dưới móng vuốt của con cọp mà chị hết lòng yêu thương.
Qua câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì thương chồng, chị đã chấp nhận tẩy rửa mùi cọp nơi mình và đã hy sinh mạng sống mình do hành động ấy. Đức Giê-su đã yêu và yêu đến cùng, nên đã hiến mạng sống mình vì chúng ta như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong Đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chịu mai táng vơi Đức Ki-tô, chôn vùi đi con người cũ tội lỗi với mùi dục vọng sai trái, để được sống lại với Người như lời thánh Phaolô: “Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).
4) TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH SẼ KHÔNG BUỒN SẦU VÌ MẤT NGƯỜI THÂN:
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: “Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giê-su”. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: “Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không hả mẹ?” Bà mẹ đáp: “Phải”. Bé hỏi tiếp: “Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại buồn và nói là em con đã mất?” Bà mẹ chợt tỉnh ra nên từ đó bà không còn cảm thấy đau buồn nữa, vì ý thức rằng con mình giờ đang vui hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.
1) Ý nghĩa của mầu nhiệm Phục Sinh:
a) Đức Ki-tô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với Người.
b) Người tín hữu cần sống niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh như thế nào?
Chết với Chúa Ki-tô là loại trừ con người cũ của chúng ta đang nằm dưới ách thống trị của các thói hư như tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để con người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô được lớn lên.
Sống lại với Chúa Ki-tô là mặc lấy Chúa Ki-tô như lời thánh Phao-lô: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).
Mặc lấy Chúa Ki-tô là có những tâm tình cao đẹp, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Ki-tô, biết thứ tha, yêu thương và chân thành phục vụ tha nhân như Chúa Ki-tô.
Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sau này sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Phục Sinh.
2) Chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:
a) Các môn đệ đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:
Sở dĩ các môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin. Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó nếu các ngài đã không gặp được Chúa Phục Sinh.
b) Các tín hữu hôm nay phải làm chứng cho Chúa như thế nào và bằng cách nào?:
- Làm chứng cho Chúa hôm nay không phải chỉ là thuật lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Đức Ki-tô đã chiến thắng thần chết, đã từ cõi chết sống lại mà chính chúng ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi ra sao.
- Làm chứng cho Chúa hôm nay là loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biểu lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa.
- Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người giống như các môn đệ Chúa xưa. Ngày nay, để được biến đổi giống như các ngài, chúng ta cần năng đến tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa, quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Rồi còn phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, đón nhận được Thần Khí Phục Sinh để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu như Người đã phán: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
4. THẢO LUẬN:
Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong! Nhưng lạy Chúa. Con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi... Thế mà trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông, và nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để ban ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
Ông đã thấy và đã tin
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2.Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Riêng đoạn Tin mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1: +Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày: Ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và khởi đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên đã gọi đó là ngày Chúa Nhật hay ngày của Chúa. +Sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2); Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). +Ma-ri-a Mác-đa-la: Đây là Ma-ri-a quê tại Mác-đa-la. Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía Tây Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét. Bà này đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Đức Giê-su (x. Lc 8,2). Số 7 xuất hiện khá nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái giáo và Kinh Thánh Tân Ước của Ki-tô giáo. Nó được coi là con số hoàn mỹ cả về số lượng lẫn tâm linh. Bà Ma-ri-a này là một trong những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và chứng kiến hai môn đệ mai táng Đức Giê-su (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô, là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Nên Ma-ri-a Mác-đa-la đã phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. +Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói chỉ có trong Tin mừng Gio-an. Một kiểu nói khiêm tốn: tác giả không muốn nhắc tên riêng của mình. +Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ nói theo suy luận tự nhiên khi nghĩ rằng có ai đó đã đến lấy xác Thầy và đưa ra khỏi mồ. “Chúng tôi” ám chỉ Ma-ri-a không đi một mình mà cùng đi với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: +Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ thông báo mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. Điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông này. +Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản vì ông còn trẻ nên khỏe hơn và cũng vì có lòng mến Thầy hơn.
-C 5-6: +Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. +Nhưng không vào: Có thể Gio-an chờ để nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông đang bàng hoàng trước sự kiện cửa mộ mở và mải suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô kịp chạy đến nơi. +Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô vốn tính quả quyết nên đã lập tức vào mộ khi vừa đến nơi.
-C 7-9: +Và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ, các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại đi ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần sự giúp đỡ của người đời mới trỗi dậy ra khỏi mồ được. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ thế nào thì cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại là dấu chỉ cho thấy Đức Giê-su đã sống lại. Vì kẻ trộm sẽ chẳng chịu mất nhiều thời giờ ngồi cởi các dây vải ra xếp gọn để vào một nơi rồi mới đem xác đi ! +Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác xếp gọn để lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy sống lại, dù Người đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy mồ trống, các khăn vải liệm xác và dây băng được cuộn lại để riêng một chỗ, thì hai ông nhớ lại những lời Thánh Kinh đã được ứng nghiệm và tin Đức Giê-su đã thực sự từ cõi chết sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4.CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật?
2) So sánh các lời tường thuật của bốn tác giả Tin mừng về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa có giống nhau không?
3) Bạn biết gì về bà Ma-ri-a Mác-đa-la?
4) Bà Ma-ri-a đã báo tin xác Thầy biến mất cho 2 Tông đồ nào? Tại sao?
5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin mầu nhiệm Thầy phục sinh không?
6) Thái độ chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy ý thức trách nhiệm của 2 ông thế nào?
7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô?
8) Tại sao Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào mộ ngay?
9) Phê-rô và Gio-an cùng thấy hiện tượng mồ trống, băng vải và khăn che đầu được xếp gọn, nhưng ông nào đã tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh trước?
10) Do đâu mà hai ông Gio-an và Phê-rô tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị kẻ gian lấy cắp như báo cáo của bà Ma-ri-a trước đó?
II.SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẾ GIỚI SẼ RA SAO NẾU KHÔNG CÒN ĐỨC TIN VÀO CHÚA?
“THẾ GIỚI TRONG TĂM TỐI” là tựa đề của cuốn phim diễn tả câu chuyện về một nhà khảo cổ học lừng danh, đã tổ chức một công cuộc khai quật mang tính khoa học ở thủ đô Giê-ru-sa-lem.
Ngọn đồi Golgotha đã được đào bới cẩn thận, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gio-an, xác của Chúa Giê-su được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, rồi một ngày nọ nhà khảo cổ đã cho biết: “Tôi đã tìm thấy xác của ông Giê-su”. Rồi ông đã tổ chức cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao tháng ngày đào bới vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người khô đét, nhưng vẫn còn nhận ra tay chân bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện phục sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm thấy xác ông Giê-su:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong ngôi mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)
2) SỐNG LẠI THẬT VỀ PHẦN LINH HỒN NHỜ LẮNG NGHE LỜI CHÚA:
Bà REGINA RILEY hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã bỏ rơi đức tin nhiều năm… Bỗng vào một buổi sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình khi thấy hai đứa con đi vào nhà thờ ngồi ở hàng ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào đã khiến các con trở về với Chúa như vậy. Đứa em đã mau mắn kể lại như sau:
Trong thời gian đi nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, chúng con thấy một cụ già không mang theo dù, người ướt sũng đang đội mưa bước đi với dáng điệu khập khiễng như sắp ngã quỵ.
Chúng con liền dừng lại và mời cụ lên xe. Sau đó cụ cho biết mình đang đi nhà thờ cách đó 5 cây số để dự lễ Chúa Nhật. Chúng con liền đưa cụ đến tận nhà thờ. Nhưng vì trời vẫn còn mưa nên hai anh em vào nhà thờ dự lễ vói ý định sẽ đưa cụ về nhà sau lễ. Lạ thay, sau khi được nghe Lời Chúa và bài giảng của vị linh mục, chúng con cảm thấy rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như đứa con được trở về sau nhiều ngày đi xa nhà.
Hai anh em trong câu chuyện trên đã một thời tin Chúa. Nhưng giông tố thời niên thiếu đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức tuổi ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện và loan báo một tin mừng bằng gương sáng đạo đức là quyết tâm đội mưa đi dự lễ Chúa Nhật. Điều này như lời Chúa nhắc bảo: “Thầy hẹn gặp hai con tại nhà thờ”. Nhờ được gặp Chúa mà đức tin của hai anh em đã sống lại.
3) VÌ THEO ĐẠO MÀ TÔI ĐÃ MẤT TẤT CẢ:
Trong một xưởng thợ, một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau nói lời khích bác chê bai Đạo Công Giáo. Họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người... Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã lên tiếng: "Phải, vì Đạo Chúa mà tôi đã bị mất tất cả!"
Mọi người đều hướng mắt nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: "Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán làng xóm, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê xa lánh. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi bao tâm địa xấu xa, các đam mê xấu khác nữa... Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến tổ ấm yêu đương trở thành hỏa ngục. Thì nay, mọi người trong gia đình tôi đã nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, do theo đạo mà tôi đã bị mất tất cả ".
Sau đó, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: "Hỡi các bạn, bây giờ các bạn đã biết Đạo Công Giáo đã khiến tôi mất đi những gì rồi. Vậy các bạn cũng hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu".
4) CHU TOÀN SỨ MỆNH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC:
Một câu chuyện ngụ ngôn về sứ mệnh được sai đi của Hội Thánh như sau:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn của Người vẫn còn mang những dấu đau thương từ những cây đinh và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã hỏi Chúa Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người gây ra?” Chúa Giê-su đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay cho tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại hỏi: “Thế thì Chúa đã làm gì để con cái loài người nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa Giê-su đáp: “Ta đã sai các môn đệ đi loan báo tin vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin mừng Cứu Độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của con cái loài người, tỏ ra nghi ngờ họ, nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên không thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ ác mà chán nản muốn buông xuôi thì sao? Chúa có lập một chương trình cứu độ nào khác nữa không?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người luôn nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh là Thần Khí của Ta đến cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.
3.SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích Tin mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay như sau:
1) Lòng mến đã thúc bách Ma-ri-a Mác-đa-la mau mắn đi thăm mồ Chúa:
Niềm vui phục sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ Đức Giê-su ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mồ đã biến mất. Trước đó chính lòng mến đã khiến bà can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại để chứng kiến hai môn đệ an táng Thầy vào chiều Thứ Sáu (x. Mt 27,61). Giờ đây lòng mến lại thôi thúc Ma-ri-a và cùng với mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để xức trên xác Đức Giê-su (x. Mc 16,2). Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy cắp xác Thầy và bà không biết họ để Người ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a chẳng hề dám nghĩ là Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy mang về mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a lại quay ra mồ tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ này, bà đã vinh dự là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) Lòng mến đã làm cho môn đệ Gio-an nhận biết Chúa Phục Sinh trước anh em:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Ông là một trong ba môn đệ được được chứng kiến Người biến hình (x Mt 17,1) và cũng là môn đệ được Thầy yêu quý nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thúc bách ông, làm cho ông trở thành người can đảm nhất: Dám đi theo sau khi Thầy bị bắt và bị xét xử trước hai tòa án đạo đời; Dám đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trao phó Đức Ma-ri-a làm mẹ và đã đón Mẹ Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng chính tình yêu ấy đã khiến Gio-an chạy nhanh hơn và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8). Cũng tình yêu ấy đã giúp Gio-an trở thành người đầu tiên trong nhóm Mười Hai nhận ra Chúa tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7).
3) Lòng mến là điều kiện để được Chúa trao quyền mục tử chăn dắt đoàn chiên:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông tình nguyện bỏ mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), chứng kiến phép lạ Người làm cho một bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51) và được đi theo chứng kiến cảnh Thầy hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin mừng, Đức Giê-su thường đến trọ tại nhà Si-mon Phê-rô mỗi khi đi ngang (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em để tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được Người khen là có phúc, và hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông cũng được Đức Giê-su trao sứ vụ củng cố đức tin cho anh em sau khi ăn năn trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù có nhiều khuyết điểm như: khuyên Thầy đừng chấp nhận đi con đường thập giá vào vinh quang nên đã bị Người nặng lời quở trách (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Người giáo huấn về thái độ kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc khi không muốn được Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn có lỗi khi quá tự tin vào sức riêng mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x Mt 26,69-75).
Nhưng Phê-rô cũng có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Chúa đi “lưới bắt các linh hồn” (x Mt 4,18-20). Ông cũng hay được Thầy hỏi ý kiến như: có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Ông cũng hay bàn hỏi Thầy như phải tha thứ cho người khác đến mấy lần? (x Mt 18,21). Có lần ông đại diện anh em tuyên xưng lòng tin và hứa trung thành theo Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông đã hành động bảo vệ Thầy bằng cách rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi Thầy bị bắt (x Ga 18,10). Ông không khiếp nhược trốn chạy như các người khác, mà cùng Gio-an đi theo để biết diễn tiến về cuộc khổ nạn của Người (x Ga 18,15). Trong Tin mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị đánh cắp, Phê-rô cùng với Gio-an chạy ra mộ kiểm chứng thựic hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô và Gio-an đã tin Thầy đã phục sinh (x Ga 20,8-9). Phê-rô còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Hai (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo người mặc áo trắng đứng trên bờ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào để sớm gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Chúa Phục Sinh trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Thầy lúc cuối đời (x Ga 21,18-19).
4) Giá trị của đức Tin và đức Mến trong cuộc sống của người tín hữu:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, thành người đầu tiên đi ra thăm mồ và được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ vụ loan Tin mừng cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước các anh em. Lòng mến Thầy làm cho Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông Phê-rô đã sớm ăn năn sám hối và đã được Thầy tín nhiệm trao cho sứ vụ làm đá tảng đức tin, bảo vệ nâng đỡ đức tin của các anh em, và còn được trao quyền chăn dắt đoàn chiên là Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hoặc hốt hoảng khi gặp phải đau khổ thất bại. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất, những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm trong nước mắt đau thương như Ma-ri-a Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng sự chết đã không thể giam hãm được Đức Giê-su. Sự sống đã trỗi dậy từ sự chết. Ánh Sáng đã bừng lên từ trong bóng tối. Tình Yêu đã chiến thắng hận thù và Tin mừng Phục Sinh đã và sẽ được loan truyền đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su: sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không?
2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ giải cứu và giúp bạn trỗi dậy?
5.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời con mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm cho con luôn vững tâm giữa bao sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt con luôn rạng rỡ.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con luôn mau mắn trỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần luôn tác động đổi mới đời con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
“Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Kính thưa Anh Chị em,
Đấng Cứu Độ thế giới đã chết, thi thể nát tan của Ngài đã được đặt trong mồ; sự dữ xem ra toàn thắng, thế lực sự chết toàn quyền; các môn đệ chạy tán loạn vì sợ hãi, bởi lẽ, họ có thể sẽ là người tiếp theo. Thế nhưng, vẫn còn đó một Đấng khơi nguồn sự sống đang yên giấc trong mồ; Ngài sẽ chỗi dậy, sự dữ sẽ bị đẩy xa, bình an sẽ lan toả. Hội Thánh sơ khai tin rằng, Mẹ Maria là người đã trực giác bí mật này; vì thế, ngày thứ Bảy Tuần Thánh đầu tiên, Mẹ canh thức trong tin yêu, hy vọng, một ‘niềm hy vọng vượt quá mọi hy vọng’, rằng, Chúa Giêsu, Con của Mẹ sẽ sớm phục sinh.
Dù không uyên thâm như các thầy thông luật, nhưng trong một mức độ nào đó, Mẹ Maria phải là người hiểu biết Thánh Kinh. Mẹ xác tín, từ khởi thủy Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự tốt đẹp; nhưng tội đã lẻn vào thế gian, phá hủy tất cả trật tự ấy. Thiên Chúa quyền năng, giàu lòng xót thương phải làm lại, một trời mới đất mới xuất hiện; Giêsu, Con của Mẹ đã đến khôi phục lại. Thế gian căm hờn Ngài, đến nỗi giết chết Ngài; nhưng làm sao Thiên Chúa thua con người, Ngài sẽ chiến thắng!
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh tin rằng, người đầu tiên Chúa Giêsu hiện ra sau phục sinh là Mẹ của Ngài. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tin điều này, thánh Ignatio Loyola tin điều này, và nhiều người khác trong nhiều thế kỷ đã chia sẻ niềm tin này. Vì những lý do đó, thứ Bảy Tuần Thánh là ngày lý tưởng để chúng ta ‘suy đi nghĩ lại về một trái tim hằng suy đi nghĩ lại’ trong lòng, tim của Mẹ Chúa Trời. Tin Mừng cho biết, Đức Mẹ đã suy đi nghĩ lại trong lòng những mầu nhiệm xảy ra với Chúa Giêsu. Mẹ là một trong số ít người đã sát cánh bên Ngài trong cơn hấp hối và cái chết; Mẹ đứng trước thập giá, cầu nguyện và suy nghĩ về sự hy sinh hoàn hảo của Con; Mẹ ôm xác Con trong vòng tay và nghĩ xem linh hồn Ngài đi đâu. Hôm nay, Mẹ vẫn tỉnh thức, hy vọng, một ‘niềm hy vọng vượt quá mọi hy vọng’, suy nghĩ về việc Con sắp trở lại với Mẹ Ngài. Tại sao không?
Hôm nay, chúng ta gẫm suy điều đã xảy ra trong lòng Mẹ Maria, hãy hợp nhất trái tim của chúng ta với trái tim của Mẹ. Hãy cố hiểu những gì Mẹ đang gẫm suy và đang hy vọng; hãy cảm nhận những gì Mẹ cảm nhận trong ngày đau buồn này; hãy cảm nghiệm đức tin, lòng tín thác và niềm vui mong đợi cũng là niềm hy vọng của Mẹ, một ‘niềm hy vọng vượt quá mọi hy vọng’.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói, “Mồ mả là nơi không ai đi vào để sau đó, đi ra. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã ‘bước ra’ từ đó cho chúng ta; Ngài đã sống lại vì chúng ta, để mang lại sự sống ở nơi sự chết có mặt; Ngài đã sống lại để bắt đầu một câu chuyện mới chính nơi mà một viên đá đã được đặt. Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng đã lăn đi hòn đá bịt kín lối vào của ngôi mộ, cũng có thể loại bỏ hòn đá đã đóng chặt trái tim chúng ta. Ánh sáng rạng ngày phục sinh đã rọi vào bóng tối ngôi mộ; hôm nay, Ngài cũng muốn ánh sáng đó chạm đến cả những góc tối thăm thẳm nhất của cuộc đời mỗi người. Dẫu lòng chúng ta như ngôi mộ đã chôn kín niềm hy vọng thì cũng đừng đầu hàng, Thiên Chúa còn vĩ đại hơn. Bóng tối và cái chết không có tiếng nói cuối cùng. Hãy can đảm, vì với Thiên Chúa, không có gì đã mất!”. Như Mẹ Maria, chúng ta hãy có một ‘niềm hy vọng vượt quá mọi hy vọng’, rằng, Chúa đã sống lại! Ngài sống lại cho tôi, cho Anh Chị em và cho toàn thế giới.
Anh Chị em,
Nhiều người trên thế giới hôm nay đang bước đi trong lo âu, tuyệt vọng; nhiều người đã mất hy vọng. Chỉ trong tháng 10/2020, Nhật Bản, một xứ có nền kinh tế khá nhất Đông Nam Á, có đến 2.153 người tự tử; cũng năm này, thế giới có 350 triệu người trầm cảm. Nhiều người có những ‘kiểu chết bên trong’ rất riêng của họ mà không cho phép Thiên Chúa kéo họ vào sự Phục Sinh của Con Một Ngài. Nhiều người hôm nay cần đến niềm hy vọng đã sống động trong lòng Đức Mẹ, một ‘niềm hy vọng vượt quá mọi hy vọng’. Hãy thinh lặng và để cho trái tim vinh hiển của Mẹ truyền cảm hứng; đồng thời, cuốn hút chúng ta chìm sâu hơn vào tâm hồn Mẹ, một tâm hồn tin, yêu, hy vọng tràn đầy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã cho phép niềm hy vọng trở thành sức mạnh giữa nỗi kinh hoàng của thập giá. Xin Mẹ cầu bàu để con cũng tràn đầy hy vọng, một ‘niềm hy vọng vượt quá mọi hy vọng’, rằng, Chúa đã sống lại, khi con chịu đựng những thử thách của cuộc sống trần thế. Xin ban cho con một trái tim hân hoan đợi chờ ân sủng của sự sống mới trong Chúa Phục Sinh, một sự sống mới đáng khao khát vô cùng mà Ngài sẽ ban cho con, ban cho những ai biết cậy trông như Mẹ”, Amen.
(Tgp. Huế)
Bóng Hồng Trong Sương
Thi sĩ Xuân Ly Băng viết bài thơ “Bóng hồng trong sương” với hình ảnh thật thi vị. Nhạc sĩ Tuấn Kim phổ nhạc. Giai điệu vui tươi phấn khởi. Lời thơ nhạc khởi đi từ câu chuyện Tin Mừng Phục Sinh. Maria Mađalêna đi thăm mộ từ sáng sớm tinh sương. Hình ảnh đẹp nên thơ “bóng hồng lay động sương mai, sương ướt đẫm bờ vai, đi tìm Thầy mà không thấy Thầy đâu. Nhìn ngôi mộ trống lòng nàng đau biết bao, bóng hồng khóc lóc kêu than, nàng trách lời ai áo trắng hỏi han… Bóng hồng hoan lạc bao la vì bóng hồng nay thấy Chúa Phục Sinh. Chúa truyền rằng đừng động đến mình Ta, về mau hãy nói là Ta đã sống lại”…
Maria Mađalêna và các phụ nữ là “những bóng hồng” chân yếu tay mềm nhưng can đảm lạ thường và chan chứa lòng mến. Trước khi rời nghĩa trang, họ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị. Đêm dài quá! Họ chỉ mong trời mau sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được. Họ chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác thân của Thầy nằm đó.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ rồi. Các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng, dấu niêm phong của lãnh đạo Do thái có khả năng thách thức được quyền phép Đấng Chịu Đóng Đinh sao?
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan khiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn thê lương.
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
1. Nấm mồ mở toang
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: "Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu".
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
2. Thấy và tin
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin” diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay... Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
3. Ánh sáng bừng tỏa
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.
Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc lóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
4. Chúa đã sống lại thật! Allêluia!
Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn“tin tối đa”.Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Hãy cùng với những “bóng hồng trong sương” hát lên khúc ca Allêluia với những nốt nhạc tin yêu và hy vọng. Hãy sống niềm vui Phục Sinh giữa đời và hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời sống chan hòa bình an và yêu thương.
Lúc 6h chiều thứ Sáu 2 tháng Tư, Thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Thánh Cha đã chủ sự Phụng Vụ Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó Chúa Kitô tại bàn thờ Ngai Tòa bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô.
Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên, phủ Giáo Hoàng đã giảng trong buổi cử hành.
Mở đầu bài giảng, Đức Hồng Y nói:
Thông điệp này nhắm đến đông đảo độc giả, trong và ngoài Giáo hội, thực tế là toàn thể nhân loại. Bức thư trải dài trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống, từ khu vực tư nhân đến khu vực công, và từ các giới tôn giáo đến các thành phần xã hội và chính trị. Với phạm vi phổ quát của thông điệp này, tài liệu đã rất đúng khi tránh không giới hạn cuộc thảo luận vào những khía cạnh đặc thù chỉ thuộc về các tín hữu Kitô. Ở cuối thông điệp, có một đoạn trong đó các nền tảng phúc âm của tình huynh đệ được tóm tắt. Không nhiều ngôn từ, nhưng ý nghĩa rất sinh động, đoạn văn viết như sau:
Những người khác uống từ các nguồn khác. Đối với chúng ta, nguồn gốc của phẩm giá con người và tình huynh đệ là từ trong Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô. Từ Phúc Âm nảy sinh điều này là “tư tưởng Kitô giáo và hành động của Giáo hội đặt lên hàng ưu việt các mối quan hệ, những sự gặp gỡ với mầu nhiệm thánh thiêng của tha nhân, và sự hiệp thông phổ quát với toàn thể gia đình nhân loại, như một ơn gọi của tất cả mọi người” (Ft 277).
Mầu nhiệm thập giá mà chúng ta đang cử hành buộc chúng ta phải tập trung chính xác vào nền tảng Kitô học của tình huynh đệ đã được khai mạc trên đồi Canvê.
Đôi khi, Tân Ước sử dụng thuật ngữ anh em (adelfos) theo nghĩa nguyên thủy, phổ biến nhất của từ này là, anh chị em, một người được sinh ra cùng cha và cùng mẹ. Thứ hai, những người thuộc cùng một quốc gia hoặc dân tộc cũng được gọi là anh em. Thánh Phaolô nói rằng giả như vì anh em đồng bào của ngài theo huyết thống, mà ngài có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì ngài cũng cam lòng (x. Rm 9: 3). Trong những bối cảnh đó, cũng như những trường hợp khác, anh em là một thuật ngữ chung bao gồm nam và nữ, anh chị em với nhau.
Theo đặc tính của nó, ý nghĩa của từ này mở rộng để bao gồm mỗi con người. Trong Kinh thánh, từ anh em, theo nghĩa này, đôi khi được dịch là người lân cận. “Ai ghét anh em mình..” (1 Ga 2: 9) có nghĩa là “ai ghét người lân cận của mình”. Khi Chúa Giêsu nói: “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40), Người có ý bao gồm mọi người cần được giúp đỡ.
Bên cạnh tất cả những sắc thái này, Tân Ước còn dùng từ anh em để chỉ một nhóm người cụ thể. Anh em tôi là các môn đệ của Chúa Giêsu, những người chào đón giáo huấn của Ngài.
“Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? […] Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12, 48-50).
Lễ Phục sinh đánh dấu một bước phát triển mới và mang tính quyết định trong vấn đề này. Trong Mầu nhiệm Vượt qua, Đức Kitô trở thành “trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8:29). Các môn đệ trở thành anh chị em theo một nghĩa mới và rất sâu sắc. Họ không chỉ có chung một niềm tin vào giáo huấn của Chúa Giêsu, mà còn chia sẻ Thần Khí của chính Ngài, và sự sống mới của Ngài là Đấng Phục Sinh.
Điều đáng nói là chỉ sau khi phục sinh, lần đầu tiên Chúa Giêsu mới gọi các môn đệ là anh em của Người. Ngài bảo bà Maria Mađalêna, “hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’” (Ga 20:17). Thư gửi người Do Thái sử dụng thuật ngữ này theo cùng một nghĩa như thế, “Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em” (Dt 2,11).
Sau sự kiện Phục sinh, đây là cách dùng phổ biến nhất của thuật ngữ anh em. Nó chỉ ra một người anh em trong đức tin, một thành viên của cộng đồng Kitô hữu. Họ cũng là anh em ruột thịt - nhưng trong huyết thống của Chúa Kitô! Vì Chúa Kitô cũng là Thiên Chúa, nên tình huynh đệ này vừa độc nhất vừa siêu việt. Tình huynh đệ trong Chúa Kitô không thay thế các loại tình huynh đệ khác, do cùng gia đình, quốc gia, hay chủng tộc, nhưng đúng hơn, tình huynh đệ trong Chúa Kitô đề cao những điều này. Là những tạo vật có cùng Thiên Chúa và cùng Cha, tất cả loài người đều là anh em của nhau. Đức tin Kitô thêm một chiều kích thứ hai và mang tính quyết định. Chúng ta là anh em không chỉ bởi vì chúng ta đều được tạo thành bởi cùng một Cha, mà còn vì chúng ta, nhờ ơn cứu độ, có cùng một người anh, là Chúa Giêsu Kitô, là “trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”.
Một số hệ quả thực tế bắt nguồn từ sự thật này. Chúng ta phải xây dựng tình huynh đệ theo đúng cách mà chúng ta xây dựng hòa bình, đó là bắt đầu ngay với chính chúng ta, chứ không phải bằng những chiến lược vĩ đại và những mục tiêu trừu tượng, đầy tham vọng. Đối với chúng ta, điều đó có nghĩa là tình huynh đệ phổ quát phải bắt đầu từ trong lòng Giáo Hội Công Giáo. Lần này, tôi muốn đặt sang một bên ngay cả vòng tròn thứ hai, tức là tình huynh đệ tồn tại giữa tất cả các tín hữu tin vào Chúa Kitô trong phong trào đại kết.
Tình huynh đệ giữa những người Công Giáo đang bị thương tổn! Sự chia rẽ giữa các Giáo hội đã xé chiếc áo dài của Chúa Kitô thành từng mảnh, và tệ hơn nữa, mỗi dải vụn đã bị cắt thành những đoạn nhỏ thậm chí còn nhỏ hơn. Dĩ nhiên là tôi muốn đề cập đến yếu tố con người của thảm kịch này, bởi vì không ai có thể xé được chiếc áo dài thật của Chúa Kitô, là thân thể mầu nhiệm của Người được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần. Trong mắt Thiên Chúa, Giáo hội là “duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền”, và sẽ tiếp tục như thế cho đến ngày tận thế. Tuy nhiên, điều này không biện minh cho những chia rẽ của chúng ta, nhưng làm cho những chia rẽ ấy trở nên tội lỗi hơn và phải thúc đẩy chúng ta mạnh mẽ hơn nữa để chữa lành chúng.
Nguyên nhân phổ biến nhất của sự chia rẽ gay gắt giữa các tín hữu Công Giáo là gì? Đó không phải là vì tín lý, cũng không phải là vì các bí tích và các thừa tác vụ, không phải vì những điều mà chúng ta gìn giữ một cách trọn vẹn và phổ quát nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Sự chia rẽ làm phân cực người Công Giáo bắt nguồn từ các lựa chọn chính trị phát triển thành các ý thức hệ chiếm ưu tiên hơn so với các cân nhắc liên quan đến tôn giáo và giáo hội và dẫn đến việc hoàn toàn từ bỏ giá trị và bổn phận vâng phục trong Giáo hội.
Ở nhiều nơi trên thế giới, những sự chia rẽ này là rất thực tế, mặc dù chúng không được nói đến một cách công khai, hay bị phủ nhận một cách quyết liệt. Đây là tội lỗi theo nghĩa nguyên thủy của nó. Nước thế gian này trở nên quan trọng trong lòng người hơn là Nước Trời.
Tôi tin rằng tất cả chúng ta cần phải tự vấn lương tâm một cách nghiêm chỉnh về vấn đề này và hoán cải. Khích động chia rẽ là công việc xuất sắc của kẻ có tên là ‘diabolos’ tức kẻ chia rẽ, kẻ thù gieo cỏ lùng, như Chúa Giêsu đã nhắc đến trong dụ ngôn (x. Mt 13:25).
Chúng ta cần học hỏi từ gương của Chúa Giêsu và từ Phúc âm. Chúa Giêsu sống vào thời kỳ phân cực chính trị mạnh mẽ. Có bốn phe phái tồn tại vào thời ấy là nhóm Pharisêu, nhóm Sađốc, nhóm Hêrốt và nhóm Dêlốt. Chúa Giêsu không đứng về phía bất kỳ nhóm nào trong số những phe phái này và mạnh mẽ chống lại những nỗ lực lôi kéo về phe này hay phe kia. Cộng đồng Kitô hữu tiên khởi đã trung thành theo Chúa trong lựa chọn đó, nổi bật nhất là gương sáng của các mục tử, những người cần phải là người chăn dắt toàn thể đàn chiên, chứ không chỉ một phần của đàn chiên.
Các mục tử cần phải là những người đầu tiên tự vấn lương tâm một cách nghiêm túc. Họ cần tự hỏi mình xem họ đang dẫn đàn chiên của mình đến đâu - đến với quan điểm của họ hay quan điểm của Chúa Giêsu. Công đồng Vatican II đặc biệt giao phó cho giáo dân nhiệm vụ diễn dịch các tác động xã hội, kinh tế và chính trị của Tin Mừng vào thực tiễn trong các hoàn cảnh lịch sử đa dạng, luôn luôn một cách tôn trọng và hòa bình.
Nếu có một đặc sủng hoặc ân sủng đặc biệt mà Giáo Hội Công Giáo được kêu gọi để vun đắp cho tất cả các Giáo hội Kitô, thì đó chính là sự hiệp nhất. Đối với các dân tộc bị áp bức những người sống sót sau các cuộc bách hại, sau các hành động tàn bạo, và chiến tranh, chuyến tông du gần đây của Đức Thánh Cha đến Iraq cho chúng ta thấy tận mắt ý nghĩa lớn lao của cảm thức thuộc về cùng một Giáo Hội phổ quát, trong đó có người lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, để tiếng kêu của họ có thể được phần còn lại của thế giới nghe thấy và để hy vọng được hồi sinh. Một lần nữa nhiệm vụ của Chúa Kitô đối với Phêrô, “Hãy củng cố anh em Thầy” (Lc 22:32) đã được hoàn thành.
Trước Đấng đã chết trên thập giá “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11:52), với tinh thần khiêm tốn và tấm lòng kiên trung, chúng ta hãy cất lên lời cầu nguyện mà Giáo hội ngỏ với Người trước khi rước lễ trong mỗi Thánh lễ:
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các Tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa; xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hợp nhất theo thánh ý Chúa. Amen.
Source:Holy See Press Office
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Dante và Thứ Sáu Tuần Thánh
Bình luận của Cha Raymond J. de Souza,ngày 2 tháng 4 năm 2021 (https://www.ncregister.com/commentaries/pope-john-paul-ii-cardinal-joseph-ratzinger-and-dante-good-company-on-good-friday)
Những kỷ niệm thấm thía về Thứ Sáu Tuần Thánh cách đây 16 năm mang một ý nghĩa đặc biệt cho ngày hôm nay.
Khi Thánh Gioan Phaolô II được phong chân phước vào năm 2011, ngày lễ của ngài được ấn định vào ngày 22 tháng 10 - ngày bài giảng đăng quang "Đừng sợ!" - chứ không phải là ngày ngài mất theo thông lệ, tức ngày 2 tháng 4. Ngày giỗ của ngài thường rơi vào Tuần Thánh hoặc Tuần Bát nhật Phục sinh, và do đó không thể được cử hành.
Năm nay, ngày giỗ của Thánh Gioan Phaolô II rơi vào Thứ Sáu Tuần Thánh, điều này mời gọi chúng ta nhớ đến Thứ Sáu Tuần Thánh cuối cùng trong cuộc đời trần thế của ngài.
Năm 2005, Thứ Sáu Tuần Thánh rơi vào ngày 25 tháng 3, giống như trong Tuần Thánh đầu tiên trong cuộc đời của Đức Gioan Phaolô, năm 1921. Nó lại rơi vào ngày đó trong Năm Thánh Lòng Thương Xót do Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố vào năm 2016. Điều này hiếm khi xảy ra, nhưng khi nó xẩy ra hẳn phải là sự liên kết hoàn hảo.
Các Kitô hữu tiên khởi cho rằng Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên là vào ngày 25 tháng Ba, cùng ngày với lễ thụ thai đồng trinh được cử hành vào Lễ Truyền tin. Một cách ngẫu nhiên, ngày lễ của Kẻ trộm lành cũng là ngày 25 tháng 3, ngày mất của ông, Thứ Sáu Tuần Thánh.
Đến Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2005, thế giới đã theo chân Đức Gioan Phaolô vào bệnh viện và về nhà nhiều lần. Cuối tháng Ba, rõ ràng là ngài sẽ không quay lại bệnh viện nữa; ngài về nhà để chờ chết.
Hai kỷ niệm nổi bật vẫn còn lại từ Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2005: những gì Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã nói tại Đàng Thánh Colosseum và những gì Đức Gioan Phaolô II đã không nói, khi tham dự từ căn phòng Giáo hoàng.
Phong tục của Giáo hoàng vào Thứ Sáu Tuần Thánh là cử hành Đàng Thánh giá trong bóng tối của Colosseum vào ban đêm. Thánh Gioan Phaolô thường mời những người khác nhau để soạn các bài suy niệm. Vào năm 2005, có lẽ cảm nhận được rằng đây sẽ là Thứ Sáu Tuần Thánh cuối cùng của mình trên cương vị giáo hoàng, ngài đã tìm đến người cộng tác đáng tin cậy nhất của mình. Đức Hồng Y Ratzinger đã soạn các bài suy niệm ấy.
Trong chính biến cố, Thánh Gioan Phaolô đã quá yếu, không thể tự mình đến đấu trường Colosseum. Người viết tiểu sử của ngài, George Weigel, mô tả bối cảnh đó như sau:
“Các Trạm Đàng Thánh Giá đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của Karol Wojtyła trong hơn bảy mươi lăm năm. Khi còn là một cậu bé, ngài đã chứng kiến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô được diễn kịch lại tại Kalwaria Zebrzydowska, đền thánh gần quê hương Wadowice của ngài, ngay sau khi mẹ ngài qua đời.
“Vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2005, sức khỏe của ngài suy giảm nhanh chóng, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II một lần nữa đã dẫn dắt Giáo Hội qua các bước đi của nó với Chúa Kitô… mặc dù ở một khoảng cách xa và một cách khác.
“[Đức Gioan Phaolô] chỉ còn nói thì thầm. Nhưng khi Đức Hồng Y Ratzinger dẫn đầu đoàn rước long trọng qua đống đổ nát của thời cổ đại, Đức Gioan Phaolô II đã cầu nguyện Đàng Thánh Giá trong khi theo dõi buổi lễ tại Colosseum trên một chiếc tivi được đặt trong nhà nguyện của căn phòng Giáo hoàng. Một máy quay truyền hình ở cửa nhà nguyện đã chiếu cho thế giới thấy buổi cầu nguyện của Đức Gioan Phaolô. Ngài ngồi và nắm trong tay một tượng chịu nạn lớn, khi cầu nguyện qua mười bốn trạm với cộng đoàn gần Colosseum. Những người xem ở Colosseum và trên truyền hình chỉ có thể nhìn thấy lưng của Đức Gioan Phaolô; khuôn mặt của ngài không bao giờ được trình chiếu. Tuy nhiên, trái ngược với suy đoán của báo chí, ngài không hề giấu giếm nỗi đau hay sự tàn phá của những tuần bệnh tật. Đúng hơn, ngài chỉ làm điều ngài vẫn luôn luôn làm, đó là không phải nói, ‘Hãy nhìn tôi,’ mà đúng hơn, ‘Hãy nhìn Chúa Kitô'" (The End and the Beginning, pp. 370-371).
Trong khi Đức Gioan Phaolô, trong nhà nguyện riêng của ngài, đang làm chứng âm thầm trong sự đau khổ của ngài, thì Đức Hồng Y Ratzinger đang nói lên sự đau khổ của Chúa Kitô Colosseum.
Trong bài suy niệm Đàng Thánh Giá duy nhất từng đạt được cuộc sống riêng của nó, Đức Hồng Y Ratzinger đã viết một lượng giá đầy nhức nhối cho Trạm thứ Chín, lần ngã thứ ba của Chúa Giêsu dưới sức nặng của thập giá:
“Há chúng ta cũng không nên nghĩ đến việc Chúa Kitô phải chịu đau khổ xiết bao trong Giáo hội của Người đó sao? Biết bao lần Bí tích thánh Hiện Diện của Người đã bị lạm dụng, biết bao lần Người phải đi vào những trái tim trống rỗng và xấu xa! Biết bao lần chúng ta chỉ cử hành chính chúng ta mà không hề nhận ra rằng Người đang ở đó! Biết bao lần Lời của Người thường bị vặn vẹo và bị lạm dụng! Đức tin nhỏ nhoi làm sao đằng sau quá nhiều lý thuyết, quá nhiều lời nói rỗng tuếch! Biết bao sự ô uế trong Giáo Hội, và ngay cả nơi những người, trong chức linh mục, lẽ ra phải hoàn toàn thuộc về Người!"
Những lời phát ra từ Colosseum như một tiếng sấm vĩ đại, mang tính tiên tri, một lời tố cáo tan nát cõi lòng về những đau khổ mà Chúa Kitô phải gánh chịu không phải cho Giáo hội, mà là từ Giáo hội. Trong 16 năm kể từ đó, chúng ta biết rằng Đức Hồng Y Ratzinger đã dành tiếng nói cho những nỗ lực của ngài trong việc làm sạch “ô uế” khỏi chức linh mục.
Có lẽ Đức Hồng Y Ratzinger đã được Dante nhắc nhở để nói như ngài đã nói. Một người bác học như Đức Hồng Y hẳn biết rằng Dante đã dựng vở Bi Kịch Thần Thiêng của ông trong một tuần lễ. Nó bắt đầu vào Thứ Năm Tuần Thánh trên ngưỡng cửa địa ngục và kết thúc một tuần sau đó trên thiên đàng trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục sinh. Dante bắt đầu cuộc hành trình của ông qua Inferno (Hỏa Ngục) vào Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày 25 tháng 3, mặc dù vào năm 1300, Thứ Sáu Tuần Thánh không rơi vào ngày đó.
Dante đã chọn nó vì sự thích đáng của nó. Khi Ý tuyên bố “Ngày Dante” vào năm ngoái để đánh dấu kỷ niệm 700 năm xuất bản Bi Kịch Thần Thiêng, nước này đã chọn ngày 25 tháng 3.
Dante không tự chế trước việc đối xử dữ dằn với những người phản bội chức vị giáo sĩ của họ, ngay cả những giáo phẩm cao cấp nhất. Trong Paradiso (Thiên Đàng), chính Thánh Phêrô xuất hiện, phát động cả một cuộc tấn công chống lại Đức Giáo Hoàng Boniface VIII. Nếu Trạm thứ chín của Đức Hồng Y Ratzinger có tiền lệ, thì Bi Kịch Thần Thiêng của Dante, khởi đầu cùng ngày này 705 năm trước đây, chính là tiền lệ đó.
Thứ Sáu Tuần Thánh bắt đầu tuần cửu nhật Lòng Chúa Thương Xót. Vào năm 2005, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đáng lẽ bắt đầu tuần này vào ngày 25 tháng 3 đáng nhớ đó, và khi hoàn thành, có lẽ ngài đã ở trên thiên đàng rồi. Vì cái chết của ngài được nhắc lại một cách đầy biết ơn vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm nay, kỷ niệm bẩy trăm năm ngày mất của Dante, nên thật là an ủi khi nhớ rằng Dante nhà thơ cũng đã thực hiện cuộc hành trình lên thiên đàng vào thời gian đó, vào cùng những ngày đó.
Xem Hình
Khi taxi ghé vào hông nhà thờ, tôi thấy nhiều người đi vào bên trong, nơi có để nhiều khung nhôm, lối vào hơi tối và thấp. Đã hơn một năm qua, tôi không đến nhà thờ này nên có lạ lẫm một chút. Khi vào trong lòng nhà thờ, các hàng ghế đã đủ người và một lát sau hai dãy ghế gần tường nhà thờ cũng không có chỗ trống. Trước mặt tôi là cặp vợ chồng trẻ, ngồi cạnh tôi là một bà đã có tuổi, cạnh bên phải tôi là em sinh viên trẻ trung; rồi các thành phần dân Chúa với khẩu trang đủ kiểu. Quả thật, lòng đạo và sự sốt sắng của anh chị em giáo dân Sài Gòn nói riêng và giáo dân Việt Nam nói chung, thật “không chê vào đâu được”!
Nhiều nhà thờ, để thuận tiện và đẹp nghi thức, thường chọn những tốp người cao đều, mặt mũi sáng sủa như nhóm ca đoàn, tốp các em lễ sinh, các ông ban thừa tác viên…Xin phép được nghĩ vui vui, tôi muốn hôm nay Đức TGM Giuse rửa chân cho cha Tổng đại diện, cha Chưởng ấn, một Sơ làm việc âm thầm trong văn phòng TGM, một anh một bảo vệ nhà thờ Chánh Tòa, một nhân viên làm vệ sinh nhà thờ hay người lo bữa ăn cho quí cha…hẳn là những vị đó, sẽ nhớ mãi giây phút đặc biệt ấy và không quên sốt sắng thêm trong phục vụ. (Khi còn sống, hầu như năm nào ba tôi cũng được chọn làm tông đồ để Cha rửa chân; và tuy không giảm lòng sốt sắng nhưng có lần ông tỏ vẻ coi đó là “chuyện thường ngày ở xứ đạo”)!
Khi nhìn vị chủ tế rửa chân cho các người được chọn, tôi nghĩ về những thánh lễ tiệc ly mà các Đức Giám Mục cử hành tại ngôi thánh đường cổ kính này. Cùng là một nghi thức, nhưng có ai biết được Đức Cha Jean Casssaigne, Đại diện Tông Tòa Sài Gòn đã có cảm xúc gì khi cử hành nghi lễ này? Hay vị Giám mục tiên khởi của giáo phận Sài Gòn, Đức TGM Phaolo Nguyễn Văn Bình, cảm xúc thế nào khi rửa chân cho những người cộng sự? Dù nghĩ gì thì cốt lõi của việc này là thực hiện bài học yêu thương của Chúa Giêsu khi từ biệt thế gian. Phải chăng gia tài của Ngài chỉ có bài học yêu thương này, một “phi vật thể” mà những ai là Kitô hữu thì phải tranh thủ giành lấy giữa một thế gian đầy gai góc, lọc lừa, biển lận tinh vi?
Nhìn Đức Cha cung nghinh Thánh Thể, lòng tôi dâng trào cảm xúc: Đây là lương thực hằng ngày của tín hữu đó sao? Suy nghĩ nhanh thì chắc chắn Đức Giêsu là người cẩn thận, lo lắng cho môn đệ mình và hậu thế khi để lại lương thực “không bao giờ cạn”. Nhà tạm của nhà thờ Chánh Tòa hôm nay đặt bên cánh trái cung thánh. Các bạn trẻ tôn kính Thánh Thể theo phong cách nhanh gọn, rất “Sài Gòn”. Trước khi gọi taxi ra về, nhìn quí Sơ chầu Mình Thánh Chúa tôi thấy Giáo Hội đầy đủ sắc màu của lòng mến!
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Người Kitô hữu nào sốt sắng cũng coi trọng ngày này và tuân theo luật Hội Thánh dạy. “Kiêng thịt” là điểm nhấn, là luật buộc ngày này. Đối với nhiều người, thịt không phải là món ăn họ thích, mà tôm to cá lớn mới là món thú vị. Bác sĩ còn khuyên ăn bớt thịt thì tốt cho thận… Tôi trộm nghĩ, có khi nào đến cuối thế kỷ 21 này, Giáo Hội muốn vào ngày thứ sáu tuần thánh, mỗi tín hữu tự chọn kiêng bớt một điều bản thân ưa chuộng, và thực hiện một điều hữu ích? Nếu điều này xảy ra, có lẽ nhiều thú vị trong suy tư của giáo dân khi sống Tam Nhật Thánh.
Trên đường từ nhà thờ về nhà, một bà than phiền với tôi: “Một số người phục vụ nhà thờ, vào ngày lễ lớn thì có vẻ “ta đây”, coi thường giáo dân tham dự, bắt phải đi lối này, rẽ lối nọ; tôi cầm cái ghế cũng quắc mắt, thật khó chịu”. Tôi cười xòa và bênh đỡ theo kiểu bình dân: “Những ngày này nghi thức dài, nhiều việc phải làm, bầu khí nóng nực, có khi phải đứng cả gần một giờ đồng hồ để tròn công việc, họ phải vất vả lắm đấy bà ạ! Hầu hết những công trình thuộc nhà thờ tại Giáo Hội địa phương đều do giáo dân đóng góp, thì giáo dân cần được tôn trọng. Thôi, xin bà thông cảm! Ở nước ngoài, cha xứ có lương, người giúp việc nhà thờ cũng có tiền, ở Việt Nam làm việc chung đều là tình nguyện, vừa mất công sức và thời gian, nghe theo sự hướng dẫn của họ là yêu mến Giáo Hội bà nhé”!
Nghi thức thứ sáu tuần thánh khá dài, những ai đủ sốt sắng thì chẳng thấy có vấn đề gì.
LỄ PHỤC SINH
Đêm ngày thứ bảy, canh thức lễ Phục Sinh sẽ được cử hành. Wow, đêm Thánh! Đêm Chúa cứu độ! Không thể ngồi yên! Trước đó, chúng tôi khá bối rối trong công việc qua hai cuộc điện đàm. Cuộc điện thoại thứ nhất:
- Con kính chào Cha ạ! Đêm Phục Sinh cha có rửa tội cho anh chị em dự tòng không? Số lượng bao nhiêu, chúng con muốn tặng quà ạ! Hết Covid rồi, chúng con “bay ra”ngay.
- Chào cô nhé! Hi hi…giáo xứ chúng con có năm mươi dự tòng, nhưng con và cha phó rửa tội rải rác trong bảy làng, cô theo chân được không?
- Nhà xứ chưa có, vậy chúng con nghỉ đêm ở đâu? À, chúng con có thể chụp hình để minh họa cho bài tường thuật của chúng con sau chuyến đi, trên websites Công Giáo quốc tế không?
- Cô ơi, nhà thờ nhỏ bên ngoài đã được công nhận, cô tha hồ chụp. Các cha quay clip đưa lên mạng quá trời đó. Còn trong làng thì không được cô ạ! Thánh lễ có năm, sáu trăm người dự, phải cẩn thận để chúng con được phép dựng nhà nguyện nữa cô à!
- Thưa, vậy con được phép làm những gì cơ?
- Cô có thể đến dự thánh lễ tối Phục Sinh, tặng quà, chụp hình, gửi cho ân nhân xem, thế là được. Nhóm cô có thể hiệp thông phần áo trắng rửa tội, nến Phục Sinh và nến giáo dân.
- Thưa vâng, con xin cảm ơn và sẽ gọi điện đến cha sớm nhất có thể ạ! Mong được gặp cha.
Cuộc điện thoại thứ hai.
- Con kính chào cha! Nhân tiện bay ra vùng tây nguyên, con muốn ghé thăm giáo xứ cha để làm quen có đượckhông ạ? Con là…
- Chào cô, giáo xứ hân hạnh tiếp đón cô. Mà cô đến lúc nào? Lễ Phục Sinh giáo xứ chúng con vui lắm. Đêm đó, giáo dân từ hai mươi làng ra đây tập trung dâng lễ. Rồi họ ăn cơm, vui mừng lễ theo cách của họ. Chúng con chưa có nhà thờ chính nên sau đó họ trải chiếu, đắp mền ngủ trên nền đất đỏ, ngoài trời để sáng hôm sau dự lễ nữa rồi về.
- Thưa cha, số giáo dân có đông không ạ? Con chụp hình và gửi đến Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo được không ạ? Đêm Phục Sinh cha có rửa tội cho anh chị em dự tòng không?
Cha vui vẻ, cứ cười hic…hic:
- Trẻ em và người lớn hic hic…không kể xiết! Có nhiều người không có đạo, thấy cả làng đi lễ vui quá thế là họ đi theo cho vui. Nếu nhà thờ chúng con mà được lên websites đó thì còn gì bằng, nhiều người biết đến, con có them tiền xây nhà thờ. Cô đi xe giường nằm thì tiện hơn là máy bay. Từ Sài Gòn về chỗ con là gần 1.000 cây số. Vì họ đông quá nên con rửa tội vào ngày khác.
- Thưa vâng, tối nay con gọi điện cho cha. Tuổi con đã trên sáu mươi, con đi xe qua một ngàn cây số thì đến nơi, xin cha …làm phép xác! Thôi, con kính chào cha ạ!
Chúng tôi hơi tiếc. Chiều hôm đó, tôi gọi điện xin ân nhân thêm tiền nhưng không được. Chắc là tôi sẽ đến vùng này vào dịp gần nhất. Thế là Tam Nhật Thánh, chúng tôi vẫn ở Sài Gòn. Một Sài Gòn hoa lệ, giàu có, một bước lên xe hơi, còn ở nhà thì muốn lạnh như Sapa cũng được; nhưng chúng tôi không cho phép mình so sánh cái lạnh trong phòng ở Sài Gòn và cái lạnh giữa trời của người giáo dân ở vùng tây nguyên đất đỏ ấy!
Linh mục (Lm) Gioakim Lê Hậu Hán – Chánh xứ Vĩnh Hòa – đã chia sẻ như thế khi ngài chủ tế Thánh lễ Tiệc Ly lúc 18g thứ Năm ngày 1.4.2021 tại giáo xứ Vĩnh Hòa.
Trước Thánh lễ, 12 em tông đồ, các em Ban Lễ sinh cùng Lm chủ tế kiệu Chiên từ ngoài sân nhà thờ vào trong ngôi thánh đường hiệp dâng Thánh lễ.
Xem Hình
Bài giảng trong Thánh lễ, Lm Gioakim chia sẻ: Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích truyền chức Thánh để cho những người tiếp nối sứ vụ phục vụ các Bí tích. Vì vậy, cuộc đời của Lm chính là hiền thân của Chúa Giêsu và được chia sẻ với ba chức vụ.
• Thứ nhất là Tư tế
• Thứ hai là Tiên tri
• Thứ ba là Vương đế
Như vậy, việc Lm rửa chân cho các tông đồ là sự tự nguyện dấn thân để phục vụ. Ngoài ra, Lm còn phải chăm lo và bảo vệ cho đoàn chiên tránh khỏi những con sói dữ, những tệ nạn và sự cám dỗ của xã hội hôm nay. Tuy nhiên, cuộc đời của Lm vẫn còn mang trong mình sự yếu đuối mỏng dòn của con người. Vì thế trong khi làm việc có khi nặng lời làm buồn lòng người này hay người khác. Để qua việc nhận biết mình tội lỗi, Lm Gioakim kêu mời mọi người hãy cầu nguyện nhiều cho các Lm nói chung và cho ngài nói riêng để mỗi khi phục vụ anh chị em biết nhìn lên Chúa Giêsu trên cây thánh giá với sự hiền lành và khiêm nhường để được sáng Danh Chúa.
Sau bài giảng, Lm chủ tế chủ sự nghi thức rửa chân cho 12 em tông đồ ngay trên Cung thánh. Cùng lúc ca đoàn Thiên Thần vang hát bài “Luật yêu thương”.
Thánh lễ tiếp nối với phần phụng vụ Thánh Thể và kết thúc lúc 19g00. Sau Thánh lễ, Lm Gioakim cùng cộng đoàn kiệu Mình Thánh Chúa qua nhà tạm.
Được biết, sau Thánh lễ lúc 20g00, bốn giáo họ cùng các hội đoàn thay nhau Chầu Mình Thánh Chúa cho đến 24g00 cùng ngày.
Hôm nay ngày 2.4.2021 cùng với Giáo hội trên toàn thế giới,cộng đoàn giáo xứ Hòa Hưng đã bước vào Phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh,ngày thứ hai trong Tam Nhật Thánh- Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó sự chết và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Xem Hình
Nghi Thức Suy Tôn Thánh Giá chiều nay tại Giáo xứ Hòa Hưng diễn ra vào khoảng 18g.Trước đó,lúc 17g 15 phút, cộng đoàn đi Đàng Thánh Giá trọng thể bên trong thánh đường,suy niệm 14 chặng đàng thánh giá trong mùa đại dịch Covid 19,cầu nguyện cho thế giới sớm thoát khỏi cơn dịch bệnh,cầu nguyện những bệnh nhân, nhân viên y tế và những người đang khổ đau trong cuộc sống.Đàng thánh giá mời gọi cộng đoàn cùng kết hiệp cuộc sống với sự thương khó của Đức Giêsu,nhưng đồng thời cũng nhận ra sự đồng hành của Ngài trong mọi nghịch cảnh bi đát của kiếp người.Linh mục phó xứ Hòa Hưng Phanxicô Xaviê Chu Gia Nghĩa chủ sự buổi đi đàng thánh giá.
Nghi thức của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh do Linh mục chánh xứ Giuse Phạm Bá Lãm chủ sự.Khởi đầu nghi thức,trong thinh lặng sâu lắng,ngài nằm phủ phục trước bàn thờ,kế đó là phần Phụng Vụ Lời Chúa,cộng đoàn được nghe công bố bài Tin Mừng tường thuật cuộc thương khó của Chúa Giêsu theo Thánh Gioan dưới hình thức hát (PASSIO)
Tiếp theo sau đó, Linh mục chánh xứ chia sẻ về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua cái chết tủi nhục của Đức Giêsu trên thập giá.”Ngài đã chịu chết thay cho tất cả chúng ta,không phải cho riêng một ai.Vì chúng ta mà Đức Giêsu đã chịu chết đau thương.Đó là tình yêu của người dám hy sinh mạng sống của mình cho bạn hữu.Chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với tình yêu của Đức Kitô,xứng đáng là con cái Thiên Chúa, Chúng ta sống sao xứng đáng là Kitô hữu, những chứng nhân của Tin Mừng.Hơn nữa là chồng, là vợ hay là con cái trong gia đình, chúng ta phải chu toàn bổn phận của mình, luôn cảm thấy thật hạnh phúc vì được Chúa Giêsu chết thay cứu độ ta”
Phần các lời nguyện được tiếp nối,Linh mục chủ tế cầu nguyện cho tất cả mọi thành phần trong giáo hội và xã hội, những người không tin và nhất là những nạn nhân của bệnh dịch...Sau đó là phần kính thờ Thánh Giá Chúa, ngài mời gọi mọi người thờ lạy tôn vinh Chúa Giêsu chịu chết, Đấng vì tội lỗi chúng ta mà chịu nhiều hy sinh đau khổ và chúng ta xác tín vào sự Phục sinh của Ngài.
Sau Nghi thức kính thờ Thánh Giá,cộng đoàn được lên rước Mình Thánh Chúa.
Kết thúc,Linh mục chủ sự ban phép lành và cộng đoàn ở lại thờ lạy Thánh giá Chúa.Năm nay vì đại dịch Covid,Linh mục chánh xứ nhắc nhở mọi người không hôn kính Thánh Giá, sau Thánh lễ,Thánh giá được đặt giữa nhà thờ để mỗi người xếp hàng lên quỳ, cúi đầu thờ lạy trước Thánh giá Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm được tình yêu thương của Chúa trên thánh giá để cứu độ chúng con, nhờ đó chúng con biết yêu thương và đón nhận anh chị em mình,bao dung và tha thứ cho những lầm lỗi của họ,nhất là chúng con đón nhận mọi nghịch cảnh đau khổ trong cuộc đời bằng niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa.
Martinô Lê Hoàng Vũ
Quý cha đồng tế suy tôn Thánh giá |
Xem hình
Trong một ngày thời tiết nắng rất đẹp, với rất đông người trong cộng đoàn về cùng hợp lòng, hợp ý cùng Suy tôn Thánh giá, các nghi thức được cử hành ngoài trời do Linh mục Giuse Nguyễn Bảo Quốc Tuyên Úy cộng đoàn chủ sự cùng với linh mục Phạm Minh Ước và linh mục Phạm Văn Ái. Khi bước lên lễ đài, cả ba linh mục đã nằm phủ phục để tưởng niệm ngày Chúa chịu chết. Sau các bài đọc, bài thương khó Thứ Sáu Tuần Thánh được Linh mục chủ tế và quý anh Vũ Ngô và Ngọc Toản cùng với Ca đoàn Babylon thể hiện về cuộc thương khó của Chúa qua tin mừng của Thánh Gioan.
Tiếp theo có bài chia sẻ của linh mục Phạm Minh Ước, đại ý, Thiên Chúa vừa trải qua một cuộc khổ đau, nhưng Ngài vẫn thinh lặng, Ngài luôn thinh lặng và tha thứ. Trong suốt cuộc đời xuống thế, Ngài luôn im lặng, ngay cả khi đám đông đòi kết án người đàn bà ngoại tình, Ngài cũng thinh lặng, cái thinh lặng đã làm cho những con người xung quanh phải xét lại mình, để thức tỉnh, bao dung, tha thứ hơn. Chúng ta cũng nên học theo Chúa để thinh lặng vì thinh lặng giúp ta hiểu được nỗi đau đớn của Thiên Chúa..
Thánh giá đã được suy tôn “Đây là cây Thánh giá, nơi treo đấng cứu độ trần gian, chúng ta hãy đến thờ lậy.” và quý cha đồng tế, quý vị đại diện cộng đoàn đã tôn kính Thánh Giá, nhưng không có nghi thức hôn Thánh giá Chúa.
Cộng đoàn đã rước tượng Chúa và Đức Mẹ được rước lên nhà nguyện để các đại diện Ban mục vụ cộng đoàn, các giáo khu, hội đoàn, đoàn thể thay phiên ngắm 15 sự thương khó Đức Chúa Giêsu, theo nghi thức cổ truyền.
Sau phần ngắm là phần dâng hạt của Ngành Nữ Tông Đồ Liên Minh Thánh Tâm của cộng đoàn. Rồi sau đó là những lời than của Đức Mẹ, táng xác Chúa nơi mồ có tên là “Đường vào cõi phúc.” Để cho cộng đoàn đến thăm viếng và (đặc biệt năm nay không có hôn chân xác Chúa vì dịch Covid.)
Mấy nhận xét tổng quát
1) Nên chú ý là những kiểu nói « sống lại »[1], « phục sinh » hay « phục hoạt » mà ta quen dùng, thì chưa nói lên đủ ý về niềm tin của chúng ta, vì đây không phải là sống đi sống lại, hết kiếp này sang kiếp khác, như quan niệm luân hồi của người Ấn-độ, cũng không phải là « trường sinh » do thuốc tiên của Đạo giáo, lại cũng không phải là « bất tử » như người Hi-lạp quan niệm về thần linh, hay là chu du đến miền cực lạc ở Tây phương xa vời. Mấy quan niệm đó chú trọng đến thân phận cá nhân của con người sẽ ra làm sao. Quan niệm mà chúng ta nói ở đây, đành rằng có liên quan đến thân phận cá nhân, nhưng cốt yếu là nhằm vào mối liên lạc thân tình giữa ta và ai khác, là một vị tuyệt đối khác hẳn và ở bên kia thế giới hình sắc này.
Thường thường các tôn giáo trình bầy quan niệm của mình về thế giới bên kia, về cái bờ bên kia – bỉ ngạn – như là một chân lý dĩ nhiên, vĩnh viễn đã có sẵn như thế ở ngoài tầm hiểu biết của con người phàm tục, nhưng bỗng dưng có một vị thần trí hay một thánh nhân khả kính nào đó, thông hiểu mọi việc trời đất, lại có từ tâm, dạy cho tín đồ biết ngay và biết hết một cách tường tận, chỉ cần cúi đầu không suy nghĩ, nhắm mắt tin theo, là đạt chân lý tuyệt đối một cách dễ dàng. Có nhiều tôn giáo dạy cho tín đồ biết rất tỉ mỉ về thế giới bên kia, y như ở thế giới này, có những sự vật, những nhân vật như thế nào, và sau khi chết người ta phải đi qua những chặng đường nào và phải xử sự làm sao để thoát hiểm.
Quan niệm của đạo Do-thái và đạo Thiên Chúa thì tránh không nói nhiều đến những điều ở ngoài trí tưởng tượng của con người, tránh không gán cho thế giới bên kia những điều ta quen biết ở thế giới này. Thậm chí còn cấm tuyệt không được tìm những bí thuật, như đồng bóng, để liên lạc với thế giới bên kia, để tiên đoán, để bói toán về số phận con người.
Vì thế quan niệm « sống lại », quan niệm đạo Do thái và đạo Thiên Chúa về thân phận con người ở thế giới bên kia – cũng như quan niệm về chính Thiên Chúa – không phải đã sẵn có như thế, rồi ngày một ngày hai từ trời đem xuống. Nó đã được thành hình dần dần trong nhiều giai đoạn của lịch sử dân Chúa, sau khi người ta trải qua nhiều biến cố đặc biệt đầy ý nghĩa, sau khi nhận ra cái sở đoản của các giải pháp hợp lý đã được hiền nhân quân tử đó đây nêu ra, và sau khi người ta nhận ra quan niệm đang thành hình đó như là một tin tưởng về cuộc đời đem lại cho nhân sinh của ta một ý nghĩa vượt ra bên ngoài thế giới này. Tin tưởng đó không có tính cách bó buộc như là một hiện tượng tất yếu trong thiên nhiên, người ta có thể tự do thuận theo hay là không thuận theo. Từ đó mới suy nghĩ để giải thích và tìm ngôn từ để nói lên sao cho hợp, trình bầy sao cho ai nấy hiểu ra được, rồi theo đó mà hành đạo cho đúng đường lối. Tuy vậy ngôn từ quen dùng trong thế giới này thì có nhiều, nhưng khi dùng để nói về thế giới bên kia, thì thường cũng là bất cập, nói lên không hết ý, không đúng hẳn, vì thế phải chắp nối dùng nhiều ngôn từ, nhiều hình ảnh tượng trưng.
Nên chú ý : niềm tin tưởng đó căn cứ vào một quan niệm lạc quan về nhân sinh, không vô định mà cũng không tất định. Nghĩa là : người ta sinh ra ở đời, không phải là do ngẫu nhiên biến hóa một cách vô tình, vô định như thế, cũng không phải là do nhân quả báo ân báo oán một cách tất định, nhưng là do một vị thượng trí an bài (không vô định), vừa chú tâm vào vận mệnh con người (không vô tình), vừa để con người tự do lựa chọn (không tất định). Cho nên khi nói « sống lại », thì tất cả những kiểu nói khác nhau đều cùng nhằm nói lên con người sẽ ra sao, tùy theo liên lạc thân mật hay không với Thiên Chúa. Và khi nói lên như thế, bao giờ người ta cũng nói lên từ những hình ảnh của nhân sinh quan thông thường của thời đại.
2) Có thể nói là quan niệm « sống lại » đã xuất hiện khá muộn trong tư tưởng Do-thái, nghĩa là sau khi mất nước và bị đem đi đầy ở Ba-bi-luân (thế kỷ VI trước TLKN), và nhất là vào thời dưới quyền đô hộ của người Hi-lạp (thế kỷ III-II trước TLKN). Trước đó người ta đã tin Thiên Chúa trong nhiều thế kỷ, mà chưa thấy cần phải tin có « sống lại » ở đời sau. Vì lẽ rằng người ta vẫn còn giữ quan niệm cổ sơ, cũng giống như quan niệm của người Hi-lạp cổ, nghĩa là vẫn tin rằng khi người ta chết đi thì xuống âm phủ. Ở cõi âm, người ta như là một cái bóng tàn, không còn khí lực hoạt động gì được, không còn trí nhớ, không nhận ra ai cả, cũng không nhận ra mình là ai nữa. Vì thế cho nên quan niệm rằng hành vi thiện ác đều có các thứ thưởng phạt ở trong thế gian này cả. Ai ở hiền thì mong gặp lành ở đời này, như « đa tử đa tôn đa phú quí, đắc tài đắc lộc đắc trường sinh ».
Điều cốt yếu là từ mấy thế kỷ trước khi mất nước, người Do-thái đã tin Thiên Chúa có từ tâm và có quyền lực, đã giải phóng cho dân tộc và giao ước đặc biệt với tổ phụ của dân tộc, và nhất là tin rằng dù sao Thiên Chúa cũng vẫn trung thành giữ lời giao ước, làm cho người ta về sau này, cả trong những giai đoạn khủng hoảng cùng cực, như khi nước mất nhà tan, khi cá nhân bị hủy hoại một cách oan ức vô lý, thì cũng vẫn còn có thể hi vọng và trông cậy một cách tuyệt đối.
Về đề tài nêu ra trên đây, có hai cuốn sách nghiên cứu tỉ mỉ đem lại nhiều tài liệu quí giá : một là cuốn sách Sống lại, Bất tử, Hằng sống của Nickelsburg[1], hai là cuốn sách Cuộc sống sau khi chết của Cavallin[1]. Cả hai tác giả cùng chống lại một quan niệm quá thông thường, nhưng lại quá đơn giản, cho rằng nhân sinh quan của người Do-thái và của người Hi-lạp khác nhau ở chỗ là một bên thì có tính cách nhất nguyên – coi con người là một thực thể thống nhất – còn bên kia thì chủ trương nhị nguyên – coi con người là hai thực thể ghép vào nhau nhưng rất khác nhau : hồn là tinh anh bất tử, xác là vật chất có thể hư nát[1]. Hai tác giả ấy nói đúng, vì một bên thì nhân sinh quan của đạo Do-thái và của đạo Thiên Chúa đã thay hình đổi dạng nhiều lần trong lịch sử, một bên thì trong văn hóa Hi-lạp, ai nấy đều biết là các học phái Platôn, Aristôtêlês,và các học phái khắc-kỷ Stoa, học phái duy-lạc Eâpikuros, đều không có một nhân sinh quan như nhau.
Sách của Cavallin nặng về khuynh hướng phân tích. Ông chia các bản văn thành năm loại : một là các bản văn của Thánh-Kinh viết bằng tiếng Híp-ri (Do-thái), hai là các bản văn có khuynh hướng khải huyền (Apocalypsis) đã được soạn ra trên đất Palestina, ba là các bản văn viết bằng tiếng Hi-lạp của người Do-thái di tản ra bên ngoài Palestina và lập nghiệp ở chung quanh Địa-trung-hải, bốn là các bản văn chú giải Thánh-Kinh của các thầy nho sĩ Do-thái (Rabbi), năm là những bản văn phủ nhận quan niệm có đời sống khác sau khi người ta chết. Mỗi bản văn được ông đặt vào hoàn cảnh và môi trường của nó để nghiên cứu. Tuy muốn phân tích hơn là tổng hợp, nhưng về cuối sách, ở trang 197, ông cũng phác họa ra một bảng đối chiếu, trong đó ông đưa ra 20 ý kiến làm tiêu chuẩn, để xem các tác giả của 30 bản văn quan trọng, mỗi người quan niệm về sự « sống lại » như thế nào, có những ý kiến nào và thiếu những ý kiến nào. Kết quả là ta có thể phân biệt ra chừng hai, ba mươi quan niệm khác nhau ít hay nhiều về sự « sống lại », có những điểm giống nhau, lại có những điểm trái nghịch nhau. Nói thế khác trong giai đoạn nghiên cứu đó thì người ta không có một quan niệm duy nhất về sự « sống lại ».
Sách của Cavallin, vì quá nặng về phân tích, cho nên có cái nhược điểm là không cho ta thấy các yếu tố làm thành mỗi quan niệm ăn khớp với nhau như thế nào, cũng không giải thích được vì sao có nhiều bản văn lại đưa ra một quan niệm giống nhau, và sau cùng không nói lên được sự biến chuyển của mỗi quan niệm, vì các yếu tố dùng làm tiêu chuẩn thì được trình bầy riêng rẽ như là ở ngoài thời gian, ở ngoài lịch sử.
Cách làm việc của Nickelsburg có tính cách tổng hợp hơn và vì thế làm cho độc giả thấy rõ cái lý sự của mỗi quan niệm. Những bản văn được viết ra trong những hoàn cảnh giống nhau, hay là trong những cách lập vấn tương tự, thì ông xếp vào thành một loại. Như thế người ta dễ dàng nhận ra các truyền thống đã biến chuyển và phân chia ra thành nhiều môn phái như thế nào. Tuy thế, các bản văn lại cũng có nhiều nguồn gốc, mà cái nhìn quá tổng hợp làm cho người ta dễ quên đi rằng thực tại có phần phiền phức hơn. Dù sao hai lối làm việc của hai tác giả cũng là bổ túc lẫn cho nhau.
Trong khi trình bầy, hay hơn cả là nên theo lối dàn bài của Nickelsburg. Tác giả nghiên cứu quan niệm « sống lại » trong bốn trường hợp : một là trong trường hợp đạo giáo bị bách hại, hai là trong trường hợp người công chính bị áp bức, ba là ngoài trường hợp đạo giáo bị bách hại và người công chính bị áp bức, bốn là trong quan niệm thần học của giáo phái Cum-ran. Thực ra thì trường hợp thứ nhất được bàn bạc nhiều hơn cả, tác giả dành cho nó ba chương, nghĩa là tới một nửa cuốn sách. Vì thế thiết tưởng có thể góp ba trường hợp sau thành một, gọi là ngoài trường hợp đạo giáo bị bách hại.
Trong trường hợp đạo giáo bị bách hại
Về giai đoạn dân Chúa bị nước mất nhà tan, bị đưa đi lưu đầy, bị người ngoại quốc, ngoại giáo bách hại, thì có khá nhiều bản văn viết về cái hi vọng được « sống lại ». Nickelsburg chia các bản văn đó thành ba loại : một là những bản văn có tính cách khải huyền (chương một), hai là những bản văn nói lên suy tư của hiền nhân (chương hai), ba là những bản văn bênh vực cho người công chính (chương ba).
Khi dân Do-thái thống nhất quốc gia và được thịnh vượng dưới triều các vua Đa-vit và Sa-lô-môn (thế kỷ X trước TLKN), thì nhận ra rằng Thiên Chúa (Đức Gia-vê) vừa có quyền lực, vừa có từ tâm, và đã giữ lời giao ước với dân Chúa. Nhưng có hai trường hợp làm cho niềm tin đó bị lung lay : đó là khi bị người Ba-bi-luân phá nước và bắt vua tôi đem đi đầy (thế kỷ VI trước TLKN) và khi bị vua Antiochus IV Epiphane cấm đạo (thế kỷ II trước TLKN). Thực vậy, đáng lý ra thì hễ dân Chúa trung thành giữ đạo, thì Chúa cho thịnh vượng. Cho nên khi đứng trước những quốc nạn như thế, người ta không khỏi bỡ ngỡ và đặt câu hỏi vì sao.
Trong sách viết về lịch sử các vua Do-thái về trước, người ta theo lập luận « đời cha ăn mặn, đời con khát nước », và nghĩ rằng vì các vua đã bất trung với luật Chúa, cho nên quốc gia điêu tàn. Nhưng lập luận đó đã bị vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en bác bỏ vì lẽ cá nhân chịu trách nhiệm về hành vi của mình, chứ không có cái thói « quít làm cam chịu ».
Nhưng khi không tìm ra lý do vì sao, thì người ta bị khủng hoảng tinh thần, có khá nhiều người bỏ đạo, vì lập luận như sau : Nếu Đức Chúa vừa có quyền lực vừa có từ tâm đồng thời biết giữ lời hứa, thì không thể có cảnh điêu tàn như thế. Vậy bây giờ có cảnh điêu tàn, cho nên, một là vì Đức Chúa có quyền lực, nhưng lại không có từ tâm hay là quên lời hứa, hai là vì Đức Chúa có từ tâm và không quên lời hứa, nhưng lại không có quyền lực. Cho nên còn thờ Đức Chúa làm gì nữa ! Đó cũng là lập luận về thần linh mà triết học Hi-lạp đã đưa ra khi đứng trước đau khổ hỗn loạn trong cuộc đời.
Sau cuộc khủng hoảng như thế, còn một phần nhỏ, một phần còn lại của dân Do-thái vẫn trung thành giữ đạo. Dĩ nhiên là vì đã có những vị lãnh đạo giúp cho họ tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi hóc búa trên đây.
Câu trả lời thứ nhất là của phong trào khải huyền (Apocalypsis). Các bản văn thuộc loại này được xếp chung quanh cột trụ là bản văn Đa-ni-en 12, 1-3. Theo như Nickelsburg, thì phong trào đó chủ trương rằng phải chờ cho đến ngày tận thế thuộc về thời cùng tận, thời thế-mạt, lúc đó « trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy, người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục mà bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao » (Đn, 12, 1-3) ». Như thế có nghĩa là thân xác người ta sẽ sống lại, rồi Đức Chúa sẽ phán xét tất cả mọi người.
Các yếu tố đó đã có trong truyền thống về trước, nhất là truyền thống I-sai-a, báo trước là sẽ có phán xét trừng trị những người ngoại bang đàn áp dân Chúa, và dân Chúa sẽ sống lại, nghĩa là sẽ được phục hưng (Is 13-14 và 25-27). Ngoài ra còn báo trước là tôi tớ Chúa trước đây bị khổ nhục thì sẽ được đề cao.
Có một chi tiết quan trọng làm cho hai bản văn, trên đây khác nhau : khi sách I-sai-a (26, 19) dậy rằng : « Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên », thì đó cũng như trong niềm hi vọng của Hô-sê (6, 1-2) hay là trong thị kiến (vision) của Ê-dê-ki-en (chương 27), thấy những bộ xương khô lại có được da thịt và sống lại, tất cả đều là những hình ảnh tượng trưng nói về cuộc phục hưng của dân Israel; còn trong sách Đa-ni-en thì nói về cá nhân những người công chính, trung thành với đạo giáo mà bị bắt bớ giam cầm giết lát.
Có một số sách cùng một loại như sách Đa-ni-en, thì cũng đi theo một hướng, nhưng có một vài chi tiết hơi khác. Sách Niên lịch các ngày đại lễ (Livre des Jubilés, 23, 27-31) thì có lẽ chịu ảnh hưởng văn hoá Hi-lạp cho nên nói rằng tinh thần được sống lại. Sách Chúc thư của tổ phụ Giu-đa (chương 25) thì cũng nói đến những người công chính được sống lại, nhưng còn thêm vào đó rằng khi dân Chúa được phục hưng thì các thánh tổ phụ cũng được sống lại. Sách Mô-sê thăng thiên (Assomption de Moise, chương 10) nói đến những hiền sĩ được nâng cao lên tận các ngôi sao, nhưng không nói đến ai sống lại cả.
Nói tóm lại thì các sách trong khuynh hướng khải-huyền thì thật có nói đến sống lại, nhưng coi đó như là một giải pháp đặc biệt cho một trường hợp đặc biệt, đó là trường hợp những người công chính bị bắt bớ : những người đã mất mạng, mất thân xác, vì đạo giáo, thì nay được đền bù lại, thân xác họ sẽ sống lại để dự cuộc phán xét; mà phán xét chẳng qua cũng chỉ là vì hoàn cảnh đặc biệt như thế, chứ không phải là một biến cố phổ thông, chung cho cả trời đất.
Câu trả lời thứ hai là giải đáp của các sách thuộc nhóm các nhà hiền sĩ. Trong các sách đó có kể nhiều truyện theo cùng một mẫu những truyện dậy khôn ngoan. Đại ý kể truyện những người công chính bị bắt bớ, bị kỳ thị, rồi sau được hồi phục, còn những kẻ hành hạ những người ấy, thì có khi bị phạt, có khi không. Ta có thể đan cử ra đây một bài truyện như : truyện ông Giu-se (Sách Sáng thế, chương 37-50), áng thơ về người tôi tớ của Đức Chúa ( Sách I-sai-a, chương 52-53), truyện bà Esther (Sách Esther), truyện bà Su-san-na (Sách Đa-ni-en, chương 13), vân vân.
Có một chi tiết đặc biệt là trong các truyện dậy khôn ngoan thì thường kể truyện người công chính bị bắt bớ, bị kết án, nhưng không bị chết, vì đến phút cuối cùng thì họ được cứu sống, được minh oan và được hồi phục trong cuộc sống này. Còn trong I-sai-a, chương 52-53 và trong Sách Khôn ngoan chương 4-5, thì người công chính (hiền sĩ, ngôn sứ hay là tôi tớ Đức Chúa) bị bắt bớ, bị kết án và bị xử tử : trong tình trạng ấy thì không thể có phục hồi trong cuộc sống này được, mà vì thế họ sẽ được phục hồi trong thế giới bên kia hay là trong thiên giới.
Đặt vào trong trường hợp những người đã chết, đã bỏ mình, vì đạo giáo, thì câu truyện người công chính bị bắt bớ rồi được hồi phục, mở ra một viễn tượng mới : đó là viễn tượng được đền bù, được thăng thưởng, được đề cao sau khi chết. Thực ra người hiền sĩ cũng chính là người công chính, vì trong Cựu Ước thì sự Khôn ngoan cũng là một tên khác để gọi Lề luật của Chúa. Vì thế có thể nói : cái tính bất tử mà sự khôn ngoan hay là lề luật Chúa đem lại cho người hiền sĩ hay là người công chính, thì cũng chính là một cuộc sống cao cả, bền vững hơn cái cuộc sống vật chất ở đời này[1]. Do đó ta hiểu vì sao những người công chính, dù họ có bị mất mạng, thì họ vẫn được sống muôn đời (Sách Khôn ngoan, 5, 15), và những người độc ác, một khi đã mở mắt trông thấy sự thật, thì đã nói với nhau rằng : « Cũng thế mà thôi, bọn chúng mình : thoạt sinh ra thì đã biến mất » (Sách Khôn ngoan, 5, 13). Thế mới biết, sống chết cũng có nhiều bậc nhiều loại khác nhau. Chính vì căn cứ vào lối phân biệt này mà về sau này các vị giáo-phụ của đạo Chúa Giê-su như Ô-ri-ghê-nê hay là thánh Am-brô-si-ô mới phân biệt cái chết ra làm ba loại.
Câu trả lời thứ ba là do những suy tư của người tín hữu về những biến cố xảy ra trước mắt. Ví dụ như trong Sách Ma-ca-bê, quyển thứ hai, có kể truyệân trước khi ông Ê-lê-a-da cùng với một gia đình một mẹ và bảy người con trai chịu chết vì đạo giáo, thì họ đã có những suy tư rất thâm trầm về sự sống lại. Những suy tư đó ăn rễ vào áng thơ « người tôi tớ Chúa » trong sách I-sai-a, vì những người chịu chết vì đạo giáo được gọi là tôi tớ Chúa.
Câu truyện đó ta đã nghe biết, cho nên không lạ gì nữa. Ở đây ta chỉ cần ghi lấy những điều các người đó đã nói lên trước khi bị gia hình. Ý kiến thứ nhất là những người chịu chết vì đạo giáo như thế chính là dân tộc Israel đang chịu đau khổ vì tội lỗi của mình (2 Mcb 7, 18 + 32), nhưng vẫn tin chắc chắn rằng Đức Chúa sẽ không bỏ rơi dân riêng của Ngài và rồi đây những những kẻ hành hạ dân Chúa sẽ bị trừng trị (2 Mcb 7, 16 + 33). Những điều đó sẽ được thực hiện trong cuộc chiến thắng của ông Giu-đa Ma-ca-bê và cái chết ghê sợ của vua An-ti-ô-khô. Niềm hi vọng sẽ được sống lại, thì là vì những người đó đã chết vì đạo giáo (2 Mcb 7, 9) : thân xác được sống lại là để đền bù cho cái thân xác đã chịu tra tấn xẻo cắt. Hiểu như thế thì việc sống lại có liên quan đến một trường hợp đặc biệt có bất công, chứ không phải là chung cho mọi người, vì kẻ hành hạ dân Chúa không có sống lại (2 Mcb 7, 14).
Còn hai ý kiến nữa cũng được bà mẹ bẩy người anh em nói lên. Bà này tượng trưng cho bà mẹ Xi-ôn, tức là mẹ của dân Chúa đang bị bách hại, như trong Sách I-sai-a phần thứ ba và trong Sách Khải huyền của (ngôn sứ) Ba-rúc [1]. Ý kiến thứ nhất : niềm tin sẽ sống lại thì tựa vào niềm tin Thiên Chúa tạo thành trời đất : « Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người,và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài, chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình » (2 Mcb 7, 23). Quan niệm này bắt nguồn từ I-sai-a (Is 43, 1+2+6+7; 44, 1+2; 46, 3+4), đã đem lại cho niềm tin sống lại một nền tảng phổ thông, chung cho mọi người, chứ không riêng cho một trường hợp đặc biệt. Ý kiến thứ hai : sống lại cũng là phục hưng lại cộng đồng tín hữu : « Các con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẻ trả con và các anh con cho mẹ » (2 Mcb 7, 29).
Ngoài trường hợp đạo giáo bị bách hại
Ngoài trường hợp đạo giáo bị bách hại ra, thì cái cảnh kẻ ác được thịnh vượng mà người lành phải bần cùng, ai cũng thấy là nó đi ngược lại niềm tin có thưởng phạt ở đời này, như đã dậy trong sách Đệ Nhị Luật. Vì thế nó gây ra khủng hoảng tinh thần cho những người tin Chúa nhưng còn ở trình độ sách Đệ Nhị Luật. Đó là vấn đề được đặt ra ngay trước khi dân Chúa mất nước và bị đem đi đầy, và còn đặt ra sau này khi phái Pha-ri-siêu bị phái Xa-đốc đàn áp. Nếu bảo rằng thưởng phạt hay là báo ân báo oán, đều là ở đời này cả, thì chẳng lẽ ta lại kết luận rằng những người đàn áp dĩ nhiên phải là công chính, còn kẻ bị đàn áp thì tất nhiên là có tội?
Vấn đề được đề cập trong Sách Hê-nốc, từ chương 94 cho đến chương 104, được biên soạn vào quãng từ năm 95 đến 78 trước TLKN, nghĩa là ngay sau khi phái Pha-ri-siêu bị tàn sát dưới triều vua Alexandre Jannée. Tác giả đi vào cuộc tranh luận và lên tiếng nói với hai hạng người. Với những người công chính đã bị giết, tác giả nói : « Này các người công chính, đã vị nghĩa mà tử vong, các người đừng sợ, hãy tín cẩn (…) Hãy trông vào những kẻ đã tự cho mình là công chính, mà xem họ đã bị hủy diệt như thế nào. Cho tới lúc chết, họ không hề được ai cứu. Họ đã mai một đi, như thể là chưa bao giờ có họ. Linh hồn của họ buồn phiền mà xuống địa ngục »[1]. Rồi tác giả cho những người công chính biết chắc rằng tinh thần của họ sẽ sống hạnh phúc mà không bao giờ chết nữa. Còn với những người có tội ác đã chết đi sau khi hưởng một đời thịnh đạt, thì tác giả nói : « Các người phải biết rằng tinh thần các người sẽ bị điệu xuống địa ngục, sẽ phải buồn phiền, phải ở trong nơi tối tăm, ở trong cạm bẫy và giữa ngọn lửu cháy bừng bừng. Rồi còn phải bị lên án trong cuộc phán xét muôn dân. Các người thật là khốn nạn, các người sẽ không bao giờ được yên ». Đối với những người công chính hiện đang sống trong hoàn cảnh thua thiệt, thì tác giả bảo họ là phải hi vọng, vì chắc chắn là họ sẽ được thắng lợi trong cuộc phán xét muôn dân, sẽ được lên trời và sáng láng như các vì tinh tú, còn những kẻ có tội bây giờ thì sau này sẽ bị phạt.
Xem lại Sách Đa-ni-en, chương 12, thì ta thấy rõ lý do cuộc phán xét muôn dân và vì sao ngững người công chính sẽ được đề cao. Nhưng có điều đáng chú ý là ở đây không có nói gì đến việc thân xác người ta sẽ sống lại, mà chỉ nói đến tinh thần người ta hoặc là sẽ xuống địa ngục, hoặc là sẽ lên trời; lại cũng không nói gì đến những người có tội sẽ sống lại hay không.
Về việc sống lại theo như Sách Hê-nốc, Nickelsburg đưa ra hai nhận xét sau đây : « Một là nếu Đức Chúa cho những người công chính được hồi phục, thì không phải là vì họ đã vì Chúa mà chịu khổ sở oan uổng, nhưng chỉ là vì họ đã chịu khổ sở oan uổng, thế thôi. Hai là sự sống lại không phải là để đền bù cho cái chết oan uổng, nhưng là để trả lời cho câu hỏi về những người phải đau khổ và bị đàn áp, cho dù chưa đến nỗi phải chết ».
Nói tóm lại, chính vì cái cảnh người công chính phải đau khổ và bị đàn áp, nó quả là chướng tai gai mắt, cho nên người ta thấy là không còn có thể cứ bám víu vào quan niệm của Sách Đệ Nhị Luật cho rằng chỉ có thưởng phạt ở đời này mà thôi, và cũng vì thế nó mở ra cho ta cái viễn tượng là sẽ phải có cuộc phán xét muôn dân và sẽ có sống lại trong thế giới bên kia. Còn nếu ta không thấy Sách Hê-nốc nói gì đến việc thân xác sẽ sống lại, thì phải chăng đó là vì do ảnh hưởng của một luồng tư tưởng Hi-lạp? Hay là vì lẽ rằng thân xác người công chính không bị hủy hoại như trong trường hợp những người vị nghĩa vong thân, cho nên không cần phải đền bù gì cho thân xác họ?
Cho tới đây ta mới chỉ xét đến sự sống lại trong mấy trường hợp đặc biệt của những người bị bắt bớ, bị đàn áp. Cho nên những giải pháp đưa ra chỉ là những câu trả lời cho mấy trường hợp riêng rẽ như thế, chứ chưa phải là những giải pháp có tính cách phổ thông, chung cho mọi trường hợp. Muốn đi tới một giải pháp chung, thì cần phải đặt vấn đề ở bên ngoài trường hợp những người bị bắt bớ và bị đàn áp. Trong cách lập vấn như thế, Nickelsburg nghiên cứu năm bản văn đã được soạn thảo trong thời gian giữa Cựu Ước và Tân Ước, đó là : Thánh vịnh của vua Sa-lô-môn (viết vào khoảng từ năm 69 đến 47 trước TLKN), Chương thứ XXII trong Sách Hê-nốc ( vào khoảng năm 170 trước TLKN), Chương thứ VII trong Sách Esdras, quyển thứ IV (vào khoảng cuối thế kỷ I sau TLKN), Lời dạy của bà cốt. (Oracles sibyllins, khoảng từ năm 80 đến 50 trước TLKN), và Chương thứ XX trong sách Chúc thư của tổ phụ Ben-gia-minh (thế kỷ I trước TLKN).
Tác giả kết luận như sau : « Theo như những bản văn nghiên cứu trong chương sách này thì việc sống lại vẫn còn được đặt ra trong khung cảnh cuộc phán xét muôn dân. Tuy vậy việc sống lại và cuộc phán xét đã có một vai trò quan hệ hơn là trong các bản văn về trước. Những người công chính sẽ được trọng thưởng vì họ đã tuân theo đạo giáo (Torah), cho dù họ đã được thưởng ở đời này rồi. Còn những người có tội thì họ sẽ bị kết án vì họ độc ác, chứ không phải vì họ đã hành hạ người công chính; họ sẽ bị phạt ở đời sau vô cùng, cho dù ở đời này họ đã bị phạt rồi »[1]. Đó là quan niệm chung của mấy bản văn đó, tuy nhiên cũng có một vài bản văn gợi ra ý kiến rằng những người công chính sẽ được sống vô cùng. Riêng sách Thánh vịnh của vua Sa-lô-môn thì có nói rằng những người có tội ác thì xuống địa ngục sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Một vài đoạn văn khác thì có nói đến việc mọi người sẽ sống lại và sẽ có phán xét muôn dân.
Xem như thế, ta thấy là ít lâu trước khi đạo Chúa Giê-su ra đời thì trong tư tưởng Do-thái đã xuất hiện quan niệm mọi người sẽ sống lại và sẽ có phán xét muôn dân.
Sau cùng thì đề cập đến lập trường của giáo phái Cum-ran. Nickelsburg đã đưa ra nhận xét chung sau đây : « Các cuộn sách của giáo phái Cum-ran đã được in ra cho tới nay có một điểm đáng chú ý : ta không thấy có đoạn văn nào có thể giải thích một cách chắc chắn như là có ý nói đến việc sống lại hay là về tính bất tử »[1]. Chính vì thế mà tư tưởng của giáo phái ấy đã được giải thích ra theo nhiều phương hướng khác nhau.
Đọc các thánh-vịnh dùng trong giáo phái, ta thấy có nói đến việc đạo giáo bị bắt bớ, nhưng người ta chỉ tạ ân Đức Chúa vì mình được thoát. Có thế thôi. Như thế có nghĩa là : « Vì lẽ cuộc bắt bớ tín hữu không đưa đến chỗ chết, và vì người ta cũng không phải sợ như thế, cho nên không thấy cần phải nói đến việc sống lại hay là nói đến các việc sau khi chết. Nếu không có bệnh thì cũng không cần thuốc ».
Cũng nên nói thêm là tư tưởng thần học của phái Cum-ran, khi bàn về cuộc sống muôn đời thì có một cách đặt vấn đề đặc biệt. Ít khi họ nói đến cái chết của thân xác. Đó là vì khi dùng những từ ngữ « cuộc sống », « cái chết », thì họ hiểu đó là hai ngả đường trong vận mệnh cuối cùng của người ta, sau khi thân xác chết đi. Họ cho rằng ngay từ đời sống hiện tại, con người ta đã bắt đầu đi theo một trong hai ngả đường đó rồi. Ai sống trong giao ước của Đức Chúa thì ngay từ bây giờ đã được sống muôn đời rồi. Ta gọi đó là cánh-chung-luận đã thực hiện (eschatologie réalisée). Những người trong giáo phái tất nhiên là sẽ được sống muôn đời một cách hoàn toàn, vì ngay từ bây giờ họ đã sống với các thiên sứ, đã được đưa lên tận trời và được sáng chói lọi như các vì tinh tú. Vì thế nếu không có gì cách biệt giữa cuộc sống muôn đời trong lúc này và trong lúc sau, thì cái chết của thân xác không có gì là quan trọng cả, không có gì đáng chú ý[1].
Cái lối nhìn như thế về cuộc sống và cái chết sẽ đưa các thánh giáo phụ trong đạo Chúa Giê-su đến chỗ phân biệt cái chết ra làm ba hạng.
Kết luận
Xem như thế thì ta thấy là trong tư tưởng Do-thái thời Cựu Ước và thời kỳ giữa Cựu Ước và Tân Ước đã có khá nhiều quan niệm khác nhau về sự « sống lại », khác nhau đến nỗi nhiều khi không dung hòa được với nhau. Đặt những quan niệm đó vào những thời đại và những trường hợp khác nhau, đó là một cách tương đối hóa, đồng thời cũng là một phương pháp để nhận ra tính cách thống nhất của chúng.
Tính cách thống nhất này bắt nguồn từ khi người ta nghiệm ra rằng đạo giáo hay là Lề Luật của Chúa là nguồn đem lại sức sống. Ta đọc trong sách Đệ Nhị Luật : « Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh cáo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em (…)» (Đnl 32, 46-47).
Nhưng sự sống là cái gì? Cái gì là sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho? Xin trả lời : thánh sử, lịch sử của dân Chúa, chính là lịch sử các chặng đường đã đi để dần dần tìm ra sự sống ấy là gì.
Đọc tiếp câu 47 trong sách Đnl, chương 32, ta tìm ra chặng đường thứ nhất : « (…)và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu ». Như thế có nghĩa là : sống tức là thân xác khỏe mạnh lâu dài trên một miền đất phì nhiêu, mà không phải sợ các dân tộc khác đe dọa, sống tức là có con cháu đầy đàn và có một quốc gia riêng cho mình. Chính vì đã nghe theo lời Chúa gọi và hứa cho như thế, cho nên các tổ phụ người Do-thái đã dám bỏ quê nhà ra đi, rồi lại bỏ đi ra khỏi đất Ai-cập là nơi họ đã phải làm nô lệ.
Ở chặng đường này người ta nghiệm thấy rằng hễ giữ Luật của Chúa thì cá nhân cũng như quốc gia được phồn thịnh. Như thế dần dần nảy ra ý kiến là thưởng phạt gì cũng là ở đời này cả, và Thiên Chúa cũng dần dần chuyển thành một đồng minh hữu ích, thậm chí thành ra như là một dụng cụ, một phương tiện phụng sự cho con người ! Đó là cái nguy lớn : tôn giáo thành ra một phương tiện, người ta theo Chúa đâu có phải là vì Chúa, nhưng là vì mình, vì có lợi cho mình mà thôi. Đó là điều ông tổ học thuyết vô thần thế kỷ XIX, là Feuerbach, đã nêu ra. Đó cũng là câu hỏi mà quỉ Xa-tan đã đặt ra cho Đức Chúa, khi nói về ông Gióp[1].
Chặng đường thứ hai : Biến cố nước mất nhà tan, rồi vua cũng như dân bị đưa đi lưu đầy (thế kỷ VI trước TLKN), đó là khủng hoảng lớn cho niềm tin Thiên Chúa trước đây : phải chăng Thiên Chúa bội tín hay là bất lực? Nếu thực như thế thì giao ước với Thiên Chúa mà làm gì?
Nhưng có khủng hoảng như thế niềm tin Thiên Chúa mới có thể chín chắn hơn và chuyển hướng ra khỏi niềm tin vụ lợi. Không phải ai cũng chuyển hướng được như thế. Có một số đông đã bỏ đạo. Còn một số nhỏ vẫn giữ được niềm tin Thiên Chúa, mặc dầu hoàn cảnh éo le. Niềm tin của số còn lại là do người ta xác định được ra rằng : 1) Thiên Chúa không phải là một phương tiện mà người ta sử dụng tùy tiện; 2) Sự sống không phải chỉ là hạn hẹp vào cái thân xác này mà thôi, mà còn có cái gì khác nữa, còn có cái gì ở đâu nữa.
Nhưng cái khác đó là gì và ở đâu? Câu hỏi ta đặt ra ở đây cũng chính là câu hỏi đã đặt ra trong những bản văn ta vừa trình bầy trước đây.
Như đã nói, trong trường hợp đạo giáo bị bắt bớ, người tín hữu thấy là cần phải có gì đền bù cho những cái mà người công chính đã bị mất đi vì trung thành với Chúa : nếu đã bị hạ thấp, bị lăng nhục, thì sẽ được tôn trọng, được nâng cao lên và sáng chói như sao trên trời; nếu thân xác đã bị tra tấn, bị xẻo cắt hay bị giết, thì thân xác sẽ được sống lại. Phải chăng đó chỉ là một mơ ước rất tự nhiên, do cái ý chí muốn sống của muôn loài? Chắc là thế. Nhưng cái mơ ước đó không phải là không có nền tảng vì nó căn cứ vào lời Thiên Chúa hứa cho sự sống, và người ta nhận biết Chúa có quyền lực trong việc giải phóng cho dân tộc khỏi làm nô lệ vua Ai-cập, trong việc tạo thiên lập địa, đồng thời Ngài giữ lời hứa. Trong niềm tin đó, những người vị nghĩa vong thân tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ cho họ được sống lại vinh quang, và những kẻ đàn áp họ sẽ bị trừng trị.
Còn ngoài trường hợp đó ra thì cái cảnh người công chính bị đàn áp và kẻ độc ác được thịnh vượng cũng làm cho người ta suy nghĩ và đi tới một kết luận tương tự, nhưng lại có phần phổ thông hơn, vì nó chung cho mọi trường hợp. Người ta suy luận rằng sau khi chết thì sẽ có phán xét muôn dân, và ai nấy sẽ được thưởng phạt tùy theo con đường mình đã chọn.
Như thế quan niệm chung là : chết không phải là hết, vì lẽ Thiên Chúa có quyền lực và giữ lời hứa.
Tuy vậy vẫn còn một vài vấn đề chưa được giải quyết, ví dụ như : Khi sống lại thì chỉ có linh hồn (hay tinh thần) mà thôi, hay là cũng có thân xác nữa? Những kẻ dữ có sống lại để bị phạt muôn đời vô cùng, hay là sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn? « Sống lại » có phải là lại sống như cũ, lại tiếp tục cái đời sống như bây giờ, hay là – như giáo phái Cum-ran đã nhận định – sẽ có một cuộc sống ở một mức độ siêu việt, cao sang, nghĩa là mới hẳn, khác hẳn cuộc sống bây giờ? Để nói về cuộc sống mới này, người ta không có sẵn từ ngữ nào thích hợp, cho nên quen dùng những biểu tượng như : được tôn vinh, được nâng cao lên tận trời, được sáng chói lọi như các vì sao. Ngoài ra vẫn còn có những người Do-thái, như phái Xa-đốc, cứ giữ lại truyền thống cũ, họ tín cẩn vào quyền lực của Thiên Chúa, vào lời Chúa đã hứa, nhưng họ không tin là sẽ có « sống lại », vì đó là điều không thấy Thánh-Kinh dạy một cách rõ ràng.
Chặng đường thứ ba : Chính trong trong lúc tư tưởng Do-thái chia ra năm bè bẩy mối, không đồng ý với nhau về vận mệnh con người, về quan niệm « sống lại », thì đạo của Đức Giê-su xuất hiện, đem lại tin vui, tin mừng, đã được đón nhận và ghi lại trong sách Phúc Aâm.
Quan niệm « sống lại » mà trước đây trong cộng đồng dân Chúa, người ta suy luận, mơ ước và hi vọng theo nhiều phương hướng, thì từ nay đã có một số chứng nhân, đã chứng kiến đời sống, giảng thuyết, hành vi, cuộc tử nạn và sự « sống lại » của Đức Giê-su. Họ thấy những sự kiện ấy là hợp với truyền thống dân Chúa vẫn giữ được niềm tin Thiên Chúa trung tín và có quyền lực. Từ nay họ trở thành chứng nhân, có can đảm chứng thực những điều mắt thấy tai nghe đã đưa họ đến một quan niệm mới về Thiên Chúa. Và đây là chặng đường cuối cùng trong việc tìm hiểu Thiên Chúa và vận mệnh con người. Từ đây bắt đầu một kỷ nguyên mới. Vấn đề thật là mênh mông, bao trùm 20 thế kỷ lịch sử đạo Chúa Giê-su, không thể trình bầy trong phạm vi nhỏ hẹp của bài này được.
Trần Văn Toàn
Giáo sư Triết và Thần Học Đại Chủng Viện Lille Pháp
Là một “chi lưu” của dòng sông Vệ, không biết tự khi nào, con sông góp nước của ba dòng sông nhỏ khi nhập vùng Đức Phổ: sông Trường, sông Trà Câu, sông Lò Bó, đã mang một tên gọi thật dịu dàng nữ tính: sông Thoa. Tên là vậy nhưng không “nữ tính” chút nào. Nếu những ngày Xuân Hạ, sông Thoa thường êm đềm lờ lững men theo những cánh đồng xanh lúa Bàu Đĩa, Thủy Triều… của xã Phổ Văn; hay duyên dáng qua những bờ cát trắng Phổ An, Phổ Quang…; thì đến những tháng Thu Đông, lại cuồn cuộn thác lũ cuốn phù sa và nước bạc hùng hổ đổ về Mỹ Á để tan trong biển rộng !
Con sông nầy, có lẽ, cũng như bao dòng sông khác trên dãi đất chữ S Việt Nam, đã từng chứng kiến, kinh qua biết bao sự kiện, biến cố; và viết lên những “câu chuyện dòng sông”, “câu chuyện lịch sử”, nếu không bi tráng uy hùng như Bạch Đằng Giang, Nhị Hà, Xoài Rạp… trong những tàng thư lịch sử, thì chí ít, cũng vương vấn trong trái tim, trong ký ức của muôn con người, nhất là những con người mà nơi dòng sông Thoa nầy chính là nơi an nghỉ ngàn thu của cha ông, tiên tổ của họ !
Thật vậy, cách đây khoảng 136 năm, chính xác là vào năm 1885, khi “phong trào Văn Thân” khởi phát cùng với chiến dịch “bình Tây sát Tả” lan rộng khắp các tỉnh miền Trung, người Công Giáo khắp nơi, nhất là các cộng đoàn thuộc giáo phận Đông Đàng Trong, đã phải kinh qua một cuộc bách hại tàn khốc chưa từng có, như tóm tắt sau đây của tài liệu “GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN” : “Chỉ ít lâu sau ngày nhậm chức của Đức cha Van Camelbeke Hân, Giáo phận phải lâm vào một thời kỳ bách hại khủng khiếp chưa từng có. Sau vụ binh biến chống Pháp đêm 04.07.1885 tại đồn Mang Cá bất thành, Tôn Thất Thuyết rước vua Hàm Nghi ra chiến khu Ấu Sơn, Hà Tĩnh. Tại chiến khu, Tôn Thất Thuyết lấy quyền vua thảo hịch Cần Vương. Hịch được loan đi từ Thanh Hóa đến Bình Thuận và được nhiều nhân sĩ khắp nơi hưởng ứng nổi dậy chống Pháp, nhưng cũng khích động nhóm Văn Thân cực đoan vũ trang lôi kéo quần chúng đi đốt phá các làng Công Giáo và sát hại giáo dân một cách công khai với khẩu hiệu "bình Tây sát tả", nghĩa là đánh tan giặc Tây và tiêu diệt những người "tả đạo", tức là người Công Giáo. Phong trào Văn Thân hoạt động mạnh tại các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận...”.
Và sau đây là những “con số biết nói” để làm chứng cho biến cố đau thương trên: “Trong cuộc sát hại của Văn Thân năm 1885, Giáo phận Đông Đàng Trong đã bị tổn thất nặng nề nhất từ trước đến nay. Về nhân sự: 8 thừa sai Pháp, 7 linh mục Việt, 60 thầy giảng, 270 nữ tu, trên 24.000 giáo dân đã bị sát hại hoặc bị chết vì đói khát, bệnh tật, khi lẩn trốn nơi rừng thiêng nước độc, cũng có người lập nghiệp nơi khác không trở về. Về cơ sở vật chất: Tòa Giám mục Làng Sông, 225 nhà thờ và nhà nguyện, 10 phước viện, 2 chủng viện (Làng Sông và Nước Nhỉ), 17 cô nhi viện, 2 phòng phát thuốc, 1 nhà in, 4 nông trại, bị phá hủy. Số giáo dân trước cuộc sát hại của Văn Thân năm 1885 là 41.828 người, chỉ còn lại khoảng 17.000 vào cuối năm 1885. Số tín hữu tại các tỉnh trong Giáo phận trước và sau cuộc sát hại của Văn Thân được ghi nhận như sau: Tại Quảng Nam: từ 5.428 còn lại 5.000; tại Quảng Ngãi: từ 6.600 còn lại 1.000; tại Bình Định: từ 16.940 còn lại 8.000; tại Phú Yên: từ 6.890 còn lại 1.109, tại Khánh Hòa: từ 2.848 còn lại 800; tại Bình Thuận: từ 1.892 còn lại 400”.
Sở dĩ “tản mạn” một thoáng lịch sử về cuộc bách hại của phong trào Văn Thân cuối thế kỷ 19, là cốt để quay về câu chuyện “dọc bờ sông Thoa”. Thật vậy, chính trong những năm “bình tây sát tả” kinh hoàng đó, địa sở Trà Câu, một cộng đoàn Công Giáo trù phú tập trung trên vùng đất ruộng phì nhiêu được tài bồi bởi hai con sông Trà Câu phía Tây Nam và sông Thoa phía Đông Bắc. Đây là một cộng đoàn Kitô hữu có lẽ xuất phát từ giáo xứ Bầu Gốc, một cộng đoàn giáo xứ lâu đời, và cũng thuộc “hàng tiên khởi” của giáo phận Tông tòa Đàng Trong mà mối liên quan với thừa sai lừng danh Đắc Lộ là một minh chứng cụ thể: “Khi nghe tin có linh mục ở Chợ Mới (Chai mi), giáo dân Bàu Gốc và Vom (Baobam) cử ba vị đầu mục đến Chợ Mới mời cha Đắc Lộ về thăm họ. Tại đây, nhờ sự nhiệt tình của một giáo dân Bàu Gốc là ông Giuong Ky, nguyên là quan chức ở kinh đã bị chúa Nguyễn Phước Lan cất chức vì theo đạo, nên các tín hữu rất sốt sắng, có nhà thờ to lớn và đẹp. Mười lăm ngày (hay 18 ngày) ở Bàu Gốc và Vom, cha Đắc Lộ ban các Bí tích và rửa tội được 300 người. Trong khi cha giải tội, ông Giêrônimô và ông Giuong Ky dạy giáo lý cho các dự tòng. Cha ghi lại tâm tình của cha trong những ngày ở Bàu Gốc như sau: ‘Thế là tôi tới Baobam. Không ngờ giáo dân tiếp đón tôi nồng hậu đến thế, không những người ở trong tỉnh mà cả những người vùng lân cận. Tôi thấy có một nhà thờ rất đẹp, khá rộng lớn và tôi cùng vào với cả đoàn thể giáo dân. Họ đói khát lời Chúa và các phép Bí tích, vì thiếu thốn từ rất lâu. Họ không để cho tôi được thong thả ăn uống hay ngủ nghỉ. Thực ra tôi rất sung sướng khi thấy họ, và cũng thật quá những gì tôi muốn nói. Ngay lúc này, viết tới đây, tôi còn nhớ đến giây phút êm đềm lúc đó và nước mắt tôi lại trào ra. Tôi coi như trên đời này không thể có một cảm xúc thấm thía hơn...’”.
Thật không may, vùng đất đã từng được mệnh danh là “Trưởng Nữ” của Giáo Hội Đàng Trong, Quảng Ngãi lại là một trong những vùng bị bách hại nặng nề nhất thời Minh Mạng, Tự Đức, nhất là thời Văn Thân. Trà Câu cũng không thoát khỏi “thân phận nạn nhân” của cuộc “nồi da xáo thịt” mù quáng và không đáng có nầy. Theo lời kể của Ông Ngoại tôi, mà vào thời điểm Văn Thân tàn sát Trà Câu đã là một cậu bé khoảng 7,8 tuổi, thì chính nhờ “Bà Cố ngoại” dẫn hai cậu con lánh nạn “bắt đạo” tại Trà Câu, đã chứng kiến phần nào bi kịch tại sông Thoa. Ngày đó, đang lúc thủy triều xuống, bà cố ngoại dẫn hai cháu lội qua sông Thoa tại Bến Đò Mốc, vào núp tạm tại cấm Bàng An, một khu rừng nhỏ gần bến sông phía Đông (thuộc xã Phổ Quang bây giờ). Trưa hôm ấy, từ trên cây, hai cậu bé đã nom thấy cả đoàn quân lính Văn Thân di lý những giáo dân Trà Câu trên đường “tư ích” xuống bến đò Mốc và men theo bên hữu ngạn xuôi về phía nam, cho tới đoạn sông rộng và sâu nhất mà dân địa phương gọi là “Vực Ô Rô”. Và tại đây, trong những chiếc “giỏ chiên” bằng tre, từng giáo dân bị trói chặt, xung quanh giỏ chiên đeo những hòn đá nặng…; và cứ thế, bị ném xuống tại khúc sông sâu thăm thẳm nầy. Nếu có ai đó, vì tuột đá, bức dây trói, trồi lên mặt nước, lập tức bị quân Văn Thân dùng những cây dáo mác bén nhọn đâm ghì đầu xuống cho đến chết mới thôi… Và từ ấy, cái vực Ô Rô nầy đã được dân địa phương đổi thành “Vực Đạo”; và danh xưng ấy còn lưu truyền mãi tới hôm nay…
Sông Thoa bây giờ, so với hơn 60 mươi năm về trước, không con mang nguyên dáng dịu dàng tự nhiên như một “cô Thoa” trẻ trung, hồn nhiên…; mà gần như đã trở thành một “bà Thoa” già với những can thiệp của bàn tay con người; và phải kể đến một số các công trình phúc lợi mang tính “ăn xổi ở thì” và non nớt, chụp giật không tính gì đến những quy luật của thiên nhiên và việc “bảo vệ môi trường sinh thái”. Nước dòng sông Thoa vẫn trôi qua cửa Mỹ Á, một cửa biển đẹp mà ở hai bờ Nam Bắc đều là những vách núi đá thiên nhiên mang dáng hình non bộ đẹp mắt. Chiếc cầu Hải Tân vừa hoàn thành (2020) đã nối hai bờ Mỹ Á, đoạn cuối Sông Thoa, biến con đường giao thương phía đông Đức Phổ trở nên thuận lợi và vùng đất biển, “đất cát”, vốn nghèo nàn với khoai lang khoai mì… bỗng dưng thay đổi diện mạo.
Tuần Thánh năm nay có dịp hành hương về Vực Đạo; men theo dọc bờ sông Thoa, ra tận cửa Mỹ Á, vượt cầu Hải Tân, để cử hành Tam Nhật Vượt Qua nơi một giáo điểm ở thị xã Đức Phổ. Cộng đoàn Đức Phổ - Trà Câu bây giờ chỉ vỏn vẹn mấy chục giáo dân; thế hệ Kitô hữu ít ỏi còn lại, không phải của một thời Văn Thân bách hại kinh hoàng, mà còn sau liên tiếp những cuộc chiến huynh đệ tương tàn, những cuộc di cư tản cư thất điên bát đảo, những cuộc oán thù ý thực hệ hiểm độc dai dẳng, những đòn trả thù nợ máu man rợ, bất nhân; hay những thiên tai, nhân tai khác…
Con sông vẫn ngàn đời im lặng ! Nhưng hình như dọc bờ sông Thoa, những cây cỏ dại, những bụi sậy lau…, đang thỏ thẻ những “câu chuyện dòng sông”, trong đó, hình như có câu chuyện: một số người đã bỏ mạng ở đây đang khi còn mang cây thập giá trên ngực !
Sơn Ca Linh (Tuần Thánh 2021 tại Trà Câu – Đức Phổ)
El = thần tính (deity). Danh từ này khá chung tại miền Cận Đông, chở theo ý niệm cao cả uy linh, nhiều khi cũng được dùng để chỉ quyền năng (power) như St. 31:29 hoặc Đnl. 28:32, hay những nét hùng vĩ thiên nhiên như cây trắc bá Libăng (Tv 80:10), núi non (Tv 36:6). Ta cũng thấy chữ này trong nhiều tên người như Ismael, Emmanuel (Chúa ở cùng chúng tôi). Thời Môsê, El đồng nghĩa với Đấng Thiên Chúa đã giải thoát Israel khỏi cảnh tôi mọi Ai Cập và làm họ chiến thắng nơi trận tiền (Ds 24:8). Truyền thống coi El như đấng Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong uy quyền và thiết lập liên hệ giao ước với Dân Người rất rõ trong cả thi ca (Tv 7:11; 85:8) lẫn văn chương tiên tri (Is 43:12; 46:9).
Elah = thần minh (god), gốc tiếng Aram, tương đương với hạn từ eloah của Hipri và đồng âm với hạn từ allah của Ả-rập. Đây là hạn từ chung chỉ Thiên Chúa trong các bản văn Aram của Bộ Cựu ước, nhất là sách Étra (46 lần, giữa các đoạn 4:23 và 7:26). Trong Étra, khi nhắc đến tên này, dù người nói là là Do Thái hay không, cũng đều ám chỉ về Thiên Chúa của Israel (Er 5:8, 15). Sách Giêrêmia (cũng viết bằng tiếng Aram) có một câu (câu 10:11) nhắc đến Elah ở số nhiều để chỉ các thần giả của ngoại giáo, những thần này sau cùng đã suy vong vì bản chất không vĩnh hằng. Sách Daniel nhắc đến Elah để chỉ cả các thần ngoại giáo lẫn Thiên Chúa chân thật mà Daniel tôn thờ. Chữ tương đương của Elah trong tiếng Hipri là Eloah thì ít được dùng hơn, ngoại trừ trong sách Gióp. Nhiều học giả coi chữ này là số ít (singular) của một từ khác quen thuộc hơn đó là Elohim.
Elohim, một danh từ số nhiều, nhưng lại có động từ hay thuộc từ đi kèm ở số ít, với nghĩa chỉ một vị thần hay vị thần duy nhất. Trong Cựu Ước, chữ này được sử dụng rất nhiều (2,000 lần) để chỉ Thần đích thực và duy nhất, hay là Chúa Trời. Một trong những giòng văn chương Thánh Kinh được gọi là giòng văn chương Eloist (E) cũng là vì vậy vì dòng văn chương này dùng hạn từ Elohim để chỉ Thiên Chúa, khác với dòng văn chương Yavist (Y) dùng hạn từ Yahweh.
Adon (Adonai) dùng diễn tả Thiên Chúa như đấng Tối Cao hoặc Chúa Tể, nhấn mạnh đến uy quyền thần linh và vai trò thống trị của Người.
Yahweh: Ngoài những danh từ chung trên đây mà gốc gác còn tìm thấy nơi các nền văn hóa Cận đông khác, Thiên Chúa đã mặc khải chính tên riêng của mình là Yahweh. Tuy nhiên vì tôn kính, trong các buổi đọc sách công cộng, người ta thường tránh nêu tên riêng, mà chỉ gọi Người là Chúa (Lord), hoặc Chúa Thiên Chúa (Lord God). Tính thân mật vì thế mà mất đi nhiều. Khi cho dân biết tên mình, Thiên Chúa muốn tỏ cho họ thấy bản tính thâm sâu nhất của Người. Xét theo nghĩa chữ, Yahweh liên hệ tới động từ ‘to be’ trong tiếng Do Thái. Động từ này không những chỉ có nghĩa hiện hữu hay hiện diện, mà đúng hơn nghĩa của nó là hiện diện một cách linh hoạt. Theo sách Xuất Hành (3:13-16), Yahweh hiện diện một cách linh hoạt giữa Dân Người, nhưng Người chọn thời điểm lúc họ cần được cứu vớt khỏi cảnh nô lệ nhất để tỏ cho họ biết điều đó.
El Shadday: Đây là chữ các tổ phụ cũng dùng để chỉ Thiên Chúa. El Shadday = Thiên Chúa cao cả. Shaddy có thể có nghĩa là ‘núi’ dùng một cách biểu tượng để chỉ sự bất biến và sức mạnh trường cửu, ngược với sự bất lực của con người. Xem St. 17:1; 28:3; 35:11; 43:14; 49:25. Giao ước với Abraham được đánh dấu bằng sự thân mật giữa El Shadday và con người. El Shadday tỏ mình ra như vị thần minh uy quyền có thể thực hiện bất cứ điều gì Người phán ra. Nhưng Người cũng là người biết săn sóc và yêu thương gia đình mà Người tuyển chọn, bảo bọc và làm cho thịnh vượng. Người dẫn dắt gia đình này khắp nơi, luôn hiện diện bên họ. Người không bận tâm đến những nghi thức phụng tự hoặc các cử hành cuồng loạn say sưa. Trái lại, Người đòi hỏi nơi Abraham và con cháu ông sự vâng lời nếu muốn bước đi với Người, và phải sống một đời sống luân lý và thiêng liêng không tì vết (St17:1). Bởi thế, việc phụng sự đấng El Shadday không có tính phụng tự hay lễ nghi mà là luân lý đạo đức.
El Elyon = Thiên Chúa Tối Cao (St 14:18).
El Roi = Thiên Chúa Thông Biết (St 16:13);
El Olam= Thiên Chúa trường cửu (St 21:33).
El Bethel = Chúa Bethel (Ta là Thiên Chúa Bethel, nơi ngươi đã xức dầu thạch trụ, và đã khấn lời khấn với ta, St 31:13). Bethel cách Bắc Giêrusalem chừng 19 cây số, nơi Giacóp mơ thấy chiếc thang từ trời xuống đất. Chúa hứa bảo vệ Giacóp và hưá ban đất ấy cho con cháu ông. Giacóp bèn đặt tên chỗ ấy là Bethel (nhà Chúa ở). Nhiều thế kỷ sau, khi dân Israel tiến vào Canaan, họ đã chiếm Bethel và định cư ở đấy.
El Elohe Yisrael = Chúa, Thiên Chúa của Israel (St 33:20).
Như thế, khi Yahweh được xưng tụng là ‘Thiên Chúa của cha ông các ngươi’ (Xh 3: 6, 13, 15, 16), thì tất cả những ý nghĩa trên đều đuợc đüa vào làm giầu ý niệm về Thiên Chúa Giavê.
Chúa nào như chúa?
Một vài phẩm tính dùng để nói lên bản tính của Chúa:
1. Chúa trong chính Ngài:
Đấng Thánh Duy Nhất: Đây là tước hiệu có tính cách quan trọng, trung tâm của tất cả các tước hiệu khác (Gs 24:19; Is 5:16; 10:17; Kbc 1:12).
Đấng Thánh Duy Nhất của Israel: Đây là kiểu nói dựa theo kiểu nói trên do Isaia sử dụng (Is 1:4)
Thiên Chúa ‘mà tên Người là Ghen Tuông’: chứng tỏ tình yêu nồng nàn của Người đối với Dân Riêng (Xh 34:14)
Chúa Các Đạo Binh: Một tước hiệu thường được lặp đi lặp lại cho thấy Người là đấng quyền năng vô cùng, mạnh mẽ vô song và đầy tiềm lực (Grm 32: 18b-23).
Ngoài ra, Chúa Yahweh còn được xưng tụng dưới nhiều tước hiệu khác nữa như Đấng chân thật, Đấng hằng sống (Grm 10:10), Đấng cao cả (Mk 6:6), Đấng thưởng phạt (Grm 51:56).
2. Đối với Thế giới:
Đấng Thiên Chúa trên không phải là Chúa của một vài người, mà là:
Đấng Hoá Công: Isaia 40:28;
Đấng Phán Xét: Sáng Thế 18:25;
Vua: Giêrêmia 10:7;
Chúa mọi xác phàm: Dân số 16:22; Giêrêmia 32:27.
3. Đối với Israel:
Ngài là Thiên Chúa đã đặc biệt tỏ mình ra cho một dân riêng:
Thiên Thần Chúa: Dù không mất đi thần tính mình, Chúa đã mặc hình dạng khác để nói với con người (St 16:7; Tp 13:16);
Thiên Chúa Dân Hipri: Xuất hành 5:3;
Chúa Israel: Gs 24:2.
Để nhấn mạnh đến ân phúc và lượng hải hà, Người cũng là Chúa Giacóp (Tv 81:4), đầy thánh thiện (Is 1:4), và quyền lực (Tv 132:2).
4. Thiên Chúa của từng mỗi cá nhân:
Trong hàng ngũ Dân Riêng, Người là Thiên Chúa của từng cá nhân: ‘Đấng tôi yêu mến’ (Is 5:1), ‘Chúa sự cứu độ tôi’ (Tv 18:46).
Sự phong phú trong ý thức về Chúa của Cựu Ước chỉ có thể nhìn ra trong những hình ảnh diễn tả về Chúa trong sinh hoạt hằng ngày. Ngài được biểu tượng như:
Núi Đá: Một tước hiệu phát xuất từ Xuất Hành 17: 1-7 (Xem Đệ Nhị Luật 32);
Mục tử: Tv 23:1;
Thuẫn, thành lũy: Tv 18:2;
Ánh sáng: Tv 27:1;
Sức Mạnh: Tv 28:7;
Nơi trú ẩn: Tv 37: 39;
Mặt Trời: Tv 84:11;
Cha: Tv 89:26; Is 63:16;
Chim Mẹ: Tv 91:4; so sánh với Is 31:5;
Sự Trợ giúp: Tv 115:9;
Bóng rợp: Tv 121:5;
Phần Gia Nghiệp: Tv 142:5;
Bài Ca: Is 12:2;
Đấng cứu chuộc: Is 41:14;
Chiến sĩ: Is 42:13;
Thợ gốm: Is 45:9;
Phu quân: Is 54:5;
Mạch Nước: Grm 2:13;
Sương Mai: Hs 14:5;
Sư Tử, Báo, Gấu: Hs 13: 7-8.
(Viết theo Nguyễn Thế Thuấn, Kinh Thánh; W.E. Vine, Merril F. Unger, William White Jr. Vine’s Complete Expository Dictionary of Old and New Testament Words; và David & Pat Alexander, Bible Handbook & A-Z Bible Encyclopedia)
Kỳ tới: Huệ Đồng Nội, Bùn Thành Phố
Bạn có nghe từ đỉnh đồi tiếng búa,
Lẫn tiếng rên chịu đựng của Thầy tôi?
Đinh sắt đóng lủng tay chân Người rồi,
Tiếng chan chát gõ vọng hoài không dứt!
Bạn có xem lúc Người ngã xuống đất?
Roi quất con Mẹ tan nát cõi lòng,
Thánh Giá nặng đè lưng gầy uốn cong,
Giờ khổ nạn Mẹ theo không ngần ngại.
Mẹ vững bước không ngoảnh đầu nhìn lại,
Trên dốc chiều vang mãi những đòn roi.
Khổ thân con bầm dập, tóc tả tơi,
Mẹ lần theo đếm máu rơi trên sỏi.
Bạn có nghe khi Thầy tôi trăn trối?
Xin Chúa Cha tha tội kẻ hại Người.
Dạy yêu thương qua hành động tuyệt vời,
Giá cứu chuộc Thầy vâng lời trả hết!
Bạn có thấy khi Thầy tôi gục chết?
Bao lỡ lầm Thầy xóa hết cho tôi,
Nhưng bao lần tôi hứa, chẳng giữ lời,
Vẫn lạc lối xa vời Ơn Cứu Độ!
Bạn có đến chỗ chôn Thầy trong Mộ?
Không thấy Người vì biến cố Phục Sinh!
Sau ba ngày đúng như lời Thánh Kinh,
Thầy sống lại trong quang vinh sáng tỏ.
Tôi lắng nghe tiếng chiều rơi ngoài ngõ,
Tiếng chân Thầy bước trên cỏ trong đêm.
Và có nghe tiếng gõ cửa bên thềm,
Nhưng lặng lẽ, tôi nằm im không dậy.
Mẹ Lộ Đức xin Mẹ thương chỉ dạy,
Đường đời nhiều cám dỗ phải cậy trông.
Giúp con đây can đảm mãi vững lòng,
Như xưa Mẹ đã hiệp thông cùng Chúa.
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Ngày thứ 3 Ngài đã sống lại
như lời Thánh kinh….Alleluia !
Tại Thánh Địa Giêrusalem, Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày suy tư về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, ở những nơi biến cố này đã xảy ra. Bất chấp hoàn cảnh cụ thể của năm nay, do những hạn chế do tình trạng khẩn cấp về sức khỏe, ngay từ sáng, những lời cầu nguyện của cộng đồng Phan sinh tại Mộ Thánh đã dâng lên Thiên Chúa từ đồi Canvê, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, nhân danh toàn thể Giáo hội. Buổi lễ do Đức Thượng Phụ Pierbattista Pizzaballa của Tòa Thượng Phụ Latinh chủ sự, diễn ra với ba phần: phụng vụ lời Chúa, chầu thánh giá và rước lễ.
Trước Tảng đá Golgotha, nơi đặt cây thánh giá của Chúa Kitô, Đức Thượng Phụ đã giơ cao Thánh giá trong giây phút tôn thờ. Nghi thức này có từ thế kỷ thứ 4, khi dân chúng tụ tập vào Thứ Sáu Tuần Thánh, chính xác tại vị trí này, để tôn thờ Thánh Giá, trong khi các phần Kinh Thánh về Cuộc Khổ Nạn của Chúa được công bố. Buổi cử hành kết thúc với việc trao Mình Thánh Chúa được truyền phép vào ngày hôm trước.
Con đường của Chúa Giêsu hướng tới đồi Canvê cũng được tiếp nối vào lúc 11:30 sáng với Đàng Thánh Giá truyền thống dọc theo con đường Via Dolorosa, được Cha Francesco Patton, là Custos, tức là bề trên dòng Phanxicô tại Thánh Địa, chủ sự cùng với các linh mục, tu sĩ Dòng Anh Em Hèn Mọn. Con đường Via Dolorosa năm nay được canh gác nghiêm ngặt, trước sự chứng kiến của cảnh sát và các nhà báo. Lời cầu nguyện lưu động này, bắt đầu từ tu viện Phanxicô ở Flagellation, được lặp lại vào thứ Sáu hàng tuần. Vào Thứ Sáu Tuần Thánh buổi cầu nguyện có sự tham gia đông đảo nhất, đặc biệt là của những người hành hương đến Giêrusalem dự Tuần Thánh từ khắp nơi trên thế giới. Trong giai đoạn khẩn cấp về sức khỏe này, những con đường vắng của Thành phố Cổ là bối cảnh cho buổi cầu nguyện, với những bài hát và lời cầu nguyện của các tu sĩ dòng Phanxicô hiện diện. Khoảnh khắc cầu nguyện và suy ngẫm về cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu này đã đạt đến đỉnh điểm trên đồi Canvê, địa điểm thực tế nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, và trong Nhà thờ Mộ Thánh, nơi lưu giữ ký ức về sự Phục sinh của Chúa.
Lúc 6h chiều thứ Sáu 2 tháng Tư, Thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Thánh Cha đã chủ sự Phụng Vụ Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó Chúa Kitô tại bàn thờ Ngai Tòa bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô.
Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên, phủ Giáo Hoàng đã giảng trong buổi cử hành.
Mở đầu bài giảng, Đức Hồng Y nói:
Thông điệp này nhắm đến đông đảo độc giả, trong và ngoài Giáo hội, thực tế là toàn thể nhân loại. Bức thư trải dài trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống, từ khu vực tư nhân đến khu vực công, và từ các giới tôn giáo đến các thành phần xã hội và chính trị. Với phạm vi phổ quát của thông điệp này, tài liệu đã rất đúng khi tránh không giới hạn cuộc thảo luận vào những khía cạnh đặc thù chỉ thuộc về các tín hữu Kitô. Ở cuối thông điệp, có một đoạn trong đó các nền tảng phúc âm của tình huynh đệ được tóm tắt. Không nhiều ngôn từ, nhưng ý nghĩa rất sinh động, đoạn văn viết như sau:
Những người khác uống từ các nguồn khác. Đối với chúng ta, nguồn gốc của phẩm giá con người và tình huynh đệ là từ trong Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô. Từ Phúc Âm nảy sinh điều này là “tư tưởng Kitô giáo và hành động của Giáo hội đặt lên hàng ưu việt các mối quan hệ, những sự gặp gỡ với mầu nhiệm thánh thiêng của tha nhân, và sự hiệp thông phổ quát với toàn thể gia đình nhân loại, như một ơn gọi của tất cả mọi người” (Ft 277).
Mầu nhiệm thập giá mà chúng ta đang cử hành buộc chúng ta phải tập trung chính xác vào nền tảng Kitô học của tình huynh đệ đã được khai mạc trên đồi Canvê.
Đôi khi, Tân Ước sử dụng thuật ngữ anh em (adelfos) theo nghĩa nguyên thủy, phổ biến nhất của từ này là, anh chị em, một người được sinh ra cùng cha và cùng mẹ. Thứ hai, những người thuộc cùng một quốc gia hoặc dân tộc cũng được gọi là anh em. Thánh Phaolô nói rằng giả như vì anh em đồng bào của ngài theo huyết thống, mà ngài có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì ngài cũng cam lòng (x. Rm 9: 3). Trong những bối cảnh đó, cũng như những trường hợp khác, anh em là một thuật ngữ chung bao gồm nam và nữ, anh chị em với nhau.
Theo đặc tính của nó, ý nghĩa của từ này mở rộng để bao gồm mỗi con người. Trong Kinh thánh, từ anh em, theo nghĩa này, đôi khi được dịch là người lân cận. “Ai ghét anh em mình..” (1 Ga 2: 9) có nghĩa là “ai ghét người lân cận của mình”. Khi Chúa Giêsu nói: “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40), Người có ý bao gồm mọi người cần được giúp đỡ.
Bên cạnh tất cả những sắc thái này, Tân Ước còn dùng từ anh em để chỉ một nhóm người cụ thể. Anh em tôi là các môn đệ của Chúa Giêsu, những người chào đón giáo huấn của Ngài.
“Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? […] Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12, 48-50).
Lễ Phục sinh đánh dấu một bước phát triển mới và mang tính quyết định trong vấn đề này. Trong Mầu nhiệm Vượt qua, Đức Kitô trở thành “trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8:29). Các môn đệ trở thành anh chị em theo một nghĩa mới và rất sâu sắc. Họ không chỉ có chung một niềm tin vào giáo huấn của Chúa Giêsu, mà còn chia sẻ Thần Khí của chính Ngài, và sự sống mới của Ngài là Đấng Phục Sinh.
Điều đáng nói là chỉ sau khi phục sinh, lần đầu tiên Chúa Giêsu mới gọi các môn đệ là anh em của Người. Ngài bảo bà Maria Mađalêna, “hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’” (Ga 20:17). Thư gửi người Do Thái sử dụng thuật ngữ này theo cùng một nghĩa như thế, “Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em” (Dt 2,11).
Sau sự kiện Phục sinh, đây là cách dùng phổ biến nhất của thuật ngữ anh em. Nó chỉ ra một người anh em trong đức tin, một thành viên của cộng đồng Kitô hữu. Họ cũng là anh em ruột thịt - nhưng trong huyết thống của Chúa Kitô! Vì Chúa Kitô cũng là Thiên Chúa, nên tình huynh đệ này vừa độc nhất vừa siêu việt. Tình huynh đệ trong Chúa Kitô không thay thế các loại tình huynh đệ khác, do cùng gia đình, quốc gia, hay chủng tộc, nhưng đúng hơn, tình huynh đệ trong Chúa Kitô đề cao những điều này. Là những tạo vật có cùng Thiên Chúa và cùng Cha, tất cả loài người đều là anh em của nhau. Đức tin Kitô thêm một chiều kích thứ hai và mang tính quyết định. Chúng ta là anh em không chỉ bởi vì chúng ta đều được tạo thành bởi cùng một Cha, mà còn vì chúng ta, nhờ ơn cứu độ, có cùng một người anh, là Chúa Giêsu Kitô, là “trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”.
Một số hệ quả thực tế bắt nguồn từ sự thật này. Chúng ta phải xây dựng tình huynh đệ theo đúng cách mà chúng ta xây dựng hòa bình, đó là bắt đầu ngay với chính chúng ta, chứ không phải bằng những chiến lược vĩ đại và những mục tiêu trừu tượng, đầy tham vọng. Đối với chúng ta, điều đó có nghĩa là tình huynh đệ phổ quát phải bắt đầu từ trong lòng Giáo Hội Công Giáo. Lần này, tôi muốn đặt sang một bên ngay cả vòng tròn thứ hai, tức là tình huynh đệ tồn tại giữa tất cả các tín hữu tin vào Chúa Kitô trong phong trào đại kết.
Tình huynh đệ giữa những người Công Giáo đang bị thương tổn! Sự chia rẽ giữa các Giáo hội đã xé chiếc áo dài của Chúa Kitô thành từng mảnh, và tệ hơn nữa, mỗi dải vụn đã bị cắt thành những đoạn nhỏ thậm chí còn nhỏ hơn. Dĩ nhiên là tôi muốn đề cập đến yếu tố con người của thảm kịch này, bởi vì không ai có thể xé được chiếc áo dài thật của Chúa Kitô, là thân thể mầu nhiệm của Người được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần. Trong mắt Thiên Chúa, Giáo hội là “duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền”, và sẽ tiếp tục như thế cho đến ngày tận thế. Tuy nhiên, điều này không biện minh cho những chia rẽ của chúng ta, nhưng làm cho những chia rẽ ấy trở nên tội lỗi hơn và phải thúc đẩy chúng ta mạnh mẽ hơn nữa để chữa lành chúng.
Nguyên nhân phổ biến nhất của sự chia rẽ gay gắt giữa các tín hữu Công Giáo là gì? Đó không phải là vì tín lý, cũng không phải là vì các bí tích và các thừa tác vụ, không phải vì những điều mà chúng ta gìn giữ một cách trọn vẹn và phổ quát nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Sự chia rẽ làm phân cực người Công Giáo bắt nguồn từ các lựa chọn chính trị phát triển thành các ý thức hệ chiếm ưu tiên hơn so với các cân nhắc liên quan đến tôn giáo và giáo hội và dẫn đến việc hoàn toàn từ bỏ giá trị và bổn phận vâng phục trong Giáo hội.
Ở nhiều nơi trên thế giới, những sự chia rẽ này là rất thực tế, mặc dù chúng không được nói đến một cách công khai, hay bị phủ nhận một cách quyết liệt. Đây là tội lỗi theo nghĩa nguyên thủy của nó. Nước thế gian này trở nên quan trọng trong lòng người hơn là Nước Trời.
Tôi tin rằng tất cả chúng ta cần phải tự vấn lương tâm một cách nghiêm chỉnh về vấn đề này và hoán cải. Khích động chia rẽ là công việc xuất sắc của kẻ có tên là ‘diabolos’ tức kẻ chia rẽ, kẻ thù gieo cỏ lùng, như Chúa Giêsu đã nhắc đến trong dụ ngôn (x. Mt 13:25).
Chúng ta cần học hỏi từ gương của Chúa Giêsu và từ Phúc âm. Chúa Giêsu sống vào thời kỳ phân cực chính trị mạnh mẽ. Có bốn phe phái tồn tại vào thời ấy là nhóm Pharisêu, nhóm Sađốc, nhóm Hêrốt và nhóm Dêlốt. Chúa Giêsu không đứng về phía bất kỳ nhóm nào trong số những phe phái này và mạnh mẽ chống lại những nỗ lực lôi kéo về phe này hay phe kia. Cộng đồng Kitô hữu tiên khởi đã trung thành theo Chúa trong lựa chọn đó, nổi bật nhất là gương sáng của các mục tử, những người cần phải là người chăn dắt toàn thể đàn chiên, chứ không chỉ một phần của đàn chiên.
Các mục tử cần phải là những người đầu tiên tự vấn lương tâm một cách nghiêm túc. Họ cần tự hỏi mình xem họ đang dẫn đàn chiên của mình đến đâu - đến với quan điểm của họ hay quan điểm của Chúa Giêsu. Công đồng Vatican II đặc biệt giao phó cho giáo dân nhiệm vụ diễn dịch các tác động xã hội, kinh tế và chính trị của Tin Mừng vào thực tiễn trong các hoàn cảnh lịch sử đa dạng, luôn luôn một cách tôn trọng và hòa bình.
Nếu có một đặc sủng hoặc ân sủng đặc biệt mà Giáo Hội Công Giáo được kêu gọi để vun đắp cho tất cả các Giáo hội Kitô, thì đó chính là sự hiệp nhất. Đối với các dân tộc bị áp bức những người sống sót sau các cuộc bách hại, sau các hành động tàn bạo, và chiến tranh, chuyến tông du gần đây của Đức Thánh Cha đến Iraq cho chúng ta thấy tận mắt ý nghĩa lớn lao của cảm thức thuộc về cùng một Giáo Hội phổ quát, trong đó có người lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, để tiếng kêu của họ có thể được phần còn lại của thế giới nghe thấy và để hy vọng được hồi sinh. Một lần nữa nhiệm vụ của Chúa Kitô đối với Phêrô, “Hãy củng cố anh em Thầy” (Lc 22:32) đã được hoàn thành.
Trước Đấng đã chết trên thập giá “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11:52), với tinh thần khiêm tốn và tấm lòng kiên trung, chúng ta hãy cất lên lời cầu nguyện mà Giáo hội ngỏ với Người trước khi rước lễ trong mỗi Thánh lễ:
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các Tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa; xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hợp nhất theo thánh ý Chúa. Amen.
Source:Holy See Press Office
Biên soạn bởi Nhóm Hướng đạo Agesci “Foligno I” ở Umbria, và các trẻ em từ các lớp giáo lý Rước Lễ Lần Đầu và Thêm Sức tại giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Uganda ở Rôma
Lời Dẫn NhậpLạy Chúa Giêsu,
Chúa biết rằng ngay cả trẻ em cũng có những cây thánh giá, không nhẹ hơn cũng không nặng hơn của người lớn, nhưng chúng là những cây thánh giá thực sự, gây ra những cảm giác nặng nề ngay cả vào ban đêm. Và chỉ Chúa mới biết điều đó và quan tâm đến điều đó một cách nghiêm chỉnh. Chỉ có Chúa.
Chỉ có Chúa mới biết trẻ em khó khăn như thế nào để học được cách không sợ bóng tối và cô đơn.
Chỉ có Chúa mới biết rằng các em khó khăn như thế nào khi không thể kiềm chế bản thân và thức dậy ướt đẫm mồ hôi mỗi sáng.
Chỉ Chúa mới biết các em khó khăn ra sao khi không thể nói năng lưu loát như những người khác, suy nghĩ nhanh và hành động đúng.
Chỉ có Chúa mới biết những đứa trẻ ngỡ ngàng như thế nào khi chứng kiến cảnh cha mẹ chúng cãi vã, đóng sầm cánh cửa và không nói chuyện với nhau trong nhiều ngày.
Chỉ có Chúa mới biết các em khó khăn như thế nào khi bị người khác chế giễu và nhận ra rằng chúng bị loại khỏi các nhóm bạn.
Chỉ có Chúa mới biết nghèo khó nghĩa là gì và nỗi buồn khi phải từ bỏ giấc mơ có được những gì bạn bè đang có.
Chỉ có Chúa biết rằng trẻ em khó biết chừng nào để có thể giải thoát khỏi một bí mật khiến chúng bị tổn thương, không biết nói với ai vì sợ bị phản bội, bị buộc tội hoặc không được tin tưởng.
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, Chúa cũng đã từng là một đứa trẻ như chúng, Chúa cũng đã chơi đùa và có lẽ đã té ngã và bị thương; Chúa cũng đã đến trường và có thể một số bài tập về nhà không diễn ra tốt đẹp; Chúa cũng đã có cha có mẹ và Chúa biết rằng trẻ em ngày nay đôi khi không muốn vâng lời khi được yêu cầu làm bài tập, đổ rác, dọn giường và dọn dẹp phòng ngủ; Chúa cũng đã đi học giáo lý và cầu nguyện và Chúa biết rằng không phải lúc nào trẻ em cũng đến đó với nhiều niềm vui.
Lạy Chúa Giêsu nhân lành của con, Chúa biết trên hết rằng trên thế giới này có những trẻ em không có thức ăn, không được học hành, bị bóc lột và buộc phải ra trận.
Xin Chúa giúp họ mỗi ngày vác thập tự giá của mình. Xin giúp các em ngày càng trở nên tốt hơn: được như thánh ý Chúa muốn.
Chúng con cảm ơn Chúa vì chúng con biết rằng Chúa luôn gần gũi với các em và Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng, đặc biệt là khi chúng sợ hãi, và Chúa đã sai Thiên thần Hộ mệnh bảo vệ và soi sáng các em mỗi ngày. Amen.
Đức Thánh Cha:
Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Đáp: Amen
Chặng thứ nhất: Quan Phongxiô Philatô luận giết Chúa Giêsu
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Ông Philatô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giêsu thì ông trao nộp theo ý họ muốn. (Lc 23, 20-21. 24-25).
Suy Niệm:
Khi con học lớp một, Marco, một đứa trẻ cùng lớp với con, bị đổ lỗi đã ăn trộm đồ ăn vặt của bạn cùng lớp. Con biết đó không phải là sự thật, nhưng con im lặng, đó không phải là vấn đề của con, và sau đó mọi người quyết liệt cho rằng anh ấy là thủ phạm. Tại sao con lại phải can thiệp?
Mỗi khi nghĩ lại con vẫn thấy xấu hổ, thấy đau đớn cho hành động đó của mình. Lẽ ra, con có thể giúp người bạn này của mình, nói lên sự thật và giúp thực thi công lý, nhưng thay vào đó, con đã cư xử như Philatô và con muốn phớt lờ điều đó. Con đã chọn con đường thoải mái nhất và rửa tay sạch sẽ. Hôm nay con hối hận vô cùng: Con muốn có một chút can đảm, làm theo trái tim mình và giúp đỡ người bạn của con đang gặp khó khăn.
Đôi khi chúng con chỉ nghe thấy tiếng của những kẻ thực thi và mong muốn điều ác. Công lý là một con đường thăng trầm, với những trở ngại và khó khăn, nhưng chúng con có Chúa Giêsu ở bên cạnh, sẵn sàng hỗ trợ và giúp đỡ chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con một trái tim đơn sơ và chân thành, để con có đủ can đảm và sức mạnh để có thể bước đi theo đàng công chính của Chúa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.” ( Tv 23: 4).
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa là Cha nhân lành, xin ban Thần Khí Chúa và sức mạnh cho chúng con, vì chỉ như thế, chúng con mới có can đảm làm chứng cho chân lý của Chúa, cho con đường công lý và hòa giải. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Mẹ Sầu Bi đứng bên thánh giá, nhìn Con yêu đôi mắt lệ sa.
Chặng thứ hai: Chúa Giêsu vác thánh giá
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Trong lớp, chúng con thay phiên nhau đọc to truyện Con Chim Hải Âu Và Con Mèo. Khi đến lượt Martina, cô ấy bắt đầu nhầm lẫn các chữ cái với nhau và do đó câu chuyện trở thành vô nghĩa. Hết chữ này đến chữ khác, con bắt đầu cười khúc khích và tất cả những bạn khác cũng làm theo. Con vẫn nhớ Martina mặt đỏ bừng, giọng nói đứt quãng và đôi mắt rưng rưng.
Có thể chúng con không cố ý cười cô ấy, nhưng chúng con đã gây ra cho cô ấy bao nhiêu đau đớn bằng tiếng cười của mình!
Bách hại không phải là một ký ức xa xăm đến tận hai ngàn năm trước: đôi khi một số hành động của chúng ta có thể trở thành một lời phán xét, làm tổn thương và chà đạp anh chị em mình.
Đôi khi làm cho ai đó đau khổ có thể khiến chúng ta có chút thích thú, bởi vì đằng sau những đau khổ đó, chúng ta đã che đậy những bất toàn của chính mình.
Chúa Giêsu đã dạy chúng con yêu và trong tình yêu của Người, chúng con tìm thấy câu trả lời cho mọi đau khổ. Chúng con phải sẵn sàng làm mọi thứ để không làm hại người khác, để làm điều tốt cho họ.
Lạy Chúa, không có gì có thể ngăn cách chúng con khỏi tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con biết yêu thương những anh chị em kém may mắn của mình.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa là Cha nhân lành, Chúa đã sai Chúa Giêsu đến trong thế gian, và vâng phục cho đến chết, xin ban cho chúng con sức mạnh của đức ái để can đảm vác thập giá của chúng con. Xin ban cho chúng con hy vọng của Chúa và cho chúng con biết cách nhận ra Chúa ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối nhất của cuộc đời chúng con. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Lòng thân mẫu như gươm sắc thâu qua, biết bao đắng cay cùng Chúa chan hòa, ôi Mẹ đau khổ suy nào cùng.
Chặng thứ ba: Ðức Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Năm lớp 5, môn Toán là môn con học giỏi nhất, con làm xong bài kiểm tra trong vài phút và con chỉ biết một kết quả duy nhất: “xuất sắc”.
Lần đầu tiên, khi con đọc thấy thầy giáo phê “thiếu sót”, con cảm thấy mình là hư vô, con cảm thấy sức nặng của một thất bại bất ngờ, con cảm thấy cô đơn và không ai an ủi con.
Nhưng khoảnh khắc đó đã khiến con trưởng thành hơn: ở nhà bố mẹ con đã an ủi con và khiến con cảm nhận được tình yêu của họ; Con đứng dậy và tiếp tục học tập. Hôm nay con biết rằng mỗi ngày chúng con đều có thể bị chùn bước và chúng con có thể gục ngã, nhưng Chúa Giêsu luôn ở đó để chìa tay ra cho chúng con, gánh vác thập giá của chúng con và thắp lại hy vọng trong chúng con.
Lạy Chúa, Chúa đã ngã xuống dưới sức nặng cây thập tự giá lớn mà Chúa đang vác. Con cũng thường bị ngã và bị thương. Xin Chúa giữ con vững bước trên con đường của con và cho con sức mạnh để mang vác những gánh nặng của con cùng với Chúa.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, Chúa đã gánh vác những đau khổ của chúng con và đưa chúng lên chiếc giá treo cổ nghiền nát và sỉ nhục. Xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con dưới sức nặng thập giá của chúng con, đôi khi chúng dường như quá nặng nề đối với chúng con. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Thương Con Một Thiên Chúa chí nhân, xưa vinh phúc vô ngần, nay Người đau khổ hơn mọi người.
Chặng thứ tư: Ðức Mẹ gặp Ðức Chúa Giêsu vác Thánh Giá
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Khi nghĩ về mẹ, con nhìn thấy khuôn mặt nhân hậu của mẹ, con cảm thấy hơi ấm từ những cái ôm của mẹ và con nhận ra tất cả tình yêu của mẹ dành cho con.
Mẹ đồng hành với con ở mọi nơi, tập đá banh, học tiếng Anh và học giáo lý vào các sáng Chúa Nhật.
Vào buổi tối, dù mệt nhọc, Mẹ vẫn giúp con trong khi con làm bài tập về nhà; và khi con gặp ác mộng vào ban đêm, Mẹ ngồi cạnh con, xoa dịu con và đợi con ngủ tiếp.
Nếu con có vấn đề, nghi ngờ, hay có suy nghĩ không hay nào đó, Mẹ luôn sẵn sàng lắng nghe con với nụ cười của mình.
Và trong những giây phút tồi tệ nhất, con không cần nói thành lời, chỉ cần một cái nhìn, Mẹ hiểu ngay và giúp con vượt qua mọi đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con xứng đáng được Đức Maria, Mẹ Thiên đàng ôm ấp vào lòng.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa là Cha nhân lành, xin ban cho chúng con gặp được ánh mắt yêu thương của Mẹ Maria, để mỗi người chúng con, khi thoát khỏi sự cô đơn nội tâm của mình, có thể yên nghỉ trong vòng tay từ mẫu của Mẹ, Đấng trong Chúa Giêsu đã ôm ấp và yêu thương mọi người. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Nào ai chẳng cùng than khóc thảm thương với Maria Mẹ Chúa thiên đàng trong giờ Con Chúa mang cực hình.
Chặng thứ năm: Ông Simon vác Thánh giá đỡ Ðức Chúa Giêsu
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Trong suốt mùa hè, con chơi với bạn bè cùng xóm trong công viên trước nhà. Từ vài tháng nay, chúng con đã có một người hàng xóm mới có một cậu con trai bằng tuổi con. Nhưng anh ấy không chơi với chúng con, thậm chí anh ấy không hiểu rõ ngôn ngữ của chúng con. Một ngày nọ, con nhận thấy rằng anh ấy đang quan sát chúng con từ xa, anh ấy muốn chơi với chúng con lắm, nhưng anh ấy không đủ can đảm để hỏi. Con đến gần anh ấy, chúng con giới thiệu bản thân mình và mời anh ấy chơi một trận bóng với chúng con. Walid đã là một trong những người bạn tốt nhất của con kể từ đó, và là một thủ môn cho đội của chúng con.
Nhìn một người từ xa, đầu tiên chúng con nhận thấy hình bóng, sau đó chúng con hiểu người đó là nam hay nữ và từ từ các chi tiết trên khuôn mặt người ấy hình thành, nhưng chỉ khi nhận ra người ấy là anh em, chúng con mới mở lòng đón nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chào đón với tình yêu thương tất cả những anh chị em cô đơn và bị gạt ra ngoài lề mà con sẽ gặp trên đường đời của mình.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra Chúa trong những người rốt cùng chúng con gặp trên đường đời; xin ban cho chúng con lòng can đảm và niềm hạnh phúc khi cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách đỗ nhà, cho kẻ rách rưới ăn mặc và chăm sóc những người đau yếu, gặp gỡ và tiếp đón Chúa trong những người anh chị em của chúng con. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Người ơi hãy trông Mẹ Chúa Giêsu dưới cây khổ đau tâm trí thảm sầu, sao lòng chai đá không buồn rầu?
Chặng thứ sáu: Bà Veronica trao khăn cho Ðức Chúa Giêsu lột mặt
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Hôm đó con phải chơi trận đấu quan trọng nhất của giải đấu, đó là cơ hội để thể hiện tất cả các kỹ năng của mình. Trong phòng thay quần áo, con đã bị nao núng và cảm thấy sợ hãi, nhưng khi bước vào sân, con thấy giữa các khán giả Marco, người bạn thân nhất của con, người mặc dù không yêu túc cầu, đã đến đó để ủng hộ con. Đó là lần đầu tiên anh ấy đến xem con thi đấu, và thật không may, chúng con đã thua cuộc.
Khi đang tắm, con buồn và nản lòng, nhưng khi rời khỏi phòng thay quần áo, con thấy bạn mình: anh ấy đã đợi con với ly nước cam trên tay. Chúng con đã dành thời gian bên nhau, và vì thế giờ khắc đó và ly soda cam đó khiến mọi thứ trở nên dễ chịu hơn, thất bại đã trở thành một ký ức bớt cay đắng hơn.
Một cuộc gặp gỡ, một cái nhìn, một cử chỉ có thể thay đổi một ngày của chúng con và lấp đầy trái tim của chúng con. Trong khuôn mặt đau khổ của một người bạn, hoặc thậm chí của một người lạ, có khuôn mặt của Chúa Giêsu, người đi cùng con đường với con. Vấn đề là liệu con có đủ can đảm để đến gần không?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được nhìn thấy ánh mắt của Chúa trong lúc khó khăn, để con có thể tìm thấy niềm an ủi trong tình yêu của Ngài.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, xin hãy để ánh sáng từ thiên nhan Chúa, đầy lòng thương xót, chữa lành những vết thương bị bỏ rơi và những tội lỗi làm khổ chúng con. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Giờ đây ngắm suy Con Chúa chí nhân hiến thân hy sinh chuộc lỗi nhân trần, cam chịu bao đớn đau nhục hình.
Chặng thứ bẩy: Ðức Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ hai
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Năm lớp 4, con muốn bằng mọi giá trở thành nhân vật chính trong vở kịch của nhà trường vào dịp cuối năm. Con đã làm việc chăm chỉ để lấy được phần đó, con đã lặp lại lời thoại nhiều lần trước gương, nhưng giáo viên đã quyết định giao phần đó cho Giovanni. Anh là một đứa trẻ luôn biệt lập với bạn bè.
Vào lúc đó, con cảm thấy nhục nhã và tức giận, với chính mình, với giáo viên và với Giovanni. Buổi biểu diễn thành công tốt đẹp, từ đó Giovanni cởi mở hơn với cả lớp.
Sự thất vọng của con đã được dùng để giúp đỡ một người khác, sự lựa chọn của giáo viên đã mang lại cơ hội cho người thực sự đang rất cần.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến con thành công cụ tình yêu của Chúa, xin cho con biết lắng nghe tiếng kêu đau khổ của những người đang sống trong hoàn cảnh khó khăn, để có thể an ủi họ.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, Chúa đã ngã xuống đất như bao người khác. Xin ban cho chúng con sức mạnh để đứng dậy trở lại khi chúng con thậm chí đã chán không còn muốn đứng dậy nữa. Xin tăng thêm cho chúng con xác tín rằng, trong mệt mỏi và chán nản, chúng con luôn có thể bắt đầu bước đi với Chúa bên cạnh chúng con một lần nữa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Mẹ Maria là suối yêu thương, hãy xin cho con đau đớn cùng Người, gây nhiều công phúc trên đường đời.
Chặng thứ tám: Ðức Chúa Giêsu đứng lại an ủi con thành Giêrusalem
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: “Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm!” Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!”, và với gò nổng: “Phủ lấp chúng tôi đi! Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người. (Lc 23: 27-32)..
Suy Niệm:
Anh em con đã chơi trò chơi điện tử cả buổi chiều. Khi buổi tối đến, mẹ hỏi chúng con đã làm bài tập chưa. Cả hai chúng con đều trả lời: “Rồi mẹ ạ”. Con ngay lập tức phóng nhanh về phòng và bắt đầu làm bài, trong khi em con vẫn ngồi xem TV trên ghế sofa.
Hôm sau nó không đi học, giả đau bụng kinh khủng.
Về nhà, con vào phòng em con và chúng con nói về những gì đã xảy ra: chúng con đã sai khi nói dối mẹ và em con lại còn giả vờ đau bụng nữa chứ.
Con bắt nó làm bài tập ngay lập tức, vì vậy con đã giúp em con bắt kịp ngày hôm qua. Sau khi hoàn thành, chúng con dành phần còn lại của buổi chiều để chơi.
Sửa sai anh em là một cử chỉ khó nhưng cần thiết, nó đòi hỏi sự dũng cảm, giản dị và tế nhị.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng làm cho trái tim chúng con đầy ngọt ngào và nhạy cảm, xin cho chúng con có khả năng chăm sóc những người anh em nhỏ bé nhất của mình.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, là Cha nhân lành, xin làm cho chúng con trở thành nhân chứng đáng tin cậy về lòng thương xót của Chúa. Xin hãy làm cho lời nói và hành động của chúng con luôn là dấu chỉ chân thành và tình bác ái đối với mỗi người anh em. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Nguyện xin lửa yêu nung đốt tâm con, biết yêu mến Chúa trọn cả tâm hồn, cho dù sao cũng không sờn lòng.
Chặng thứ chín: Ðức Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ ba
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Một năm qua cùng với gia đình chúng con đã không về thăm ông bà; bố mẹ con nói rằng điều đó rất nguy hiểm, chúng con có thể khiến ông bà mình nhiễm coronavirus. Con nhớ ông bà con lắm!
Con cũng nhớ những người bạn trong đội bóng chuyền và nhóm hướng đạo của con.
Con thường cảm thấy đơn độc.
Trường học cũng đã bị đóng cửa, trước đây đôi khi con không muốn đến trường, nhưng giờ này con chỉ muốn quay lại lớp học để gặp lại các bạn cùng lớp và thầy cô giáo.
Nỗi buồn cô đơn đôi khi trở nên không thể chịu đựng nổi, chúng con cảm thấy bị mọi người “bỏ rơi”, nụ cười héo hắt trên môi. Giống như Chúa Giêsu, chúng con thấy mình bị ngã sụp xuống đất.
Lạy Chúa Giêsu, ánh sáng ngàn thu, xin hãy chiếu sáng, khi con lạc vào những suy nghĩ đen tối nhất, và rời xa Ngài.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã lên đồi Canvê như một con chiên hiến tế, xin soi sáng cho chúng con trong đêm đen này, để chúng con không bị lạc trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Mẹ Maria xin hãy giúp con khắc sâu vết thương của Chúa nhân lành trong lòng con chẳng khi nào sờn.
Chặng thứ mười: Quân dữ lột áo Ðức Chúa Giêsu
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Trên các kệ trong phòng con có rất nhiều búp bê, mỗi con đều khác nhau. Vào mỗi dịp kỷ niệm, con lại nhận được một món quà mới, và con rất thích tất cả những người bạn nhỏ của mình.
Vào một ngày Chúa Nhật, trong lời thông báo vào cuối thánh lễ, cha xứ nói về việc quyên góp đồ chơi cho trẻ em tị nạn đến từ Kosovo.
Về nhà, con nhìn những con búp bê của mình và nghĩ “Con có thực sự cần chúng không?”
Với nỗi buồn, con chọn một vài cái, những cái cũ nhất, những cái mà con ít thích nhất. Con chuẩn bị hộp để mang đến nhà thờ vào Chúa Nhật tuần sau.
Tuy nhiên, vào buổi tối, con có cảm giác rằng mình chưa làm đủ. Trước khi con có thể ngủ được, chiếc hộp chứa đầy búp bê và những chiếc kệ đã trống trơn.
Loại bỏ những thứ thừa thãi làm nhẹ tâm hồn và giải thoát chúng con khỏi sự ích kỷ.
Cho đi khiến bạn hạnh phúc hơn là nhận lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy gìn giữ trái tim con, xin cho tim con thoát khỏi sự nô lệ của cải vật chất. Xin giúp con có thể cho đi không chỉ những thứ thừa thãi mà còn cả những thứ cần thiết nữa.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, là Cha nhân lành, xin thu hẹp khoảng cách giữa chúng con với nhau, xin cho chúng con quảng đại chia sẻ những ân sủng quan phòng của Chúa với anh chị em của chúng con. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Nguyện xin khóc than với Đức Nữ Trinh, đớn đau thảm thương chung với Chúa mình, bao ngày con sống trên phàm trần.
Chặng thứ mười một: Quân dữ đóng đanh Ðức Chúa Giêsu
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Vào ngày lễ Giáng sinh cùng với nhóm hướng đạo sinh, chúng con đến Rôma, để cùng các Nữ tu Bác ái Thừa sai phân phát bữa trưa cho những người nghèo khó, nên phải bỏ ngày nghỉ cùng gia đình.
Trên đường đến đó bằng xe lửa, con nghĩ về tất cả những thứ con sẽ bỏ lỡ: bánh cappelletti do đích thân bà Maria làm, trò chơi lô tô, trò chơi ô chữ, những món quà bị vứt bỏ trước bếp lửa...
Trở về, con nghĩ đến khuôn mặt của những người con đã phục vụ, nụ cười và câu chuyện của họ. Ý nghĩ về việc đã mang đến cho những người đó một khoảnh khắc thanh thản đã làm cho mùa Giáng sinh đó không thể nào quên.
Dâng mình và phục vụ mình bằng tình yêu thương là lời dạy mà Chúa Giêsu ban cho chúng con trên thập tự giá.
Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát chúng con khỏi niềm kiêu hãnh và những định kiến của chúng con, để trái tim chúng con rộng mở với người khác.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ân sủng để không bị đóng đinh vào tội lỗi của chúng con, nhưng xin giúp chúng con nhìn thấy trong tất cả những yếu đuối của chúng con, một khả năng mới để sức mạnh của Thập giá ban sự sống và hy vọng của Chúa chiếu sáng những lỗi lầm của chúng con. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Mẹ Maria trinh khiết vô song, hãy xin cho con chung nỗi u buồn, không hề than trách, không ngại ngùng.
Chặng thứ mười hai: Ðức Chúa Giêsu sinh thì trên Thánh Giá
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Cách đây một thời gian ngắn, sau khi giải quyết xong các bài tập trong lớp, con đã viết một bài báo về tình trạng trẻ em là nạn nhân của Mafia. Con tự hỏi: làm sao những việc khủng khiếp như thế lại có thể xảy ra được? Có đúng không khi tha thứ cho những điều này? Và liệu con có thể làm được không?
Qua cái chết trên thập tự giá, Chúa Giêsu đã ban cho mọi người ơn cứu rỗi. Ngài không đến để kêu gọi những người công chính, nhưng để kêu gọi những tội nhân có lòng khiêm nhường và can đảm hoán cải.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh để tha thứ, Người đã nói: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15:7)
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã chết trên thập tự giá vì chúng con, để trao ban chính mình cho chúng con như hy tế muôn đời và chung cuộc. Xin đón nhận cuộc đời của chúng con đang bám víu vào Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Lòng con nhớ luôn ơn Chúa cứu con, hiến dâng lên Chúa toàn thể xác hồn, cho dù đau đớn không hề rời.
Chặng thứ mười ba: Tháo đanh Ðức Chúa Giêsu xuống mà phó ở tay Ðức Mẹ
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Những người trông giống như các phi hành gia, mặc áo bảo hộ che kín người, đeo găng tay, khẩu trang và kính che mặt, bước ra khỏi xe cấp cứu và đưa ông của con đã khó thở trong vài ngày ra xe.
Đó là lần cuối cùng con nhìn thấy ông nội của mình, ông đã mất vài ngày sau đó trong bệnh viện, con đoán ông cũng phải chịu đựng sự cô đơn.
Con không thể gần gũi với ông con, nói lời chia tay và là một niềm an ủi cho ông con.
Con cầu nguyện cho ông con mỗi ngày, để con có thể đồng hành cùng ông trong chuyến hành trình cuối cùng trên trần thế này.
Chúng con cảm ơn Chúa, Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con sức mạnh của hy vọng nhờ cái chết của Chúa trên thập tự giá.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa là Cha nhân lành, xin ban cho chúng con cảm thấy Chúa gần gũi với chúng con như một sự hiện diện đầy an ủi và hòa giải, cho đến giây phút, nhờ ơn quan phòng của Chúa, Chúa sẽ kêu gọi chúng con nên một với Ngài. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Lòng con ước được thương tích Chúa ban, biết thiết tha mến yêu Chúa muôn loài, vui lòng khi chết đi vì Người
Chặng thứ mười bốn: Táng xác Ðức Chúa Giêsu trong hang đá
Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô
Vì Chúa đã dùng Rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ
Suy Niệm:
Lạy Chúa Giêsu, con tên là Sara, con mười hai tuổi và con muốn cảm ơn Chúa vì hôm nay Chúa đã dạy con làm điều tốt nhân danh tình yêu của Chúa. Chúa đã dạy con vượt qua mọi đau khổ bằng cách phó thác bản thân mình cho Chúa; yêu người như anh em của mình; ngã và đứng dậy; để phục vụ người khác; để thoát khỏi những định kiến; để nhận ra điều cần thiết và trên hết là kết hiệp cuộc sống của con với Chúa mỗi ngày. Hôm nay, nhờ cử chỉ yêu thương vô bờ bến của Chúa, con biết rằng cái chết không phải là dấu chấm hết cho tất cả mọi thứ.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bỏ ngang lời cầu nguyện khi cảm thấy lòng nặng trĩu trước phiến đá của ngôi mộ của Chúa.
Đức Thánh Cha dâng lời nguyện
Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa là Cha nhân lành, trên đường đời khi chúng con thấy những vấn nạn khó khăn, xin ban cho chúng con niềm hy vọng Phục sinh từ cuộc Vượt Qua của Chúa. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con.
Cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen
Kìa khi chúng con sau phút lâm chung, cúi xin Chúa thương ban phước linh hồn, thiên đàng vinh phước muôn ngàn trùng.
Lời nguyện cuối cùng
Lạy Chúa, là Cha nhân lành, năm nay chúng con cũng đã tưởng niệm Đàng Thánh Giá của Con Chúa là Chúa Giêsu, Chúa chúng con, và chúng con đã làm điều đó với tiếng nói và lời cầu nguyện của những đứa trẻ, những người mà chính Chúa đã chỉ ra như một tấm gương để bước vào Vương quốc của Người.
Xin giúp chúng con trở nên giống như các trẻ thơ, nhỏ bé, cần mọi thứ, và mở lòng đón nhận cuộc sống. Xin cho chúng con lấy lại sự trong sáng của ánh mắt và trái tim.
Chúng con xin Chúa chúc phúc và bảo vệ mọi trẻ em trên thế giới, để chúng càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan, sống trong ân sủng, hiểu biết và làm theo những dự án tốt đẹp mà Chúa đã thiết kế cho mỗi đứa trẻ.
Xin hãy chúc phúc cho các bậc cha mẹ và những người cộng tác với họ trong việc giáo dục những đứa trẻ này của Chúa, để họ luôn cảm thấy hợp nhất với Chúa trong việc trao ban sự sống và tình yêu thương.
Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Sau khi Đức Thánh Cha nói vài lời, ngài ban phép lành cho những người hiện diện và cả những ai theo dõi qua các phương tiện truyền thông.
Đức Thánh Cha nói:
Chúa ở cùng anh chị em
Đáp: Và ở cùng Cha.
Hãy chúc tụng danh Chúa
Đáp: Bây giờ và luôn mãi
Ơn phù trợ chúng con ở nơi danh Chúa
Đáp: Là Đấng tạo thành trời đất
Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha, và Con và Thánh Thần ban phép lành cho anh chị em
Đáp: Amen
Source:Holy See Press Office