PHÚC ÂM: Ga 12, 1-11
“Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại. Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà. Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: “Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?” Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó. Vậy Chúa Giêsu nói: “Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu”.
Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại. Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.
Đó là lời Chúa.
“Lạy Chúa con, lạy Chúa con. Tại sao Chúa bỏ con!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tuần Thánh đầu tiên, Chúa Giêsu đã vào Giêrusalem như một vị vua, Ngài được chào đón với niềm hân hoan, phấn khích cùng với tình yêu và lòng sùng kính của những kẻ đón tiếp Ngài. Thế nhưng, chưa đầy một tuần sau, Ngài sẽ rời Giêrusalem với cây thập tự trên vai nặng trĩu, vác nó ra ngoài thành và chịu chết. Tại sao? Thưa đó là sự ‘khôn ngoan đích thực’ của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu chính là người tôi tớ đau khổ được Isaia báo trước, “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu”; và bài thương khó lên đến đỉnh điểm với việc Ngài bị treo trên thập giá với tiếng kêu, “Eloi, Eloi, lama sabachthani?”, “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!” cũng là lời Thánh Vịnh đáp ca được lặp đi lặp lại; cuối cùng, “Ngài kêu một tiếng lớn và trút hơi thở”. Vào lúc đó, toàn thể cộng đoàn sẽ quỳ gối trong im lặng để suy gẫm sự thật về cái chết của Con Thiên Chúa; sự thật đó là ý muốn của Chúa Cha, cũng là sự ‘khôn ngoan đích thực’ của Ngài.
Làm sao mọi thứ có thể thay đổi nhanh chóng đến thế trong một tuần ngắn ngủi? Điều gì đã xảy ra với tất cả những người hò hét, ca ngợi Ngài khi Ngài vào thành thánh? Làm sao họ có thể để Ngài bước vào cuộc đóng đinh và cái chết tủi nhục này? Câu trả lời sâu sắc nhất cho câu hỏi này thật bất ngờ. Đó là ý Chúa Cha đã muốn. Phải, Chúa Cha đã muốn, và Chúa Cha đã ban phép; đó là sự ‘khôn ngoan đích thực’ của Ngài. Hãy hiểu cho được điều này!
Ở bất kỳ thời điểm nào trong Tuần Thánh đầu tiên đó, Chúa Giêsu đã có thể thi hành quyền năng để từ chối thập giá; thế nhưng, Ngài không làm thế. Trong sự khôn ngoan của Chúa Cha, đau khổ và cái chết cưu mang một mục đích lớn hơn, Ngài chọn thập giá để làm nhiễu loạn sự khôn ngoan của thế gian bằng cách sử dụng sự đau khổ và sự đóng đinh của chính Con Ngài làm phương tiện hoàn hảo cho sự thánh thiện của chúng ta. Trong hành động này, Ngài đã biến ‘điều ác tàn độc nhất’ trở thành ‘điều lành vĩ đại nhất’. Giờ đây, tin vào hành vi cứu độ này, thánh giá được treo ở trung tâm các nhà thờ và trong nhà của chúng ta như một nhắc nhở thường xuyên rằng, ngay cả những điều xấu xa nhất cũng không thể vượt qua quyền năng, sự ‘khôn ngoan đích thực’ và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng hơn chính cái chết và Ngài vẫn là Đấng chiến thắng cuối cùng, chiến thắng của tình yêu, cả khi tất cả dường như đã mất.
Một nhà thần học nói, “Cái ách và thập giá là biểu tượng sinh đôi của Kitô hữu. Thập giá nói đến việc từ bỏ thế gian vì Chúa Kitô; cái ách nói đến việc gánh lấy thế gian như Chúa Kitô. Cái thứ nhất nói đến hy sinh; cái thứ hai nói đến phục vụ. Môn đệ Chúa không thể chọn lấy cái này và bỏ cái kia”.
Anh Chị em,
Chúa Giêsu mang lấy cả hai. Nơi cuộc thương khó và cái chết ô nhục của Ngài, Thiên Chúa xem ra hoàn toàn thất bại; Con Một Ngài đau đớn vô cùng, cô đơn tột cùng và tủi nhục tận cùng. Con Thiên Chúa chấp nhận đi hết phận người một cách phi nhân bởi chính con người Ngài nắn đúc ra. Vậy mà Chúa Cha không hề can thiệp; ấy vậy, nhân loại nào hay, đó chính là sự ‘khôn ngoan đích thực’ của Ngài. Trong cuộc đời, lắm lúc chúng ta gặp những nan đề, những biến cố bi thương; hãy bình tâm nhìn lên thập giá Chúa. Trong sâu thẳm tâm hồn, Ngài sẽ dạy chúng ta sự ‘khôn ngoan đích thực’ và đường lối nhiệm mầu của Ngài. Chỉ qua Ngài, chúng ta mới gỡ được mọi nút thắt cuộc đời; chỉ trong Ngài, chúng ta mới tìm được nguồn sức mạnh; và chỉ nơi thập giá của Ngài, chúng ta mới tìm được câu trả lời cuối cùng cho chính mình.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã dạy cho con biết bao bài học từ kiếp sống làm người của Chúa. Xin đừng bao giờ để con thôi nhìn vào thập giá Chúa, sự ‘khôn ngoan đích thực’; vì chỉ ở nơi Ngài, con mới tìm được ý nghĩa, lẽ sống và sức mạnh để đi hết kiếp người một cách thánh thiện”, Amen.
(Tgp. Huế)
60. Chẳng thà thân xác bệnh, còn hơn là để cho linh hồn bệnh.
(Thánh Jerome)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có người mời thợ may đến nhà để may áo, sau khi trãi tấm vải ra, thợ may nhìn rất lâu mà vẫn không dám cắt, chủ nhân hỏi tại sao không cắt may?
Thợ may nói:
- “Nếu như tôi cắt miếng vải này, đã có tôi thì không có ông, nếu có ông thì không có tôi, làm thế nào cho phải đây?”
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 1:
Thợ may, dù tài giỏi đến đâu thì cũng đứng mà nhìn khi chỉ có một miếng vải nhỏ mà phải may cái áo lớn hơn miếng vải, bởi vì tài năng của con người thì có hạn…
Thiên Chúa là người thợ may tài giỏi, và mỗi người là một miếng vải trong tay của Thiên Chúa, dù vải lớn hay vải nhỏ, dù vải tốt hay vải xấu, thì Ngài vẫn có thể tùy theo mức độ yêu thương của họ mà làm cho họ trở thành cái áo như ý Ngài mong muốn, nghĩa là Ngài muốn mỗi người đều trở nên cái áo đắp ấm tình người trong cuộc sống đời thường của họ…
Mỗi người người Ki-tô hữu là cái áo che lạnh cho người neo đơn trơ trọi giữa mùa đông của đời thiếu vắng tình người; mỗi người Ki-tô hữu là cái áo bao bọc những tâm hồn đang bị tổn thương vì bị người khác lợi dụng thân xác và tinh thần của họ; mỗi người Ki-tô hữu là cái áo che chở cho những người bị đời ngược đãi bất công…
Ai cũng có thể trở thành những cái áo đẹp trong tay của Thiên Chúa, nhưng những người Ki-tô hữu phải là những cái áo đẹp nhất, bởi vì họ đã được làm nghĩa tử của Thiên Chúa nhờ lòng tin vào Đức Chúa Giê-su, chính Ngài là cái áo tuyệt vời nhất được Chúa Cha ban tặng cho thế gian, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
“Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng,
và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau”.
Kính thưa Anh Chị em,
Bữa ăn ân tình đó diễn ra đúng sáu ngày trước khi Chúa Giêsu chịu chết, ngay trước ngày Ngài vào Giêrusalem nhân Lễ Lá ‘khai mạc’ Tuần Thánh đầu tiên. Ở đó, Ngài gặp Lazarô, kẻ vừa được Ngài cho sống lại; Maria chị của Lazarô, người sùng mộ Ngài, được ghi nhận ‘đã ngồi dưới chân Ngài’; đang khi cô chị cả Matta, người chuyên lo phục vụ. Hành động ‘xức dầu’ của Maria thể hiện một việc sùng kính sáng tạo, cô dâng Chúa Giêsu ‘cân dầu thơm’, một trong những gì quý nhất của phụ nữ, tương đương với ‘300 ngày công lao động’; cô còn lấy tóc mình mà lau chân Chúa, “cái tóc là góc con người”. Các thánh sử tỉ mỉ viết ra nhiều chi tiết hầu tôn tạo giá trị của bình dầu; vì với các ngài, trước Chúa Giêsu, ‘bất cứ dầu thơm nào’, dẫu có giá trị mấy đi nữa cũng đáng vứt bỏ vì ‘không gì không đáng đập vỡ’. Maria đã làm một cử chỉ yêu thương hết lòng, hết linh hồn, hết cả giá trị nhân phẩm của một thiếu nữ; và không khí căn nhà lúc này đã đổi thay, “Hương thơm toả đầy nhà”.
Qua đó, rõ ràng, ‘không gì là quá tốt, quá tốn kém’ khi đem trao tặng và dâng hiến cho Chúa Giêsu; với Ngài, ‘không gì không đáng đập vỡ’. Đúng, chúng ta phải làm phần việc của mình để giúp người nghèo, nhưng những hành động yêu thương và tha thiết với Chúa Giêsu vẫn phải được ưu tiên; bởi lẽ, đây là nền tảng của mọi việc bác ái. Thú vị thay, phản ứng của Ngài, “Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh; còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu”. Ngài không hạ thấp tầm quan trọng của việc chăm sóc người nghèo; nhưng Ngài tiết lộ, lòng yêu mến dành cho Ngài ‘không bao giờ được phép là điều đến sau’.
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi con cái bắt chước Maria. Trong mọi đấng bậc, dù đang phục vụ Chúa Kitô nơi bất cứ ai, chúng ta cũng phải tìm cách trực tiếp dâng cho Ngài những gì quý nhất, đó là sự tận tuỵ và lòng yêu mến liên lỉ, ngay cả theo những cách thức mà người khác ‘có thể nghĩ là quá đáng’. Tôn vinh Ngài, bày tỏ tình yêu tha thiết dành cho Ngài, tìm nhiều giờ để sống thân tình với Ngài hơn trong cầu nguyện và thậm chí ‘đập vỡ hầu bao’ cho Ngài theo cách mang lại vinh quang nhất mà Ngài có thể có được; vì với Ngài, ‘không gì không đáng đập vỡ’.
Như vậy, xem ra đòi hỏi của Tin Mừng quá lớn chăng? Đúng, tình yêu Giêsu đòi ‘đập vỡ’ tất cả; cụ thể hơn, đập tan cái tôi quy ngã, đập đi ý riêng, đập hết những gì thế tục trân quý nhất. Tin Mừng mời gọi chúng ta yêu Chúa hết lòng, hết trí, hết sức. Các tu sĩ đã thực hiện điều này trong ba lời khuyên khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục; khấn giữ những điều này, họ đã hiến dâng nghị lực yêu thương, nhu cầu chiếm hữu và sự tự do định đoạt đời mình. Và như thế, họ đã hy sinh tất cả những điều cốt yếu nhất để làm nên một nhân vị; đó là sự đập vỡ hằng ngày ‘bản tính người’ nơi họ, và nhờ vậy, Giáo Hội đã có những vị thánh với hương thơm luôn toả lan cho gia đình thế giới. Có thể nói, ba lời khuyên ấy đã ‘lột sạch’ hay ‘đập vỡ’ những gì quý nhất để một con người ngày càng có thể nên giống Chúa Giêsu, Đấng mà bản thân Ngài cũng đã ‘đập vỡ mình’ trước thánh ý của Chúa Cha; để từ đó, trở nên “Giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân”; nên căn nguyên ơn cứu độ cho muôn người như bài đọc Isaia hôm nay nói về ‘Người Tôi Tớ vỡ vụn’ của Thiên Chúa.
Anh Chị em,
Với Thiên Chúa, ‘không gì không đáng đập vỡ’, ngay cả Con Một của Ngài. Quân lính đập vỡ Con của Ngài vì tội lội chúng ta, “Từ đỉnh đầu cho đến dưới bàn chân, chẳng chỗ nào mà chẳng xể xài rách nát, cùng bày xương ra hầu đếm đặng!”. Những ngày Tuần Thánh, Chúa muốn chúng ta ‘đập vỡ chính mình’, hầu tâm hồn chúng ta, gia đình, giáo xứ, thôn làng chúng ta sực nức ‘mùi thơm Giêsu’; Chúa muốn chúng ta ‘đập vỡ’ một tội lỗi nào đó; ‘đập vỡ’ sự thờ ơ, xơ cứng… để có thể hiệp thông với Ngài, ‘Một Người Con vỡ vụn’ vì tình yêu Chúa Cha và tình yêu đối với các linh hồn.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Chúa, đã ‘vỡ vụn’ vì con. Xin cho con cảm thấu tình yêu Ngài, hầu con cũng có thể ‘vỡ vụn’ như Chúa, và con sẽ nức hương thơm tình yêu Ngài, Đấng mà ‘không gì không đáng đập vỡ’; từ đó, con cũng toả lan ‘mùi Chúa’ cho những ai con gặp gỡ trên đường đời”, Amen.
(Tgp. Huế)
Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa Nhật 28 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Lễ Lá, khởi sự Tuần Thánh, là tuần lễ quan trọng nhất trong Phụng Vụ Công Giáo. Ngày Chúa Nhật Lễ Lá này cũng là ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 36 được cử hành ở cấp giáo phận.
Ngày Chúa Nhật Lễ Lá này cũng giống như ngày Lễ Lá Năm ngoái, nghĩa là không giống bất cứ ngày lễ nào trong những ngày Chúa Nhật Lễ Lá mà chúng ta đã trải qua trong đời trước thời đại dịch coronavirus. Tại Vatican cũng vậy, thay cho những đám đông dân chúng đứng chật quảng trường Thánh Phêrô, quý vị và anh chị em đang thấy Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ một cách lặng lẽ với các cộng sự viên gần gũi với ngài tại bàn thờ Ngai Tòa Thánh Phêrô. Đó là một bàn thờ nhỏ nơi đã từng xảy ra nghi thức tưởng niệm Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc do Đức Hồng Y Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh chủ sự.
Trong khoảnh khắc khi những nghi ngờ và sợ hãi tràn ngập trái tim chúng ta, điều quan trọng là chúng ta hướng mắt lên cầu nguyện cùng Chúa. Kinh Thánh không bỏ qua kinh nghiệm của con người về sự sợ hãi. Đức Thánh Cha lưu ý rằng Ápraham, Giacóp, Môise, Thánh Phêrô, các Tông Đồ khác và cả chính Chúa Giêsu đã từng trải qua những nỗi sợ hãi và đau đớn.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng cụm từ “Đừng sợ” được lặp lại đến 365 lần trong Kinh Thánh, “như thể nói với chúng ta rằng Chúa muốn chúng ta thoát khỏi sợ hãi, mỗi ngày trong năm”.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự cuộc rước lá, tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem.
Mở đầu bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Ngay từ đầu, Chúa Giêsu khiến chúng ta kinh ngạc. Dân chúng chào đón Ngài một cách long trọng, nhưng Ngài vào thành Giêrusalem trên một con ngựa non hèn mọn. Người dân của Người mong đợi một đấng giải phóng quyền năng trong Lễ Vượt Qua, nhưng Ngài đã đến để đưa Lễ Vượt Qua đến chỗ viên mãn bằng cách hy sinh chính bản thân mình. Dân của Người đang hy vọng chiến thắng người La Mã bằng gươm, nhưng Chúa Giêsu đến để ăn mừng chiến thắng của Thiên Chúa bằng thập tự giá. Điều gì đã xảy ra với những người trong thời gian vài ngày, từ chỗ hô vang “Hosanna” đến chỗ gào lên “Đóng đinh nó đi”? Chuyện gì đã xảy ra? Họ đang theo đuổi một ảo tưởng về Đấng Mêsia hơn là chính Đấng Mêsia. Họ ngưỡng mộ Chúa Giêsu, nhưng họ không để mình kinh ngạc trước Ngài. Kinh ngạc không giống như ngưỡng mộ. Sự ngưỡng mộ có thể là trần tục, vì nó tập chú vào những thị hiếu và mong đợi của riêng nó. Ngược lại, sự kinh ngạc vẫn mở ra đối với những điều khác và sự mới mẻ mà những điều ấy mang lại. Ngay cả ngày nay, có rất nhiều người ngưỡng mộ Chúa Giêsu: Ngài nói những điều đẹp đẽ; Ngài tràn đầy tình yêu và sự tha thứ; tấm gương của Người đã thay đổi lịch sử và vân vân. Họ ngưỡng mộ Ngài, nhưng cuộc sống của họ không thay đổi. Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thôi thì chưa đủ. Chúng ta phải bước theo những bước chân của Chúa, để cho mình được thử thách bởi Người; chuyển từ ngưỡng mộ sang kinh ngạc.
Điều gì đáng kinh ngạc nhất về Chúa và Lễ Vượt Qua của Ngài? Đó là thực tế rằng Ngài đạt đến vinh quang thông qua sự nhục nhã. Ngài chiến thắng bằng cách chấp nhận đau khổ và cái chết, là những điều mà chúng ta, trong hành trình tìm kiếm sự ngưỡng mộ và thành công thường tìm cách tránh né. Chúa Giêsu - như Thánh Phaolô đã nói với chúng ta - “đã trút bỏ chính mình… Người đã tự hạ mình” (Pl 2: 7,8). Điều đáng kinh ngạc là chứng kiến Đấng Toàn năng đã biến thành hư không; chứng kiến Ngôi Lời, Đấng thấu suốt mọi sự, dạy chúng ta trong thinh lặng từ trên đỉnh cao của thập tự giá; chứng kiến vua của các vị vua lên ngôi trên một giá treo cổ; chứng kiến Chúa của vũ trụ tước bỏ mọi thứ và đội lên đầu mão gai thay vì vinh quang; chứng kiến Đấng nhân lành hóa thân làm người bị sỉ nhục và bị đánh đập. Tại sao lại xảy ra tất cả sự sỉ nhục như thế? Tại sao, Lạy Chúa, chẳng lẽ Chúa muốn chịu đựng tất cả những điều này sao?
Chúa Giêsu đã làm điều đó cho chúng ta, để hiểu thấu chiều sâu của kinh nghiệm con người chúng ta, toàn bộ sự tồn tại của chúng ta, tất cả những điều xấu xa của chúng ta, để đến gần chúng ta và không bỏ rơi chúng ta trong đau khổ và cái chết của chúng ta, để cứu chuộc chúng ta, để cứu chúng ta. Chúa Giêsu đã được nâng lên cao trên thập tự giá để xuống vực thẳm của sự khổ đau của chúng ta. Ngài đã trải qua nỗi buồn sâu sắc nhất của chúng ta: thất bại, mất tất cả, bị bạn bè phản bội, thậm chí bị Thiên Chúa bỏ rơi. Bằng cách trải nghiệm trong xác thịt những cuộc đấu tranh và xung đột sâu sắc nhất của chúng ta, Ngài đã cứu chuộc và biến đổi chúng. Tình yêu của Ngài đến gần với sự yếu đuối của chúng ta; nó chạm đến chính những điều mà chúng ta xấu hổ nhất. Tuy nhiên, bây giờ chúng ta biết rằng chúng ta không đơn độc: Thiên Chúa ở bên cạnh chúng ta trong mọi cơn hoạn nạn, trong mọi nỗi sợ hãi; chẳng bao giờ có sự ác nào, cũng chẳng bao giờ có tội lỗi nào có tiếng nói cuối cùng. Chúa chiến thắng, nhưng lòng bàn tay chiến thắng đi qua gỗ của thập tự giá. Vì lòng bàn tay và cây thánh giá không thể tách rời.
Chúng ta hãy cầu xin ân sủng để được kinh ngạc. Một đời sống Kitô hữu không có sự ngạc nhiên sẽ trở nên buồn tẻ và thê lương. Chúng ta không thể nói về niềm vui được gặp Chúa Giêsu, trừ khi hàng ngày chúng ta đi từ ngạc nhiên này đến kinh ngạc khác bởi tình yêu của Ngài, là điều mang lại cho chúng ta ơn tha thứ và khả năng có một khởi đầu mới. Khi đức tin không còn cảm thấy kinh ngạc nữa, thì đức tin trở nên buồn tẻ: nó trở nên mù quáng trước những điều kỳ diệu của ân sủng; nó không còn có thể nếm được Bánh sự sống và không còn có thể nghe Lời Chúa; nó không còn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của anh chị em chúng ta và món quà của tạo hóa. Nó không còn cách nào khác hơn là phải nương vào luật pháp, vào chủ nghĩa giáo sĩ trị và vào tất cả những điều mà Chúa Giêsu lên án trong chương 23 của Phúc âm Thánh Matthêu.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy ngước mắt lên thập giá, để nhận được ơn kinh ngạc. Khi Thánh Phanxicô thành Assisi chiêm ngưỡng Chúa bị đóng đinh, thánh nhân ngạc nhiên rằng các anh em của ngài không khóc. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta còn có thể rung động trước tình yêu của Thiên Chúa không? Có phải chúng ta đã đánh mất khả năng kinh ngạc trước Ngài không? Tại sao? Có thể đức tin của chúng ta đã trở nên chai lỳ vì thói quen. Có thể chúng ta vẫn bị kẹt trong những hối tiếc của mình và để cho bản thân mình bị tê liệt bởi những thất vọng của chúng ta. Có thể chúng ta đã mất hết niềm tin hoặc thậm chí cảm thấy mình vô dụng. Nhưng có lẽ, đằng sau tất cả những điều “có thể” này, là sự thật rằng chúng ta không mở lòng đón nhận ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng ban cho chúng ta ân sủng của sự kinh ngạc.
Hãy để chúng ta bắt đầu lại từ sự ngạc nhiên. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá và nói với Người: “Lạy Chúa, Chúa yêu con biết bao! Con quý giá biết bao đối với Chúa!” Chúng ta hãy kinh ngạc trước Chúa Giêsu để chúng ta có thể bắt đầu hồi sinh, vì sự vĩ đại của cuộc sống không hệ tại nơi những của cải chiếm hữu được hay sự thăng quan tiến chức, nhưng chính là nhận ra rằng chúng ta được yêu thương. Đây là sự vĩ đại của cuộc sống: đó là khám phá ra rằng chúng ta được yêu thương. Và sự hùng vĩ của cuộc sống nằm chính ở vẻ đẹp của tình yêu. Nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, chúng ta thấy Thiên Chúa bị sỉ nhục, Đấng Toàn Năng bị gạt bỏ và loại trừ. Và với ân sủng của sự ngạc nhiên, chúng ta nhận ra rằng khi chào đón những người bị gạt bỏ và loại trừ, khi đến gần những người bị cuộc sống đối xử tệ bạc, chúng ta đang yêu mến Chúa Giêsu. Vì đó là vị trí của Người, nghĩa là giữa những anh chị em thấp hèn nhất của chúng ta, giữa những người bị từ chối và bị loại bỏ, giữa những người mà nền văn hóa tự cao tự đại lên án.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, ngay sau cái chết của Chúa Giêsu, đã có một biểu tượng huy hoàng của sự kinh ngạc. Đó là cảnh một viên đại đội trưởng, khi thấy Chúa Giêsu sinh thì, đã nói: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa!” (Mc 15:39). Anh kinh ngạc vì tình yêu. Anh thấy Chúa Giêsu chết như thế nào? Anh đã thấy Ngài chết vì tình yêu, và điều này làm anh kinh ngạc. Chúa Giêsu đau khổ vô cùng, nhưng Ngài không ngừng yêu thương. Đây là điều đáng kinh ngạc trước Thiên Chúa, Đấng có thể lấp đầy cái chết bằng tình yêu. Nơi tình yêu nhưng không và vô tiền khoáng hậu đó, viên đại đội trưởng ngoại đạo đã tìm thấy Chúa. Lời nói của anh – Quả thật người này là Con Thiên Chúa! – “đóng dấu” bài tường thuật Cuộc Khổ nạn. Các sách Phúc âm cho chúng ta biết rằng nhiều người khác trước viên đại đội trưởng này đã ngưỡng mộ Chúa Giêsu vì những phép lạ và công việc phi thường của Ngài, và đã thừa nhận rằng Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu Kitô đã làm họ im lặng, bởi vì họ có nguy cơ hoàn toàn dừng lại ở mức độ ngưỡng mộ của thế gian với ý tưởng về một Thiên Chúa đáng tôn thờ và đáng sợ vì quyền năng và sức mạnh của Ngài. Giờ đây không còn có thể như vậy nữa, vì dưới chân thập tự giá không còn có thể sai lầm: Thiên Chúa đã tỏ mình ra và chỉ trị vì bằng quyền năng nguôi giận và không bất bình của tình yêu.
Anh chị em thân mến, hôm nay Thiên Chúa tiếp tục làm cho tâm trí và trái tim chúng ta kinh ngạc. Chúng ta hãy để cho lòng mình tràn ngập sự kinh ngạc đó khi chúng ta nhìn ngắm Chúa bị đóng đinh. Chúng ta cũng có thể nói rằng: “Ngài thực sự là Con Thiên Chúa. Ngài là Chúa của con”.
Source:Holy See Press Office
Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa Nhật 28 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Lễ Lá, khởi sự Tuần Thánh, là tuần lễ quan trọng nhất trong Phụng Vụ Công Giáo. Sau thánh lễ, tại bàn thờ Ngai Tòa Thánh Phêrô, ngài đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật Lễ Lá ngay tại đây. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,Chúng ta đã bắt đầu Tuần Thánh. Lần thứ hai chúng ta sẽ phải sống Tuần Thánh trong bối cảnh của đại dịch. Năm ngoái, chúng ta đã bị chấn động nhiều hơn; còn năm nay chúng ta đang bị thử thách hơn nữa. Và khủng hoảng kinh tế đã trở nên nặng nề.
Trong hoàn cảnh lịch sử và xã hội này, Chúa đang làm gì? Ngài vác thập giá lên. Chúa Giêsu vác thập tự giá, nghĩa là Ngài gánh lấy sự dữ mà tình huống này mang đến, sự dữ về thể chất và tâm lý - và trên hết là sự dữ về tinh thần - bởi vì Ma Quỷ đang lợi dụng cuộc khủng hoảng để gieo rắc ngờ vực, tuyệt vọng và bất hòa.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta nên làm gì? Đấng chỉ cho chúng ta thấy hướng đi là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, cũng là môn đệ đầu tiên của Người. Mẹ bước theo Con của mình. Mẹ tự nhận lấy phần đau khổ của mình, bóng tối, sự bối rối, và Mẹ bước đi trên con đường thương khó giữ ngọn đèn đức tin thắp sáng trong trái tim Mẹ. Với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể thực hiện cuộc hành trình đó. Và, trên con đường thập giá hàng ngày, chúng ta gặp gỡ khuôn mặt của biết bao anh chị em đang gặp khó khăn: chúng ta đừng đi ngang qua, nhưng hãy để cho lòng mình rung động với lòng trắc ẩn, và chúng ta hãy đến gần họ. Khi điều đó xảy ra, giống như ông Simêon thành Kyrinê, chúng ta có thể nghĩ: “Tại sao lại là tôi?” Nhưng rồi chúng ta sẽ khám phá ra ân sủng đã chạm đến chúng ta dù chúng ta chẳng có công lao gì.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân của bạo lực, đặc biệt là các nạn nhân của vụ tấn công sáng nay ở Indonesia, trước Nhà thờ Makassar.
Xin Đức Mẹ, đấng luôn đi trước chúng ta trên con đường đức tin, phù hộ chúng ta.
Source:Holy See Press Office
Trong khung cảnh rất khác so với năm ngoái, Nhà thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem đã mở cửa cho công chúng vào Chúa Nhật Lễ Lá, cho phép các tín hữu Kitô tham dự thánh lễ vào đầu Tuần Thánh tại địa điểm Chúa Giêsu đã bị đóng đinh và đã phục sinh.
Với hơn một nửa dân số Israel đã được tiêm hai liều vắc-xin, các hạn chế về coronavirus đã được nới lỏng để cho phép các nhóm nhỏ tụ tập với các biện pháp giãn cách xã hội.
Bầu không khí ăn mừng tràn ngập khu vực này khi hàng loạt người Công Giáo đi qua cánh cửa gỗ khổng lồ của nhà thờ, tâm điểm toàn cầu của lễ hội quan trọng nhất trong lịch Phụng Vụ Công Giáo.
“Năm ngoái là một lễ Phục sinh khủng khiếp, không có người, cửa đóng then cài. Năm nay tốt hơn nhiều, cánh cửa rộng mở, chúng tôi vẫn chưa có nhiều người nhưng chúng tôi cảm thấy hy vọng rằng mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp hơn,” Đức Thượng Phụ Pierbattista Pizzaballa của Công Giáo nghi lễ Latinh tại Giêrusalem nói khi ngài bước ra khỏi nhà thờ hòa cùng dòng người đông đảo các giáo sĩ và các tín hữu.
“Thông điệp của Lễ Phục sinh là cuộc sống và tình yêu, bất chấp mọi dấu chỉ của cái chết, coronavirus, đại dịch, bất cứ điều gì, chúng ta tin vào sức mạnh của tình yêu và sự sống,” Đức Thượng Phụ Pizzaballa nói.
Chúa Nhật Lễ Lá kỷ niệm ngày mà các sách Phúc Âm cho biết Chúa Giêsu đã cưỡi một con lừa con vào thành Giêrusalem và được người dân tung hô, nhưng Ngài bị đóng đinh vào thập tự giá năm ngày sau đó.
Năm nay, người Công Giáo mừng lễ Phục sinh vào ngày 4 tháng 4 và các tín hữu Chính thống giáo sẽ mừng gần một tháng sau đó, vào ngày 2 tháng 5.
Source:Reuters
Với Tông thư này, tôi cũng muốn xem xét cuộc đời và tác phẩm của nhà thơ vĩ đại và khám phá sự “cộng hưởng” của nó bằng kinh nghiệm của chính chúng ta. Tôi cũng muốn khẳng định lại tính hợp thời và tầm quan trọng muôn thuở của nó, đồng thời đánh giá cao những cảnh báo và thông sáng lâu đời mà nó vốn chứa đựng cho nhân loại nói chung, chứ không chỉ cho các tín hữu mà thôi. Công trình của Dante là một phần tạo nên nền văn hóa của chúng ta, đưa chúng ta trở về cội nguồn Kitô giáo của châu Âu và phương Tây. Nó hiện thân di sản gồm nhiều lý tưởng và giá trị mà Giáo hội và xã hội dân sự tiếp tục đề nghị làm nền tảng cho một trật tự xã hội nhân đạo, trong đó tất cả mọi người đều có thể và phải coi người khác như anh chị em. Không đi sâu vào các khía cạnh cá nhân, chính trị và tư pháp phức tạp trong tiểu sử của Dante, tôi muốn đề cập ngắn gọn một số biến cố trong cuộc đời của ông khiến ông gần gũi một cách đáng kể đối với nhiều người cùng thời với chúng ta và điều này mãi luôn thiết yếu để hiểu công trình của ông.
Dante sinh năm 1265 tại Florence và kết hôn với Gemma Donati, người đã sinh cho ông 4 người con. Ông luôn gắn bó sâu sắc với thành phố quê hương của mình, bất chấp các tranh chấp chính trị mà thời đó khiến ông ra lạc lõng với nó. Cho đến cuối đời, ông vẫn muốn trở lại Florence, không những vì tình âu yếm liên tục dành cho nơi sinh của mình, mà trên hết là để ông có thể được tôn xưng là thi nhân tại chính nơi ông đã lãnh nhận phép rửa và hồng ân đức tin (xem Đoạn XXV, 1-9). Trong tựa đề một số Thư từ của ông (III, V, VI và VII), Dante tự gọi mình là "florentinus et exul inmeritus" (người Florence bi đầy ải bất công), trong khi trong thư gửi Cangrande della Scala (XIII), ông tự gọi mình là "florentinus natione non moribus" (Người Florence do sinh ra chứ không do lối sống).
Là một người Guelph da trắng, Dante thấy mình bị cuốn vào cuộc xung đột giữa người Guelphs và người Ghibellines, và giữa người Guelph da trắng và người Guelph da đen. Ông đã nắm giữ các chức vụ công quan trọng, gồm cả một nhiệm kỳ làm Giáo Trưởng (prior), nhưng năm 1302, do tình hình chính trị bất ổn, ông bị lưu đày trong hai năm, bị cấm đảm nhiệm các chức vụ công và bị phạt tiền. Dante bác bỏ quyết định này, cho là không công bằng, điều này chỉ làm hình phạt của ông thêm nghiêm khắc hơn: đày ải vĩnh viễn, tịch thu của cải và án tử hình nếu trở lại Florence. Đó là khởi đầu cho cuộc lưu đày đau đớn của Dante và những nỗ lực không có kết quả của ông để trở về thành phố quê hương, điều mà ông đã chiến đấu hăng say.
Do đó, ông trở thành một kẻ lưu đày, một “người hành hương trầm ngâm” bị giản lược vào tình huống “nghèo khổ cùng cực” (Convivio, I, III, 5). Điều này khiến Ông phải tìm nơi ẩn náu và bảo vệ nơi nhiều gia đình quý tộc khác nhau, trong đó, có các gia đình Scaligers ở Verona và Malaspina ở Lunigiana. Lời lẽ của Cacciaguida, tổ tiên của nhà thơ, nói lên phần nào sự cay đắng và tuyệt vọng trong hoàn cảnh mới của ông:
“Ngươi sẽ từ bỏ mọi thứ yêu dấu
Tha thiết nhất, và mũi tên
Mà chiếc cung đầu tiên bắn là trục xuất.
Ngươi phải nếm muối mặn ra sao
Bánh của người khác, và đường đi khó khăn như thế nào
Lên xuống cầu thang của người khác” (Đoạn XVII, 55-60).
Năm 1315, sau khi từ chối chấp nhận các điều kiện ân xá nhục nhã có thể cho phép Ông trở lại Florence, Dante một lần nữa bị kết án tử hình, lần này cùng với những đứa con đang tuổi vị thành niên của Ông. Nơi lưu đày cuối cùng của ông là Ravenna, nơi ông được Guido Novello da Polenta tiếp đón một cách trọng thị. Tại đây, ông qua đời vào đêm ngày 13 và ngày 14 tháng 9 năm 1321, ở tuổi năm mươi sáu, khi trở về sau một sứ mệnh ở Venice. Ngôi mộ của ông ban đầu được đặt ở bức tường bên ngoài của tu viện dòng Phanxicô cũ của Nhà Thờ Thánh Phêrô Cả, sau đó, vào năm 1865, được dời đến ngôi đền thế kỷ mười tám liền kề, nơi thậm chí ngày nay vẫn là mục tiêu của vô số du khách và những người ngưỡng mộ nhà thơ vĩ đại, cha đẻ của ngôn ngữ và văn học Ý.
Trong cuộc sống lưu vong, tình yêu của Dante dành cho Florence, bị phản bội bởi “lũ Florentine gian ác” (Thư VI, 1), đã biến thành nỗi hoài nhớ buồn vui lẫn lộn. Sự thất vọng sâu xa về sự sụp đổ các lý tưởng chính trị và dân sự của ông, cùng với những chuyến lang thang thê lương từ thành phố này sang thành phố khác để tìm kiếm nơi nương tựa và hỗ trợ không hề vắng mặt trong tác phẩm văn học và thi ca của ông; thực vậy, chúng tạo thành nguồn gốc và nguồn cảm hứng của nó. Khi Dante mô tả những người hành hương lên đường thăm các thánh địa, ông có ý nói đến trạng thái tâm trí và cảm xúc sâu thẳm của chính mình: “Hỡi những người hành hương, những người đang đi sâu vào tâm tư của các bạn…” (Vita Nuova, 29 [XL (XLI), 9 ], câu 1). Chủ đề quán xuyến này lặp lại thường xuyên, như trong câu thơ ở phần Purgatorio:
“Theo cùng cách mà những người hành hương suy tư quen làm,
Những người, vô danh trên đường tiến bước,
Tự quay mình lại với họ, và không dừng lại ”(XXIII, 16-18).
Chúng ta cũng có thể thấy niềm u hoài nhói tim của Dante kẻ hành hương và lưu vong trong những câu thơ nổi tiếng của khổ thơ thứ tám trong Purgatorio:
“Nay là giờ mong muốn quay trở lại
Nơi những người chèo thuyền trên biển, và làm trái tim mủi lòng,
Ngày họ nói lời từ biệt với những người bạn thân thương”(1-3).
Dante, khi gẫm suy đời lưu vong của mình, những bất trắc triệt để, sự mong manh và liên tục di chuyển từ nơi này sang nơi khác, đã thăng hoa và biến đổi kinh nghiệm bản thân của ông, biến nó thành một mô hình về thân phận con người, được xem như một cuộc hành trình - tinh thần và thể chất - tiếp tục cho đến khi đạt được mục tiêu. Ở đây, hai chủ đề căn bản trong toàn bộ công trình của Dante được đặt lên hàng đầu, đó là mọi cuộc hành trình hiện sinh, bắt đầu từ một ước muốn bẩm sinh trong trái tim con người và ước muốn này đạt được sự thành toàn của nó trong hạnh phúc được việc diện kiến Tình yêu vốn là chính Thiên Chúa đem đến.
Đối với tất cả những biến cố bi thảm, đau buồn và làm lo âu xao xuyến mà ông đã trải qua, nhà thơ vĩ đại không bao giờ đầu hàng hay khuất phục. Ông nhất định không chịu đè nén niềm khao khát của trái tim ông được nên trọn vẹn và hạnh phúc hoặc cam chịu trước sự bất công, đạo đức giả, sự cao ngạo của kẻ quyền thế hoặc lòng vị kỷ vốn biến thế giới của chúng ta thành “sân đạp lúa khiến chúng ta kiêu căng” (Đoạn XXII, 151 ).
Kỳ sau: 3. Sứ mệnh Nhà Thơ làm nhà tiên tri hy vọng
Chủ sự nghi lễ phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá để tưởng nhớ cuộc Khổ nạn của Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến tâm tình cảm mến nội tâm đánh động chúng ta trong thánh lễ này cũng như trong suốt Tuần Thánh.
(Tin Vatican)
Trong hai năm liên tiếp, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Lễ Lá bên trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô với một số ít giáo dân và đại diện các nhóm vì đại dịch Coronavirus; nhưng đồng thời, hàng triệu người đã theo dõi theo các chương trình truyền hình và trực tuyến.
Từ ngưỡng mộ đến kinh ngạc
Trong bài giảng vào dịp này, Đức Thánh Cha tập trung suy tư của mình xung quanh cảm giác ngỡ ngàng phụng vụ hôm nay và cả Tuần Thánh sẽ đem lại cho chúng ta, chúng ta khởi đi từ niềm vui chào đón Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem trong vinh quang đến nỗi buồn khi thấy Ngài bị kết án tử hình và bị đóng đinh. Chúng ta nghe đám đông hoan hô “Hosanna”, nhưng một vài ngày sau đó, họ lại gào thét lên “Hãy đóng đinh nó”! Đức Thánh Cha trình bày sự tương phản này phản ánh một thực tế nơi mọi người: ‘ngưỡng mộ Chúa Giêsu, nhưng cũng không tín thác vào ngài’. ĐTC cho biết cả hai thuật ngữ về cơ bản là khác nhau: sự ngưỡng mộ “có thể phát nên thành lời” tuân theo sở thích và mong đợi của chính nó, trong khi đó, sự ngạc nhiên lại mở ra cho chúng ta sự ngạc nhiên và sự mới mẻ mà chúng mang lại, cho phép chúng ta thay đổi thái độ và cuộc sống chúng ta. Đức Thánh Cha nói, chúng ta phải vượt lên trên việc ngưỡng mộ Chúa Giêsu, và “hãy tiến bước theo Người, chung chia thử thách với Người và sống trong sự ngỡ ngàng kinh ngạc.”
Vinh quang qua khổ nhục
Đức Thánh Cha nhận xét chính Chúa và Lễ Vượt Qua của Ngài khiến chúng ta kinh ngạc, vì Chúa đạt được vinh quang qua chính sự sỉ nhục; Chúa chiến thắng "bằng cách chấp nhận đau khổ và cái chết, những điều mà chúng ta cố gắng xa tránh trong hành trình tìm kiếm sự ngưỡng mộ và thành công."
Chúa Giêsu đã thực hiện điều này cho chúng ta, bằng mời gọi chúng ta hãy đi vào chiều sâu kinh nghiệm trong chính sự sống và những nỗi yếu hèn của con người! Chúa sống cận kề bên chúng ta và không bỏ rơi chúng ta trong đau khổ và trong cái chết của chúng ta, hầu cứu chuộc chúng ta”. Bằng cách này, Chúa đã “cứu chuộc và biến đổi” những chiến chinh và xung đột thầm kín nhất của chúng ta; "Thiên Chúa chiến thắng, nhưng chiến thắng bằng chính sự đóng đinh tay chân vào thập giá."
Cầu xin ơn phi thường
Đức Thánh Cha lưu ý, một đức tin không còn ngỡ ngàng và ngạc nhiên là một đức tin buồn tẻ, chúng ta nên nhớ “kinh ngạc và ngạc nhiên” trước tình yêu của Chúa Giêsu luôn mang lại sự tha thứ và khả năng phi thường đổi mới. Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hãy “ngước mắt lên thập giá, cầu xin cho được ơn phi thường”, được cảm hóa trước tình yêu vô bờ của Chúa hầu dập tắt đi mọi tiếc nuối mà chúng ta có thể phải trải qua trong chán nản thất vọng.
"Chúa ơi, Chúa yêu con biết bao!"
“Chúng ta hãy ngạc nhiên trước tình yêu vô bến bờ của Chúa Giêsu trước biến cố Chúa chị thương, chết và phục sinh!”, Đức Thánh Cha nhấn mạnh chúng ta được Chúa Giêsu yêu thương, Đấng mà chúng ta ngắm nhìn trên thập giá. Ân sủng của sự ngạc nhiên giúp chúng ta nhận ra rằng khi chúng ta chào đón những người bị loại bỏ - những người bị đối xử tệ bạc trong cuộc sống – là “chúng ta yêu mến Chúa Giêsu”, Đức Thánh Cha nói, “vì chính Người hiện thân nơi những anh chị em bị khước từ chối và loại bỏ. ”
Quả thật người này là Con Thiên Chúa!
Đức Thánh Cha nói: Lời người lính La Mã thốt lên lúc chứng kiến Chúa sinh thì đã kêu lên: "Quả thật người này là Con Thiên Chúa!" là một bằng chứng hùng hồn về sự kinh ngạc, khi chứng kiến tình yêu vô bờ và chưa từng thấy của Chúa Giêsu. Các sách Phúc âm đề cập đến nhiều người ngưỡng mộ Chúa, vì những phép lạ và các việc hiển hách Chúa làm.
Nhưng Đức Thánh Cha lưu ý qua Thập giá và dưới chân thập tự giá, “Thiên Chúa đã tỏ mình và bày tỏ tình yêu tuyệt đối của Ngài”, đó là lý do tại sao hôm nay, “chúng ta hãy xin cho được ngập tràn sự kinh ngạc khi nhìn lên Chúa chụi đóng đinh. Chúng ta có thể thốt nên rằng: “Con là Con của Chúa. Chúa yêu con vô bờ!"
Cảnh sát cho biết một vụ đánh bom tự sát đã diễn ra bên ngoài một nhà thờ Công Giáo ở thành phố Makassar của Indonesia đã khiến ít nhất 14 người bị thương.
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật Lễ Lá, Đức Thánh Cha đã nhắc đến biến cố bi thảm này và kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho các nạn nhân.
Cảnh sát cho biết một vụ nổ đã xảy ra khi hai kẻ tấn công thuộc tổ chức cực đoan Hồi Giáo Jemaah Islamiah cố gắng xông vào nhà thờ chính tòa Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm Chúa Nhật Lễ Lá, ngày đầu tiên trong Tuần Thánh.
Một chiếc xe máy bị phá hủy và các bộ phận cơ thể được tìm thấy tại hiện trường và cảnh sát cho biết hai kẻ tấn công đã chết.
Tổng thống Indonesia Joko Widodo lên án vụ tấn công là “hành động khủng bố” và cho biết ông đã ra lệnh cho tư lệnh cảnh sát điều tra những người chịu trách nhiệm.
“Tôi kêu gọi mọi người chống lại chủ nghĩa khủng bố và cực đoan, là những thứ đi ngược lại các giá trị tôn giáo,” tổng thống nói.
Bộ trưởng Tôn Giáo Sự Vụ Yaqut Cholil Qoumas kêu gọi cảnh sát tăng cường các biện pháp an ninh tại các nơi thờ tự.
Vụ nổ xảy ra vào khoảng 10:30 sáng theo giờ địa phương, cũng là 10:30 sáng theo giờ Việt Nam, khi thánh lễ Chúa Nhật Lễ Lá vừa chấm dứt và anh chị em đang bắt đầu ra về.
“Có hai người đi trên một chiếc xe máy khi vụ nổ xảy ra ở cổng chính của nhà thờ. Hai tên thủ phạm đang cố gắng xông vào nhà thờ,” phát ngôn viên Cảnh sát Quốc gia Argo Yuwono cho biết.
Cha Wilhemus Tulak, là cha sở nhà thờ chính tòa, nói với Metro TV rằng một nhân viên an ninh đã chận một kẻ đánh bom khi hắn xông vào nhà thờ. Hắn ta và tên đồng bọn kích hoạt chất nổ quấn quanh người khiến 14 người bị thương, bao gồm cả người nhân viên an ninh nhanh trí và đề cao cảnh giác này.
Vụ nổ xảy ra ở lối vào của nhà thờ. Đoạn phim từ camera an ninh cho thấy lửa, khói và các mảnh vỡ bị thổi tung ra giữa đường.
Thị trưởng Makassar Danny Pomanto nói rằng nếu vụ nổ xảy ra ở trong sân nhà thờ, nó có thể đã dẫn đến thương vong kinh hoàng hơn nữa.
Trong quá khứ, các nhà thờ đã từng là mục tiêu của bọn khủng bố Hồi Giáo cực đoan ở Indonesia, quốc gia có đa số người Hồi giáo lớn nhất thế giới.
Năm 2018, hàng chục người đã thiệt mạng trong các vụ đánh bom vào nhà thờ và trụ sở cảnh sát ở thành phố cảng Surabaya.
Source:BBC
Với cộng đoàn giáo xứ Tân Trang từ ngày thứ ba 23.3 đến ngày 25.3 vào thánh lễ chiều lúc 18 g là các ngày tĩnh tâm Mùa Chay do Linh mục Vinh sơn Nguyễn Cao Dũng, SCJ hướng dẫn chia sẻ
Nội dung chính của ba ngày Linh mục Vinh sơn Nguyễn Cao Dũng chia sẻ như sau :1.Sống niềm tin vào Đức Giêsu Kitô,Đấng vì yêu thương nhân loại đã chịu chết trên thập giá,để những ai tin vào Ngài thì được cứu độ.Chúng ta nhìn lại hành trình đức tin của mình ngay giữa những thử thách gian nan của cuộc đời.Chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Đức Giêsu được giương cao lên để cùng nhau sám hối ăn năn trở về với Thiên Chúa.
Xem Hình
2.Chúng ta chiêm ngắm hình ảnh của Thánh Giuse,con người Mùa Chay, thánh nhân với trái tim người cha.Đó là người cha có những đặc điểm theo Tông thư Patris Corde của Đức Thánh Cha Phanxicô: yêu thương, dịu dàng, vâng phục, biết chấp nhận, có lòng can đảm đầy sáng tạo,chuyên cần làm việc,người cha trong bóng tối.Nơi đời sống Thánh Giuse chúng ta học được gương đức tin của Mùa Chay và đặc biệt trong năm nay, năm thánh tôn kính Thánh Giuse.Mỗi người gia trưởng, người vợ và người con có thể tìm thấy nơi thánh Giuse, tấm gương chu toàn bổn phận của mình trong sự âm thầm lặng lẽ,biết chấp nhận,luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa,nhưng cũng biết siêng năng làm việc mưu sinh,nhất là khi chúng ta đang phải đối diện với những khó khăn do dịch bệnh gây ra.
3. Chúng ta chiêm ngắm gương đức tin của Đức Maria.Trong suốt cuộc đời của Mẹ, qua lời thưa “xin vâng”Mẹ sống tín thác hoàn toàn vào Chúa.Đức tin của Mẹ vững vàng dù có gặp khó khăn nghịch cảnh,khi các biến cố đau thương trong cuộc đời của Đức Giêsu,từ Bêlem đến đồi Canvê,Mẹ đứng dưới chân thánh giá của Đức Giêsu,Mẹ sẵn sàng đón nhận không bao giờ hồ nghi ở Thiên Chúa.Mẹ là kiểu mẫu Đức tin cho chúng ta,vì tin là chấp nhận bước đi theo thánh ý Chúa,dù chưa hiểu biết, nhưng vẫn đi theo kế hoạch của Thiên Chúa,sống khiêm tốn phục vụ anh chị em, biết suy gẫm Lời Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Trước thánh lễ Thánh lễ tĩnh tâm vào lúc 18g thứ tư 24.3.2020, các hội viên Legio Mariae giáo xứ Tân Trang đã có giờ kinh nguyện và nghi thức dâng mình cho Đức Mẹ.
Buổi tĩnh tâm thứ ba 25.3 cũng là ngày Giáo hội mừng lễ Truyền tin cho Đức Mẹ, trước thánh lễ cộng đoàn cung nghinh tôn vinh Mẹ Maria và sau đó thánh lễ trọng thể lúc 18g do Linh mục Vinh sơn Nguyễn Cao Dũng chủ tế.
Thứ sáu 26.3.2021,sau thánh lễ 17g45 cộng đoàn giáo xứ Tân Trang cùng nhau đến với bí tích Hòa Giải,có nhiều quý linh mục ngồi tòa giải tội nơi khuôn viên trong và ngoài nhà thờ.
Như vậy, giáo xứ Tân Trang đã trải qua một tuần lễ đầy niềm vui và bình an, một tuần lễ nhìn lại đời sống đức tin của mình,những thiếu sót lầm lỗi,để nhận được ơn tha tội qua bí tích Giao Hòa và đón mừng mầu nhiệm Đức Kitô Phục sinh.
Martinô Lê Hoàng Vũ
Mỗi năm Chúa Nhật Lễ Lá là một ngày đặc biệt ở Giêrusalem, một ngày mà các đường phố tràn ngập các tín hữu, những người hành hương từ khắp nơi trên thế giới, và niềm vui. Tuy nhiên, năm nay, nó đã diễn ra, như năm ngoái 2020 và cũng như các nơi khác trên thế giới, không có bất kỳ cuộc hội ngộ vui vẻ nào, do những hạn chế do tình trạng khẩn cấp về sức khỏe. Thánh lễ Đại Trào được cử hành trong Mộ Thánh vào sáng sớm vẫn diễn ra, nhưng lặng lẽ hơn bởi Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa, là Thượng Phụ của Tòa Thượng Phụ Latinh Giêrusalem. Ngài đã ban làm phép lá tại Holy Edicule, hay ngôi đền bao quanh nơi an táng Chúa. Thánh lễ Chúa Nhật Lễ Lá được cử hành với sự hiện diện của một số anh em dòng Phanxicô quản thủ Thánh Mộ và một số chủng sinh của Tòa Thượng phụ La tinh Giêrusalem.
Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa cho biết như sau:
“Theo Thánh Kinh, Giêrusalem là biểu tượng của Giáo hội và của toàn thể nhân loại, là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi người. Khi chúng ta khóc trên Giêrusalem cùng với Chúa Giêsu từ đây, chúng ta khóc cho toàn thể tình huynh đệ nhân loại về thời khắc khó khăn mà nó đang trải qua và cho Chúa nhật Lễ Lá buồn này. Buồn nhưng thiết yếu”. Dominus Flevit là ngôi đền được xây dựng tại nơi Chúa Giêsu khóc, sau khi nhìn thành Giêrusalem và tiên đoán sự hủy diệt của thành này, vì đã không nhận ra Đấng Mêsia (Lu-ca 19: 41-44).
Từ Núi Ôliu, Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem giữa đám đông hân hoan. “Ý nghĩa mà Chúa Giêsu thấy trong ‘lối khải hoàn chiến thắng’ khi Ngài vào thành Giêrusalem khác với ý nghĩa mà dân chúng trong thành nghĩ”, Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa giải thích. “Có lẽ đây là bài học mà Chúa Giêsu muốn ban cho chúng ta hôm nay. Chúng ta thường tìm đến với Chúa khi có điều gì đó làm chúng ta đau lòng. Trước yêu cầu của con người cần giải quyết mọi vấn đề, ngay cả trong thời điểm này của coronavirus, Chúa Giêsu trả lời theo cách riêng của Người. Chính vì Chúa Giêsu nói ‘có’ với những mong muốn sâu xa nhất của chúng ta, nên Ngài sẽ phải nói ‘không’ với những mong muốn trước mắt của chúng ta”.
Đức Tổng Giám Mục nhận xét thêm rằng:
“Do đó, câu chuyện về cách thức Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem là một bài học về sự khác biệt giữa kỳ vọng của chúng ta và câu trả lời của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Phúc âm cho chúng ta biết rằng đức tin Kitô được đặt trên niềm hy vọng và tình yêu thương, chứ không phải dựa trên những thực tại trước mắt. Người sẽ không giải quyết mọi vấn đề của chúng ta, Người sẽ không ban cho chúng ta tất cả những gì mà bản chất con người chúng ta chắc chắn cần đến, nhưng Ngài sẽ không bỏ rơi chúng ta. Chúng ta biết rằng Người yêu mến chúng ta”.
Sau đó, vị Đức Thượng Phụ Tòa Thượng phụ Latinh đã ban phép lành cho Giêrusalem bằng thánh tích của Thánh Giá. “Thành phố đóng cửa, thế giới đóng cửa. Nhưng chúng ta phải luôn cởi mở trái tim của chúng ta, cởi mở trong ý định của chúng ta và trong lời cầu nguyện của chúng ta. Cầu nguyện có thể vượt qua những rào cản bên trong và bên ngoài mỗi chúng ta”.
Do đại dịch coronavirus, đây là năm thứ hai những người hành hương trên khắp thế giới không thể đến Giêrusalem để tham dự các cử hành trong Tuần Thánh. Vì thế, các linh mục, tu sĩ Dòng Anh Em Hèn Mọn, hay còn gọi là dòng Phanxicô, quản thủ Thánh Địa đã làm các videos hành hương trực tuyến. Trong chương trình này các ngài giới thiệu với chúng ta cuộc hành hương Mùa Chay đến vườn Giệtsimani.
Vườn Giệtsimani ngày nay gồm tám cây ô-liu có tuổi đời hàng thế kỷ nằm dưới chân Núi Ô-liu. Tên nguyên thủy của ngôi vườn theo tiếng Aramaic là “Gat Semãnê”. Aramaic là ngôn ngữ Chúa Giêsu nói khi xuống thế làm người. Gat Semãnê có nghĩa là “máy nghiền” cho ta thấy về sự hiện diện của các máy ép trái ô liu vào thời cổ đại.
Theo các Thánh sử Matthêu và Máccô, đây là nơi Chúa Giêsu bị Giuđa phản bội và bị bắt khi đang cầu nguyện với các môn đệ sau Bữa Tiệc Ly.
Ngày nay, khi đến thăm khu vườn Giệtsimani, khách hành hương đến ba nơi, được bảo vệ bởi các tu sĩ dòng Phanxicô để kính nhớ những kỷ niệm đau đớn liên quan đến việc bắt giữ Chúa Giêsu vào đêm Ngài bị phản bội. Thứ nhất là hang đá Giệtsimani, thứ hai là vườn Cây Dầu và thứ ba là đền thờ Các Dân Nước. Từ cuối thế kỷ thứ ba, Giệtsimani đã được coi là nơi cầu nguyện của các tín hữu Kitô.
Cha Eugenio Alliata, nhà khảo cổ học của Studium Biblicum Franciscanum, nghĩa là Trung Tâm Nghiên Cứu Kinh Thánh của Dòng Phanxicô cho biết như sau:
“Chặng đầu tiên khi các tu sĩ Phanxicô cùng với những người hành hương khác đến Giệtsimani là đến vườn Giệtsimani. Đó là một khu vườn nhỏ có những cây ô liu cổ thụ, được gọi là ‘cây ô liu của người La Mã’”.
Gọi là cây ô liu của người La Mã có thể là vì những cây ô liu này đã đến Thánh Địa cùng với đội quân viễn chinh La Mã. Theo lịch sử, những cây ô liu này thuộc về những người chủ theo đạo Hồi ở Giêrusalem. Họ là những thương gia đến từ Bosnia đã mua mảnh đất này vào thế kỷ 17 và tặng lại cho các Kitô hữu với yêu cầu rằng các Kitô hữu cầu nguyện cho họ được may lành. Và vì thế nơi này đã được rào cẩn thận với các bức tường và trở thành một nơi dành riêng cho việc cầu nguyện.
Cha Alliata cho biết: “Sau đó, các Hiệp Sĩ Quản Thủ Thánh Địa muốn mở rộng vùng đất này, nên mua một khu đất liền kề, ở hướng nam. Trên vùng đất này cũng có một số cây ô liu thuộc hàng cổ thụ có thể được dùng làm nơi cầu nguyện. Nhưng chính tại nơi này, những gì còn sót lại của các nhà thờ cổ đã được đưa ra ánh sáng”.
Thật thế, trong quá trình khai quật, một nhà thờ từ thời Thập tự chinh đã được đưa ra ánh sáng. Có thể nhìn thấy những bức tường tuyệt đẹp và một phiến đá cũng được xác định là nơi tưởng niệm những người hành hương.
“Nhà thờ được khai quật này đã từng được đề cập trong các nguồn tài liệu khác nhau, trong những câu chuyện cổ xưa của những người hành hương, như là ‘nhà thờ cầu nguyện’ vì nhà thờ này là nơi kính nhớ biến cố Chúa Giêsu cầu nguyện tại vườn Giệtsimani cùng Chúa Cha: ‘Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha’ (Mt 26:39). Trọng tâm của địa điểm chính là lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu.”
Sau khi mua được mảnh đất về phía Nam, các Hiệp Sĩ Quản Thủ Thánh Địa đã có ý định xây dựng một nhà thờ đẹp đẽ, mới, thay cho những ngôi nhà thờ đã bị phá hủy từ thời Thập tự chinh, và một số dự án đã được thực hiện.
“Công việc bắt đầu ngay lập tức, nhưng trong khi họ đang đào nền móng cho việc xây cất ngôi nhà thờ mới này, những bức tranh ghép màu tuyệt đẹp đã xuất hiện. Đó là những gì còn lại của một nhà thờ lâu đời. Vì vậy, quyết định được đưa ra là xây dựng lại ngôi nhà thờ cổ nhất, có từ thời Byzantine, tức là thế kỷ thứ tư, và đã được nhắc đến bởi nhà hành hương nổi tiếng Egeria. Những bức tranh ghép này thực sự đã cho chúng ta ý tưởng về sự tráng lệ của ngôi nhà thờ này”.
Cha Alliata cho biết những bức tranh ghép này được thực hiện rất tốt và giữ được vẻ đẹp cho đến ngày nay.
Đền thờ Các Dân Nước, còn gọi là Đền thờ Thống Khổ, như chúng ta thấy ngày nay được xây dựng từ năm 1922 đến năm 1924. Để xây dựng nó, một số quốc gia đã hợp tác với các khoản tài trợ lớn, đó là lý do tại sao ngôi nhà thờ này được gọi là Đền thờ Các Dân Nước. Kiến trúc sư Barluzzi đã được giao nhiệm vụ thiết kế nhà thờ mới. Bức ảnh trên trần nhà này là hình của Barluzzi.
“Đây là tảng đá trung tâm của Đền thờ Các Dân Nước và theo phong tục Thiên chúa giáo, vị trí ở trung tâm, ngay trước bàn thờ, là một vị trí rất quan trọng chỉ dành cho những gì rất đáng tôn kính. Tảng đá này có một yếu tố đặc thù, thú vị nhất đối với lịch sử của Thánh địa. Tảng đá nằm ở trung tâm của đền thờ là thứ thu hút những người hành hương đến để tôn kính, không phải vì chính nó, nhưng vì chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện trên tảng đá này.”
Một bức khảm mô tả sự phản bội của Giuđa, trong khi bức khảm bên kia mô tả cảnh Chúa Giêsu bị bắt. Vì thế, đây là tảng đá của cầu nguyện, nơi chứng kiến sự phản bội, và biến cố Chúa Giêsu bị bắt.
Trên trần đền thờ có quốc kỳ của các quốc gia đã hợp tác xây dựng Vương cung thánh đường này. Nhưng bên cạnh đó cũng có một điều gây tò mò là chân dung của Barluzzi.
Từ năm 2012 đến tháng 11 năm 2013, Vương cung thánh đường đã trải qua một thời gian dài tu sửa. Dự án: “Giệtsimani: bảo tồn quá khứ và hình thành tương lai” đã chứng kiến việc khôi phục các bức tranh ghép quý giá.
Vào năm 2020, trong quá trình xây dựng một đường hầm nối giữa Đền thờ Thống Khổ, và Thung lũng Cedron, chúng tôi đã phát hiện một điều bất ngờ: đó là một mikveh, tức là một nhà tắm theo nghi lễ Do Thái Giáo có niên đại từ 2000 năm trước.
Các cuộc khai quật khảo cổ học do Trung Tâm Nghiên Cứu Kinh Thánh ở Giêrusalem và Cơ quan Cổ vật của Israel thực hiện, cũng đã đưa ra ánh sáng một nhà thờ Byzantine, là tàn tích thời Trung cổ của một tu viện hoặc một nhà tiếp đón khách hành hương cùng với một số bể chứa nước.
Cha Francesco Patton, bề trên Dòng Phanxicô tại Thánh Địa cho biết:
“Khoa khảo cổ học trong trường hợp này đưa ra cho chúng ta những lời xác nhận về truyền thống đã truyền từ văn bản Kinh thánh. Và khi chúng ta có ba yếu tố này - văn bản Kinh thánh, truyền thống và khảo cổ học - chúng ta có thể nói rằng chúng ta có các yếu tố đủ chắc chắn để xác định các địa điểm”.
Những cây ô liu ở Giệtsimani cũng được các chuyên gia về sinh học và sinh lý học thực vật từ các trường đại học Ý và Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia phân tích, theo yêu cầu của các Hiệp Sĩ Quản Thủ Thánh Địa.
Nghiên cứu chỉ ra rằng các khúc gỗ và cành của chúng có tuổi đời khoảng 900 năm, khiến chúng trở thành một trong những cây ô liu lâu đời nhất được biết đến. Nhưng chưa hết đâu: các cây ô liu thuộc về một giống ban đầu duy nhất và chúng cũng có cùng một DNA, có nghĩa là chúng được nhân giống từ cây mẹ.
Trong số những người hành hương Thánh Địa cũng có các vị Giáo hoàng. Các ngài đã tôn kính tảng đá thống khổ, và đã trồng một cây ô liu trong vườn Giệtsimani. Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã đến đây vào năm 1964, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 năm 2009, và Đức Giáo Hoàng Phanxicô vào năm 2014.
Source:Christian Media Center
Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa Nhật 28 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Lễ Lá, khởi sự Tuần Thánh, là tuần lễ quan trọng nhất trong Phụng Vụ Công Giáo. Ngày Chúa Nhật Lễ Lá này cũng là ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 36 được cử hành ở cấp giáo phận.
Ngày Chúa Nhật Lễ Lá này cũng giống như ngày Lễ Lá Năm ngoái, nghĩa là không giống bất cứ ngày lễ nào trong những ngày Chúa Nhật Lễ Lá mà chúng ta đã trải qua trong đời trước thời đại dịch coronavirus. Tại Vatican cũng vậy, thay cho những đám đông dân chúng đứng chật quảng trường Thánh Phêrô, quý vị và anh chị em đang thấy Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ một cách lặng lẽ với các cộng sự viên gần gũi với ngài tại bàn thờ Ngai Tòa Thánh Phêrô. Đó là một bàn thờ nhỏ nơi đã từng xảy ra nghi thức tưởng niệm Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc do Đức Hồng Y Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh chủ sự.
Trong khoảnh khắc khi những nghi ngờ và sợ hãi tràn ngập trái tim chúng ta, điều quan trọng là chúng ta hướng mắt lên cầu nguyện cùng Chúa. Kinh Thánh không bỏ qua kinh nghiệm của con người về sự sợ hãi. Đức Thánh Cha lưu ý rằng Ápraham, Giacóp, Môise, Thánh Phêrô, các Tông Đồ khác và cả chính Chúa Giêsu đã từng trải qua những nỗi sợ hãi và đau đớn.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng cụm từ “Đừng sợ” được lặp lại đến 365 lần trong Kinh Thánh, “như thể nói với chúng ta rằng Chúa muốn chúng ta thoát khỏi sợ hãi, mỗi ngày trong năm”.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự cuộc rước lá, tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem.
Mở đầu bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Ngay từ đầu, Chúa Giêsu khiến chúng ta kinh ngạc. Dân chúng chào đón Ngài một cách long trọng, nhưng Ngài vào thành Giêrusalem trên một con ngựa non hèn mọn. Người dân của Người mong đợi một đấng giải phóng quyền năng trong Lễ Vượt Qua, nhưng Ngài đã đến để đưa Lễ Vượt Qua đến chỗ viên mãn bằng cách hy sinh chính bản thân mình. Dân của Người đang hy vọng chiến thắng người La Mã bằng gươm, nhưng Chúa Giêsu đến để ăn mừng chiến thắng của Thiên Chúa bằng thập tự giá. Điều gì đã xảy ra với những người trong thời gian vài ngày, từ chỗ hô vang “Hosanna” đến chỗ gào lên “Đóng đinh nó đi”? Chuyện gì đã xảy ra? Họ đang theo đuổi một ảo tưởng về Đấng Mêsia hơn là chính Đấng Mêsia. Họ ngưỡng mộ Chúa Giêsu, nhưng họ không để mình kinh ngạc trước Ngài. Kinh ngạc không giống như ngưỡng mộ. Sự ngưỡng mộ có thể là trần tục, vì nó tập chú vào những thị hiếu và mong đợi của riêng nó. Ngược lại, sự kinh ngạc vẫn mở ra đối với những điều khác và sự mới mẻ mà những điều ấy mang lại. Ngay cả ngày nay, có rất nhiều người ngưỡng mộ Chúa Giêsu: Ngài nói những điều đẹp đẽ; Ngài tràn đầy tình yêu và sự tha thứ; tấm gương của Người đã thay đổi lịch sử và vân vân. Họ ngưỡng mộ Ngài, nhưng cuộc sống của họ không thay đổi. Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thôi thì chưa đủ. Chúng ta phải bước theo những bước chân của Chúa, để cho mình được thử thách bởi Người; chuyển từ ngưỡng mộ sang kinh ngạc.
Điều gì đáng kinh ngạc nhất về Chúa và Lễ Vượt Qua của Ngài? Đó là thực tế rằng Ngài đạt đến vinh quang thông qua sự nhục nhã. Ngài chiến thắng bằng cách chấp nhận đau khổ và cái chết, là những điều mà chúng ta, trong hành trình tìm kiếm sự ngưỡng mộ và thành công thường tìm cách tránh né. Chúa Giêsu - như Thánh Phaolô đã nói với chúng ta - “đã trút bỏ chính mình… Người đã tự hạ mình” (Pl 2: 7,8). Điều đáng kinh ngạc là chứng kiến Đấng Toàn năng đã biến thành hư không; chứng kiến Ngôi Lời, Đấng thấu suốt mọi sự, dạy chúng ta trong thinh lặng từ trên đỉnh cao của thập tự giá; chứng kiến vua của các vị vua lên ngôi trên một giá treo cổ; chứng kiến Chúa của vũ trụ tước bỏ mọi thứ và đội lên đầu mão gai thay vì vinh quang; chứng kiến Đấng nhân lành hóa thân làm người bị sỉ nhục và bị đánh đập. Tại sao lại xảy ra tất cả sự sỉ nhục như thế? Tại sao, Lạy Chúa, chẳng lẽ Chúa muốn chịu đựng tất cả những điều này sao?
Chúa Giêsu đã làm điều đó cho chúng ta, để hiểu thấu chiều sâu của kinh nghiệm con người chúng ta, toàn bộ sự tồn tại của chúng ta, tất cả những điều xấu xa của chúng ta, để đến gần chúng ta và không bỏ rơi chúng ta trong đau khổ và cái chết của chúng ta, để cứu chuộc chúng ta, để cứu chúng ta. Chúa Giêsu đã được nâng lên cao trên thập tự giá để xuống vực thẳm của sự khổ đau của chúng ta. Ngài đã trải qua nỗi buồn sâu sắc nhất của chúng ta: thất bại, mất tất cả, bị bạn bè phản bội, thậm chí bị Thiên Chúa bỏ rơi. Bằng cách trải nghiệm trong xác thịt những cuộc đấu tranh và xung đột sâu sắc nhất của chúng ta, Ngài đã cứu chuộc và biến đổi chúng. Tình yêu của Ngài đến gần với sự yếu đuối của chúng ta; nó chạm đến chính những điều mà chúng ta xấu hổ nhất. Tuy nhiên, bây giờ chúng ta biết rằng chúng ta không đơn độc: Thiên Chúa ở bên cạnh chúng ta trong mọi cơn hoạn nạn, trong mọi nỗi sợ hãi; chẳng bao giờ có sự ác nào, cũng chẳng bao giờ có tội lỗi nào có tiếng nói cuối cùng. Chúa chiến thắng, nhưng lòng bàn tay chiến thắng đi qua gỗ của thập tự giá. Vì lòng bàn tay và cây thánh giá không thể tách rời.
Chúng ta hãy cầu xin ân sủng để được kinh ngạc. Một đời sống Kitô hữu không có sự ngạc nhiên sẽ trở nên buồn tẻ và thê lương. Chúng ta không thể nói về niềm vui được gặp Chúa Giêsu, trừ khi hàng ngày chúng ta đi từ ngạc nhiên này đến kinh ngạc khác bởi tình yêu của Ngài, là điều mang lại cho chúng ta ơn tha thứ và khả năng có một khởi đầu mới. Khi đức tin không còn cảm thấy kinh ngạc nữa, thì đức tin trở nên buồn tẻ: nó trở nên mù quáng trước những điều kỳ diệu của ân sủng; nó không còn có thể nếm được Bánh sự sống và không còn có thể nghe Lời Chúa; nó không còn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của anh chị em chúng ta và món quà của tạo hóa. Nó không còn cách nào khác hơn là phải nương vào luật pháp, vào chủ nghĩa giáo sĩ trị và vào tất cả những điều mà Chúa Giêsu lên án trong chương 23 của Phúc âm Thánh Matthêu.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy ngước mắt lên thập giá, để nhận được ơn kinh ngạc. Khi Thánh Phanxicô thành Assisi chiêm ngưỡng Chúa bị đóng đinh, thánh nhân ngạc nhiên rằng các anh em của ngài không khóc. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta còn có thể rung động trước tình yêu của Thiên Chúa không? Có phải chúng ta đã đánh mất khả năng kinh ngạc trước Ngài không? Tại sao? Có thể đức tin của chúng ta đã trở nên chai lỳ vì thói quen. Có thể chúng ta vẫn bị kẹt trong những hối tiếc của mình và để cho bản thân mình bị tê liệt bởi những thất vọng của chúng ta. Có thể chúng ta đã mất hết niềm tin hoặc thậm chí cảm thấy mình vô dụng. Nhưng có lẽ, đằng sau tất cả những điều “có thể” này, là sự thật rằng chúng ta không mở lòng đón nhận ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng ban cho chúng ta ân sủng của sự kinh ngạc.
Hãy để chúng ta bắt đầu lại từ sự ngạc nhiên. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá và nói với Người: “Lạy Chúa, Chúa yêu con biết bao! Con quý giá biết bao đối với Chúa!” Chúng ta hãy kinh ngạc trước Chúa Giêsu để chúng ta có thể bắt đầu hồi sinh, vì sự vĩ đại của cuộc sống không hệ tại nơi những của cải chiếm hữu được hay sự thăng quan tiến chức, nhưng chính là nhận ra rằng chúng ta được yêu thương. Đây là sự vĩ đại của cuộc sống: đó là khám phá ra rằng chúng ta được yêu thương. Và sự hùng vĩ của cuộc sống nằm chính ở vẻ đẹp của tình yêu. Nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, chúng ta thấy Thiên Chúa bị sỉ nhục, Đấng Toàn Năng bị gạt bỏ và loại trừ. Và với ân sủng của sự ngạc nhiên, chúng ta nhận ra rằng khi chào đón những người bị gạt bỏ và loại trừ, khi đến gần những người bị cuộc sống đối xử tệ bạc, chúng ta đang yêu mến Chúa Giêsu. Vì đó là vị trí của Người, nghĩa là giữa những anh chị em thấp hèn nhất của chúng ta, giữa những người bị từ chối và bị loại bỏ, giữa những người mà nền văn hóa tự cao tự đại lên án.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, ngay sau cái chết của Chúa Giêsu, đã có một biểu tượng huy hoàng của sự kinh ngạc. Đó là cảnh một viên đại đội trưởng, khi thấy Chúa Giêsu sinh thì, đã nói: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa!” (Mc 15:39). Anh kinh ngạc vì tình yêu. Anh thấy Chúa Giêsu chết như thế nào? Anh đã thấy Ngài chết vì tình yêu, và điều này làm anh kinh ngạc. Chúa Giêsu đau khổ vô cùng, nhưng Ngài không ngừng yêu thương. Đây là điều đáng kinh ngạc trước Thiên Chúa, Đấng có thể lấp đầy cái chết bằng tình yêu. Nơi tình yêu nhưng không và vô tiền khoáng hậu đó, viên đại đội trưởng ngoại đạo đã tìm thấy Chúa. Lời nói của anh – Quả thật người này là Con Thiên Chúa! – “đóng dấu” bài tường thuật Cuộc Khổ nạn. Các sách Phúc âm cho chúng ta biết rằng nhiều người khác trước viên đại đội trưởng này đã ngưỡng mộ Chúa Giêsu vì những phép lạ và công việc phi thường của Ngài, và đã thừa nhận rằng Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu Kitô đã làm họ im lặng, bởi vì họ có nguy cơ hoàn toàn dừng lại ở mức độ ngưỡng mộ của thế gian với ý tưởng về một Thiên Chúa đáng tôn thờ và đáng sợ vì quyền năng và sức mạnh của Ngài. Giờ đây không còn có thể như vậy nữa, vì dưới chân thập tự giá không còn có thể sai lầm: Thiên Chúa đã tỏ mình ra và chỉ trị vì bằng quyền năng nguôi giận và không bất bình của tình yêu.
Anh chị em thân mến, hôm nay Thiên Chúa tiếp tục làm cho tâm trí và trái tim chúng ta kinh ngạc. Chúng ta hãy để cho lòng mình tràn ngập sự kinh ngạc đó khi chúng ta nhìn ngắm Chúa bị đóng đinh. Chúng ta cũng có thể nói rằng: “Ngài thực sự là Con Thiên Chúa. Ngài là Chúa của con”.
Source:Holy See Press Office
1. Cảm tưởng của Đức Thượng Phụ thành Giêrusalem về Lễ Lá năm nay
Trong khung cảnh rất khác so với năm ngoái, Nhà thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem đã mở cửa cho công chúng vào Chúa Nhật Lễ Lá, cho phép các tín hữu Kitô tham dự thánh lễ vào đầu Tuần Thánh tại địa điểm Chúa Giêsu đã bị đóng đinh và đã phục sinh.
Với hơn một nửa dân số Israel đã được tiêm hai liều vắc-xin, các hạn chế về coronavirus đã được nới lỏng để cho phép các nhóm nhỏ tụ tập với các biện pháp giãn cách xã hội.
Bầu không khí ăn mừng tràn ngập khu vực này khi hàng loạt người Công Giáo đi qua cánh cửa gỗ khổng lồ của nhà thờ, tâm điểm toàn cầu của lễ hội quan trọng nhất trong lịch Phụng Vụ Công Giáo.
“Năm ngoái là một lễ Phục sinh khủng khiếp, không có người, cửa đóng then cài. Năm nay tốt hơn nhiều, cánh cửa rộng mở, chúng tôi vẫn chưa có nhiều người nhưng chúng tôi cảm thấy hy vọng rằng mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp hơn,” Đức Thượng Phụ Pierbattista Pizzaballa của Công Giáo nghi lễ Latinh tại Giêrusalem nói khi ngài bước ra khỏi nhà thờ hòa cùng dòng người đông đảo các giáo sĩ và các tín hữu.
“Thông điệp của Lễ Phục sinh là cuộc sống và tình yêu, bất chấp mọi dấu chỉ của cái chết, coronavirus, đại dịch, bất cứ điều gì, chúng ta tin vào sức mạnh của tình yêu và sự sống,” Đức Thượng Phụ Pizzaballa nói.
Chúa Nhật Lễ Lá kỷ niệm ngày mà các sách Phúc Âm cho biết Chúa Giêsu đã cưỡi một con lừa con vào thành Giêrusalem và được người dân tung hô, nhưng Ngài bị đóng đinh vào thập tự giá năm ngày sau đó.
Năm nay, người Công Giáo mừng lễ Phục sinh vào ngày 4 tháng 4 và các tín hữu Chính thống giáo sẽ mừng gần một tháng sau đó, vào ngày 2 tháng 5.
Source:Reuters
2. Khủng bố Hồi Giáo tấn công vào nhà thờ chính tòa Makassar trong Chúa Nhật Lễ Lá
Cảnh sát cho biết một vụ đánh bom tự sát đã diễn ra bên ngoài một nhà thờ Công Giáo ở thành phố Makassar của Indonesia đã khiến ít nhất 14 người bị thương.
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật Lễ Lá, Đức Thánh Cha đã nhắc đến biến cố bi thảm này và kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho các nạn nhân.
Cảnh sát cho biết một vụ nổ đã xảy ra khi hai kẻ tấn công thuộc tổ chức cực đoan Hồi Giáo Jemaah Islamiah cố gắng xông vào nhà thờ chính tòa Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm Chúa Nhật Lễ Lá, ngày đầu tiên trong Tuần Thánh.
Một chiếc xe máy bị phá hủy và các bộ phận cơ thể được tìm thấy tại hiện trường và cảnh sát cho biết hai kẻ tấn công đã chết.
Tổng thống Indonesia Joko Widodo lên án vụ tấn công là “hành động khủng bố” và cho biết ông đã ra lệnh cho tư lệnh cảnh sát điều tra những người chịu trách nhiệm.
“Tôi kêu gọi mọi người chống lại chủ nghĩa khủng bố và cực đoan, là những thứ đi ngược lại các giá trị tôn giáo,” tổng thống nói.
Bộ trưởng Tôn Giáo Sự Vụ Yaqut Cholil Qoumas kêu gọi cảnh sát tăng cường các biện pháp an ninh tại các nơi thờ tự.
Vụ nổ xảy ra vào khoảng 10:30 sáng theo giờ địa phương, cũng là 10:30 sáng theo giờ Việt Nam, khi thánh lễ Chúa Nhật Lễ Lá vừa chấm dứt và anh chị em đang bắt đầu ra về.
“Có hai người đi trên một chiếc xe máy khi vụ nổ xảy ra ở cổng chính của nhà thờ. Hai tên thủ phạm đang cố gắng xông vào nhà thờ,” phát ngôn viên Cảnh sát Quốc gia Argo Yuwono cho biết.
Cha Wilhemus Tulak, là cha sở nhà thờ chính tòa, nói với Metro TV rằng một nhân viên an ninh đã chận một kẻ đánh bom khi hắn xông vào nhà thờ. Hắn ta và tên đồng bọn kích hoạt chất nổ quấn quanh người khiến 14 người bị thương, bao gồm cả người nhân viên an ninh nhanh trí và đề cao cảnh giác này.
Vụ nổ xảy ra ở lối vào của nhà thờ. Đoạn phim từ camera an ninh cho thấy lửa, khói và các mảnh vỡ bị thổi tung ra giữa đường.
Thị trưởng Makassar Danny Pomanto nói rằng nếu vụ nổ xảy ra ở trong sân nhà thờ, nó có thể đã dẫn đến thương vong kinh hoàng hơn nữa.
Trong quá khứ, các nhà thờ đã từng là mục tiêu của bọn khủng bố Hồi Giáo cực đoan ở Indonesia, quốc gia có đa số người Hồi giáo lớn nhất thế giới.
Năm 2018, hàng chục người đã thiệt mạng trong các vụ đánh bom vào nhà thờ và trụ sở cảnh sát ở thành phố cảng Surabaya.
Source:BBC
3. Huấn đức của Đức Thánh Cha trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật Lễ Lá
Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa Nhật 28 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Lễ Lá, khởi sự Tuần Thánh, là tuần lễ quan trọng nhất trong Phụng Vụ Công Giáo. Sau thánh lễ, tại bàn thờ Ngai Tòa Thánh Phêrô, ngài đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật Lễ Lá ngay tại đây. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,Chúng ta đã bắt đầu Tuần Thánh. Lần thứ hai chúng ta sẽ phải sống Tuần Thánh trong bối cảnh của đại dịch. Năm ngoái, chúng ta đã bị chấn động nhiều hơn; còn năm nay chúng ta đang bị thử thách hơn nữa. Và khủng hoảng kinh tế đã trở nên nặng nề.
Trong hoàn cảnh lịch sử và xã hội này, Chúa đang làm gì? Ngài vác thập giá lên. Chúa Giêsu vác thập tự giá, nghĩa là Ngài gánh lấy sự dữ mà tình huống này mang đến, sự dữ về thể chất và tâm lý - và trên hết là sự dữ về tinh thần - bởi vì Ma Quỷ đang lợi dụng cuộc khủng hoảng để gieo rắc ngờ vực, tuyệt vọng và bất hòa.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta nên làm gì? Đấng chỉ cho chúng ta thấy hướng đi là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, cũng là môn đệ đầu tiên của Người. Mẹ bước theo Con của mình. Mẹ tự nhận lấy phần đau khổ của mình, bóng tối, sự bối rối, và Mẹ bước đi trên con đường thương khó giữ ngọn đèn đức tin thắp sáng trong trái tim Mẹ. Với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể thực hiện cuộc hành trình đó. Và, trên con đường thập giá hàng ngày, chúng ta gặp gỡ khuôn mặt của biết bao anh chị em đang gặp khó khăn: chúng ta đừng đi ngang qua, nhưng hãy để cho lòng mình rung động với lòng trắc ẩn, và chúng ta hãy đến gần họ. Khi điều đó xảy ra, giống như ông Simêon thành Kyrinê, chúng ta có thể nghĩ: “Tại sao lại là tôi?” Nhưng rồi chúng ta sẽ khám phá ra ân sủng đã chạm đến chúng ta dù chúng ta chẳng có công lao gì.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân của bạo lực, đặc biệt là các nạn nhân của vụ tấn công sáng nay ở Indonesia, trước Nhà thờ Makassar.
Xin Đức Mẹ, đấng luôn đi trước chúng ta trên con đường đức tin, phù hộ chúng ta.
Source:Holy See Press Office