Phụng Vụ - Mục Vụ
Chước cám dỗ
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
01:31 20/02/2024
CHƯỚC CÁM DỖ
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6,13). Đây là một trong những lời cầu của Kinh Lạy Cha mà chúng ta vốn thuộc nằm lòng và cũng thường xuyên đọc hằng ngày. Thiên Chúa không muốn và cũng không nỡ để bất cứ ai phải sa chước cám dỗ. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên, kết hiệp với Thiên Chúa để yêu mến Người, nhận biết thánh ý Người mà thực thi. Có đó không ít người hễ cầu nguyện là chỉ biết cầu xin và thậm chí còn như muốn bắt Chúa làm theo ý của mình. Thiên Chúa đã biết rõ những gì chúng ta cần ngay trước khi chúng ta cầu xin. Đấng Cứu Thế dạy chúng ta cầu nguyện: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” là để chúng ta biết rằng Thánh ý Cha trên trời muốn chúng ta phải cẩn trọng với các chước mưu cám dỗ của ma quỷ cũng như của những người xấu và những thế lực đen tối.
Biết cẩn trọng để rồi biết đề phòng các chước cám dỗ bằng cách xa lánh và tìm cách chiến đấu, chống trả cách hữu hiệu khi phải đương đầu với chúng. Để thực hiện mục đích này thì tiên vàn cần nắm rõ chiến thuật, chiến lược của ma quỷ và các thế lực xấu. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải biết một cách nào đó các lãnh vực xung yếu mà ma quỷ thích tấn công, cám dỗ chúng ta. Sự thường, môn đệ thì không hơn thầy. Cách thế và những lãnh vực ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu thì nó cũng dùng để tấn công chúng ta. Vậy không gì hơn, chúng ta hãy xem xét những chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chịu trong thời gian chay tịnh ở hoang mạc cũng như trước giờ tử nạn để nhận rõ chước mưu cám dỗ của ma quỷ.
Chiến lược: Nói đến chiến lược thì hầu như chúng ta nghĩ ngay đến sự trường kỳ, lâu dài. Thánh sử Luca cho ta thấy sự thật này: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Đức Giêsu, ma quỷ bỏ đi và chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13). Trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã không ít lần bị ma quỷ cám dỗ. Nó không chỉ cám dỗ Người khi Người chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang mạc mà còn cám dỗ Người nhiều lần và nhiều cách thế khác nhau. Sau khi Người hóa bánh ra nhiều thì ma quỷ dùng quần chúng để cám dỗ Người làm vua (x.Ga 6,1-15). Nó cũng dùng cả người môn đệ thân tín của Người là Phêrô để cám dỗ Người đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn (x.Mt 16,21-23). Ngay phút giây Người hấp hối trên thập giá thì ma quỷ vẫn không buông tha (x.Mc 15,29-39).
Chiến thuật: Qua câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang mạc, chúng ta nhận ra một trong những chiến thuật tinh ranh của ma quỷ là đánh ngay vào chính khả năng của người mà nó cám dỗ. Một kiểu đánh quả là độc chiêu. Không ai lại không ít nhiều tự hào về khả năng của mình. Khi hướng được khả năng của ai đó đi theo chiều của mình, theo cung cách của mình thì chúng ta hầu chắc nắm phần thắng trong tay. Ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu sử dụng khả năng, uy quyền của Người theo cách thế nó bày vẽ ra và dĩ nhiên là trái với thánh ý Chúa Cha. Cái tinh xảo của ma quỷ ở chỗ nó không minh nhiên làm đổi hẳn mục tiêu mà Chúa Giêsu nhắm đến. Nó chỉ làm lệch đi một chút hoặc xúi giục Chúa Giêsu đạt đến mục tiêu theo cách thức không đẹp lòng Chúa Cha mà thôi. Chiến thuật xảo quyệt của ma quỷ lộ diện cách rõ nét qua các chước cám dỗ trong hoang mạc và những giờ trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Chiến thuật này có thể xem là chiến thuật mang tính tổng lực và toàn diện.
Ngạn ngữ “biết người - biết ta, trăm trận trăm thắng” có thể nói là một quy luật mang tính phổ biến trong các cuộc chiến. Chúng ta biết về ma quỷ thì chẳng bao nhiêu, nhưng chắc chắn ma quỷ biết chúng ta nhiều và rõ hơn chúng ta biết về nó. Ma quỷ thừa biết khả năng cũng như quyền hạn của các mục tử trong giáo hội. Một điều chắc chắn đó là nó sẽ không hề bỏ lỡ một cơ hội dù nhỏ để cám dỗ chúng ta hành quyền cách lệch lạc. Dĩ nhiên nó sẽ không dại gì cám dỗ chúng ta hành quyền kiểu đi ngược đường lối của Thiên Chúa cách tức khắc, một lần, nhưng chỉ lệch một tí thôi. Từng lần, mỗi lần lệch một chút, lệch vài độ nhỏ, thì rồi sẽ đến lúc lệch 180 độ.
Trong vai vị lãnh đạo mà hành xử quyền bính cách độc đoán, độc tài, thì sẽ làm cho đoàn chiên phân đàn, chia cánh, cắn xé lẫn nhau. Sự nguy hại này thường tồn tại lâu dài và cũng rất khó khắc phục ngày một ngày hai. Lịch sử Giáo hội cho chúng ta bài học đau thương này: để gây chia rẽ, để làm đổ vỡ thì rất dễ. Trái lại để hàn gắn các đổ vỡ, xây dựng lại sự hiệp nhất thì quả là vô vàn khó khăn và đòi hỏi thời gian rất lâu dài. Lẽ thường từ chỗ độc đoán, độc tài ắt sẽ dẫn đến sự độc ác, dù nhiều khi không có chủ ý xấu nhưng hậu quả thì khó lường. Người ta thường dễ lượng thứ cho sự yếu đuối và cả sự mê muội, nhưng sự độc ác thì rất khó mà tha thứ hay bỏ qua. Tin Mừng cho thấy, ba năm theo Thầy, các tông đồ thường xuyên bị cám dỗ về quyền bính.
Căn cứ vào những lời Chúa Giêsu dùng để chống trả chước cám dỗ, đặc biệt các chước cám dỗ thưở đầu đời công khai rao giảng của Người và phút giây hấp hối trong vườn dầu cũng như trên núi sọ, chúng ta có thể thấy được các lãnh vực mà ma quỷ tấn công Người.
Chước cám dỗ về lòng mến: Một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô khi đến thế gian đó là mạc khải cách hoàn hảo chân dung Thiên Chúa là Đấng toàn năng và đầy lòng thương xót cho nhân loại. Chân dung của Đấng Toàn Năng chí ái được biểu lộ qua chính con người, cuộc đời, những lời giảng dạy, việc làm của Người, Giêsu Kitô, vị mục tử nhân lành luôn hết tình vì đàn chiên và từng con chiên đến độ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ma quỷ đâu có cám dỗ Chúa Giêsu không yêu thương con người, nhưng nó cám dỗ Người yêu thương cách “phiếm diện”. Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh đi. Chúa Giêsu đã đáp lại: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,3-4).
Không riêng gì Kitô hữu, bà con lương dân, anh chị em khác đạo, kể cả người vô thần đều công nhận rằng người ta không chỉ sống bằng cơm bánh. Ngoài chuyện cơm áo gạo tiền thì con người cũng cần đến nhiều điều khác như học hành, giải trí, nghệ thuật, tâm linh… Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nói ngược lại câu trích dẫn của Chúa Giêsu mà không sợ sai lầm. Người ta sống không nguyên chỉ nhờ lương thực tinh thần mà còn phải cần đến bánh, cơm, gạo, tiền... Con người là hữu thể xác hồn duy nhất hay nói như các triết gia là tinh thần nhập thể. “Không ai là một hòn đảo”. Con người không hiện hữu đơn độc mà còn có tính xã hội. Để sống, tồn tại và phát triển thì con người luôn cần đến nhau, cần đến các cơ chế, luật lệ… Như thế để yêu thương con người cách toàn diện thì chúng ta không chỉ nghĩ đến luơng thực vật chất hay tinh thần mà còn phải biết nghĩ đến môi trường sống, một lãnh vực nền tảng để con người tồn tại, phát triển và đạt được hạnh phúc vốn được gọi là công ích.
Ma quỷ thừa biết điều này và nó đã, đang cũng như sẽ mãi cám dỗ con người, đặc biệt cám dỗ Hiền Thê Đức Kitô sống đức ái cách phiếm diện. Chước cám dỗ xui khiến chúng ta yêu thương nhau là chỉ giúp nhau về vật chất của cải thì dễ nhận ra. Bởi chưng cái hậu quả của việc sa chước cám dỗ này thường nhãn tiền và dễ thấy. Dòng lịch sử Giáo hội ghi lại không ít hiện tượng này đó đây. Tuy nhiên, chước cám dỗ xui khiến chúng ta yêu thương nhau là chỉ lo phần hồn, lo chuyện thiêng liêng thì quả thật khó nhận diện. Ngay cả với Mẹ Giáo hội, từ thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tự do chính trị bành trướng, đã dần mất hết các quyền lực trần thế thì đã tự co cụm lại trong pháo đài của mình. Chính trong hoàn cảnh này thì chước cám dỗ ma quỷ giăng ra lại hướng mục tiêu vào ngay bản thân Giáo hội. Bị hạn chế về các hoạt động trần thế thì chúng ta quay về với chuyện thiêng liêng. Vì thế Giáo hội đã quá nghiêng chiều về việc chỉ lo cứu rỗi các linh hồn. Chỉ lo cứu các linh hồn hay chỉ lo chuyện thiêng liêng thì cũng là một cách sa chước cám dỗ. Nếu chỉ thương xót linh hồn thì chưa phải là yêu thương con người đúng nghĩa.
Con người không phải là linh hồn. Hơn nữa khi chủ trương rằng chỉ lo chuyện linh hồn thì vô tình chúng ta rơi vào quan niệm nhị nguyên, chưa kể đến chuyện đánh lận con đen, tranh tối tranh sáng, khó bề kiểm chứng. Cũng có khi vì cái cớ lo chuyện linh hồn mà chúng ta đã thoái thác nhiều nghĩa vụ yêu thương phải thực thi theo giới luật mới mà Thầy Chí Thánh truyền dạy. Xin đừng quên Chúa Giêsu đã từng cụ thể hóa luật yêu thương bằng câu chuyện người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,29-37). Đọc Tin Mừng chúng ta thấy rõ điều này: Chúa Giêsu trong ba năm rao giảng, công việc chính của Người là giảng dạy, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ. Và khi sai các môn sinh đi thực tập truyền giáo, Người cũng truyền cho các vị thực thi những điều ấy: rao giảng tin mừng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ.
Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, con người cũng không chỉ sống bằng nguồn dinh dưỡng tinh thần, nhưng con người còn sống nhờ tha nhân, xã hội, các thể chế chính trị, các đường lối phát triển kinh tế, xã hội… Đã yêu con người thì cần phải quan tâm đến con người cách toàn diện. Thời gian gần đây, Giáo hội đã có nhiều nỗ lực thể hiện sự quan tâm của mình trong các lãnh vực được gọi là trần thế như: lao động, công bình, công ích…, đặc biệt từ sau Công Đồng Vatican II, với các hoạt động của thánh Bộ Công Lý và Hòa Bình. Tuy nhiên chước cám dỗ vẫn còn đó với nhiều Giáo hội địa phương khi mà dường như chuyện trần thế còn được xem như là không phải công việc của mình. Quả thật, không thể nói mình yêu thương nhau khi chúng ta còn hững hờ hay bỏ qua một khía cạnh căn bản nào đó trong đời sống của nhau. Những vấn đề về xã hội đã được Giáo hội lên tiếng hướng dẫn. Nhưng thử hỏi có được bao nhiêu vị trong hàng linh mục, tu sĩ đã đọc Thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII. Gần đây Bộ Công Lý và Hòa Bình đã tổng hợp giáo huấn của Giáo hội về các vấn đề xã hội trong quyển “Compendium of the social doctrine of the Church” xuất bản năm 2004 thì đã được bao nhiêu người nắm được nội dung. Giới linh mục và tu sĩ còn vậy, thế thì anh chị em tín hữu giáo dân sẽ ra sao đây?
Chước cám dỗ về Đức Cậy: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4,7; Lc 4,12). Khi nghe Chúa Giêsu dùng câu trích Lời Chúa trên đây để chống lại ma quỷ thì chúng ta dễ nhận ra trọng tâm của chước cám dỗ là hướng vào Đức trông cậy. Giáo lý Công Giáo dạy rằng có hai tội phạm đến Đức trông cậy: một là tuyệt vọng, thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa và hai là chỉ dựa vào sức mình hoặc quả ỷ lại vào tình thương của Chúa. (x.GLCG chung số 2090-2091).
Bị cám dỗ tuyệt vọng hay thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa thì vẫn có đó, nhưng xét cho cùng chước cám dỗ này tương đối dễ nhận ra. Chẳng biết ma quỷ có thành công nhiều trong chước mưu cám dỗ này đến đâu, tuy nhiên chúng ta thấy trong đoàn con cái Chúa, số người tuyệt vọng không mấy nhiều, nếu xét hình thức bên ngoài. Giả như có ai đó có biểu hiện tuyệt vọng thì bà con đồng đạo sớm nhận ra ngay và dĩ nhiên sẽ động viên giúp đỡ nhau cách này cách khác. Người rơi vào tình trạng này rất dễ nhận được sự cảm thông và lòng thương xót của tha nhân. Chẳng hạn với các trường hợp tự vẫn thì ngày nay người ta đã có thái độ khoan dung hơn nhiều, vì nhờ biết cảm thông hơn.
Sa vào chước cám dỗ chỉ dựa vào sức riêng mình thì tai hại khôn lường. Không riêng người Kitô hữu mà bà con lương dân, anh chị em khác đạo cũng dễ dàng thấy được cái nguy cơ của những người chỉ dựa vào sức mình. Không chỉ bất cần đến sự che chở, phù trì của trời cao, những người chỉ dựa vào sức riêng mình cũng bất cần cả sự giúp đỡ của tha nhân. Những người này thường hứng nhận hậu quả hay quả báo nhãn tiền ngay ở đời này. Chính vì thế chúng ta không quá khó nhận ra chước mưu cám dỗ của quỷ ma.
Trái lại, chước cám dỗ xui khiến chúng ta quả ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa thì thật tinh tế và xảo quyệt. Chước cám dỗ này thường xuất hiện dưới nhiều hình thức bên ngoài với dáng vẻ đạo đức, thành kính, kể cả “cậy trông”! Khi rơi vào chước cám dỗ này, đương sự khó nhận biết và tha nhân cũng khó phát hiện. Ai lại không cảm phục người tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa? Thế nhưng chính khi rơi vào chước cám dỗ này, một cách nào đó chúng ta đã thử thách Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Bắt Thiên Chúa phải làm thay, giao khoán tất cả cho Thiên Chúa bằng việc phủi tay, thoái thác trách nhiệm hoặc bằng cách chỉ biết cầu nguyện, cầu xin mà thôi thì vô tình hay hữu ý chúng ta đã để mình chiều theo chước cám dỗ lỗi đức trông cậy. Có thể xác quyết rằng những người đạo đức theo “truyền thống”, những người vị trọng, chức cao trong Giáo hội rất dễ rơi vào tình trạng này. Và cái nguy hiểm lớn nhất đó là những người đang ở trong chước cám dỗ này lại chẳng biết, chẳng hay. Và rồi người ta có cớ để ẩn mình trong thái độ thụ động, thiếu dấn thân, không dám quên mình, đặc biệt khi công lý đòi hỏi phải được bảo vệ.
Người biết sống Đức Cậy không phải là chỉ biết chuyên chăm cầu nguyện, cầu xin, nhưng còn phải biết tận dụng những hồng ân Chúa ban là các khả năng trí khôn, sức khỏe, thời giờ, tiền bạc…để làm cho Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa trị đến, Ý Chúa được thể hiện… Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ đó là Chúa Giêsu chuyên chăm cầu nguyện, tìm kiếm Thánh Ý Chúa Cha để rồi tích cực thực thi. Điểm đến của việc cầu nguyện là để kết hiệp với Chúa, yêu mến Chúa, nhận biết Thánh ý mà thực thi, dĩ nhiên là trong niềm tin vào tình yêu và ân sủng của Người.
Xin được nhắc lại rằng thái độ chỉ biết cầu nguyện trong sự thụ động khoanh tay cứ để cho mình hoặc mặc cho tha nhân ở lâu trong “tình trạng cheo leo” (khốn khổ, bất công, bị tước đoạt nhân vị cùng với những quyền lợi chính đáng…) rồi ngồi chờ hoặc cách nào đó “bắt” Thiên Chúa phải ra tay can thiệp, chính là một sự nghiêng chiều theo chước cám dỗ lỗi đức Trông Cậy.
Chước cám dỗ về Đức Thờ Phượng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người thôi” (Mt 4,10; Lc 4,8). Mẹ Giáo hội dạy chúng ta: “Hành vi đầu tiên của nhân đức thờ phượng là thờ lạy Thiên Chúa, nghĩa là nhận biết Người là Thiên Chúa, là Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc, là Chúa và là Thầy của mọi loài, là Tình Yêu vô biên và giàu lòng thương xót…Thờ lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối thần phục Người vì nhận biết “tính hư không của thụ tạo”, biết sự hiện hữu của chúng ta, hạnh phúc vĩnh hằng của chúng ta hoàn toàn nằm trong tay Người…Việc thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, giải thoát con người khỏi thái độ khép kín, khỏi nô lệ tội lỗi và sự sùng bái thế giới ngẫu tượng.”(x.GLCG chung số 2096-2097).
Sùng bái các loài thụ tạo, suy tôn các thế lực thụ tạo chính là hành vi lỗi phạm đến đức thờ phượng. Một trong những chước cám dỗ ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu năm xưa cũng như xúi giục Hiền Thê của Người qua mọi thời là tin vào quyền năng của các thế lực thụ tạo. Lịch sử Giáo hội một cách nào đó cho chúng ta thấy ảnh hưởng của chước cám dỗ. Từ năm 313 với sắc chỉ Milan, Giáo hội dường như thấy được sự hữu hiệu của thế lực trần thế nên đã có phần cậy dựa vào nó. Không chỉ cậy dựa mà có khi Giáo hội còn lợi dụng thế quyền cho việc đạo và có khi chính mình hành xử như một thế lực trần tục. Với sự trở lại của Vua Clovis năm 498 khiến cho toàn dân nước Pháp bấy giờ cùng theo đạo thì chước cám dỗ như tăng phần mãnh lực.
Để có hiệu năng, có thành quả lớn trong việc thiêng thánh thì người ta cũng dễ bị cám dỗ thỏa hiệp cách nào đó với các thế lực thụ tạo, và chúng ta đã “sùng bái” thụ tạo cách vô tình mà chẳng hay. Những cuộc thánh chiến, những lần theo đoàn viễn chinh để đi truyền giáo phải chăng không cho thấy sự cậy dựa của chúng ta vào các mãnh lực trần thế này khiến cho Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhiều lần thành khẩn xin lỗi công khai? Nói rằng chúng ta đã suy tôn chúng thì quả là hàm hồ nhưng xem chúng là một trong những động lực chính của sự thành công thì dường như không sai. Chuyện “xì căng đan” của hàng giáo sĩ Hội Thánh Ba Lan trong thời cộng sản đã từng là chuyện thời sự và cũng là bằng chứng về sự hiện hữu của chước cám dỗ tinh vi và độc hại này. Hy vọng rằng bài học đau thương này không tái diễn nơi các giáo hội địa phương khác.
Đến khi không nắm được các thế lực trần gian thì chúng ta lại rơi vào việc tự thần thánh hóa chính mình. Giáo hội là một xã hội hoàn hảo (Societas Perfecta). Cái khái niệm được xem là “tự huyễn hoặc” này đã từng kéo dài cho đến Công Đồng Vatican II. Mình không thể sai lầm, chỉ có mình mới nắm giữ trọn vẹn chân lý cũng là một trong những cách thế đặt mình thành ngẫu tượng. Chước cám dỗ ấy còn len lõi vào trong cung cách sống đạo. Nhiều anh em luơng dân hay bà con khác đạo nghĩ rằng “cứ nói nhiều là sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Nghĩa là khi đã thực hiện đủ một số công thức, kinh kệ nào đó thì thần minh phải thực hiện điều mình muốn. Bắt Thiên Chúa tự động (automatic) thực hiện điều mình quy định hay kiểu thức mình đặt ra đúng là một cám dỗ lỗi đức thờ phuợng tinh tế. Chước cám dỗ kiểu dạng ma thuật vẫn phảng phất đâu đó trong các cử hành bí tích, á bí tích. Nếu không tỉnh táo, cẩn mật đề phòng thì cả đến đấng bậc được xem là có thánh chức cũng sa vào, nhất là với cái nhìn “bí tích học” về tính tại sự (ex opere operato) một cách quá máy móc.
Điều quan trọng là xem xét thánh ý Thiên Chúa. Nếu ỷ lại vào các quy chế do chính chúng ta đặt định để cho rằng mình có quyền ban ân lộc thánh thiêng thì cũng là một cách ngẫu tượng hóa bản thân. Chuyện còn tính thời sự đó là nhiều cuộc tấn phong giám mục tại Trung Quốc dù cho là có “thành sự” (valide) nhưng không “hợp pháp” (licite), dĩ nhiên bị tuyệt thông tiền kết (GL Đ.1382). Đây là tình trạng xấu, thế nhưng chỉ sau một “hiệp ước” giữa Tòa Thánh với Chính quyền dân sự thì tình trạng ấy từ xấu trở thành “tốt ngay”! Thiết nghĩ rằng nếu “dùng đức tin mà bù lại” thì cũng có phần khiên cưỡng cách nào đó. Ngẫu tượng hóa bản thân thì vẫn còn dễ nhận biết, nhưng ngẫu tượng hóa tập thể hay cơ chế thì khó phát hiện. Tôn vinh một cơ chế nào đó, một tập thể nào đó lên hàng muôn năm, lên hàng bất diệt là sa vào chước cám dỗ thờ ngẫu tượng. Chước cám dỗ xưa đã khuất phục tổ tiên chúng ta nay như mãi đeo đẳng con cái loài người, kể cả Hiền Thê Đức Kitô.
Có thể nói Đức thờ phượng là hiện thực hóa Đức Tin. Chân lý nền tảng chúng ta tin nhận đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng Tạo Thành và là Cha của hết mọi người, vì thế chúng ta phải tôn thờ, thần phục và yêu mến chỉ mình Người trên hết mọi sự, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Ngoài Người ra thì không có thần minh nào hết. Thế nhưng trong thực tế nhiều khi chúng ta lại suy tôn nhiều thực thể nhân loại lên hàng thần thánh! Kinh tin kính thời các thánh Tông đồ chỉ rõ ngay đến Giáo hội cũng chỉ là đối tượng của sự tin có chứ không phải là tin kính.
Thế nhưng hình như vẫn có đó việc vô tình hay vô tri, chúng ta vĩnh cửu hóa một phương thế Chúa Giêsu thiết lập vốn mang tình thời gian. Có nhiều đấng bậc cảm thấy bị xúc phạm khi nghe nói đến chước cám dỗ của Hiền thê Chúa Kitô, trong khi đó vẫn thấy bình thường khi nghe đề cập đến các chước cám dỗ của chính Đấng Sáng lập nên Giáo hội. Phải chăng đã có lúc, có khi chúng ta nói về Giáo hội nhiều hơn là nói về Thiên Chúa, nhất là khi chúng ta đón nhận một vị trí, vai trò chủ chăn nào đó? Việc đánh lận con đen cũng là một lỗi nghịch với đức thờ phượng, với đức tin. Chống cha là chống Chúa, nói đụng đến giám mục là chống phá Giáo hội, là xúc phạm đến Thiên Chúa. Những lập luận trên đây không luôn hữu lý mà nhiều khi lỗi đức thờ phượng vì chúng ta vô tình thờ ngẫu tượng mà chẳng hay.
Cơn cám dỗ cuối cùng: Ở đây, không chủ ý nói đến cuốn tiểu thuyết “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” (The last temptation of Christ) của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantkasis. Tuy nhiên, đọc Tin Mừng chúng ta phải chân nhận rằng quảng thời gian Chúa Kitô bị cám dỗ quyết liệt nhất đó là những giờ trong vườn dầu và trên cây thập giá. Có lẽ viễn ảnh khổ giá là một thử thách to lớn đối với Chúa Giêsu. Thế nhưng trong thời gian rao giảng, Người đã thoáng hình dung khổ hình thập giá sẽ chịu. Theo thiển ý, có lẽ điều cám dỗ Chúa Giêsu nặng nề nhất đó là sự thất bại, mất cả chì lẫn cả chài,“xôi hỏng, bỏng tay”. “Êlôi, Êlôi, lamasabacthani ! Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mc 15,34).
Nói đến chước cám dỗ về hiệu năng. Mong nhìn thấy kết quả là chước cám dỗ phổ biến nơi nhiều người, cách riêng với những ai có chút tài và chút tâm. Dẫu biết rằng “thất bại là mẹ thành công” nhưng cũng thật khó lòng đón nhận thất bại cách thanh thản, nhất là khi vì sự thất bại ấy mà ta dường như mất tất cả, nhất là cái thanh danh của mình. Đã làm điều gì đó thì ai cũng mong sẽ thành công, sẽ đạt kết quả. Chính vì thế, ma quỷ khôn ranh cho chúng ta thoáng thấy sự uổng công, sự thua cuộc và cả sự thất bại để rồi chúng ta e ngại, dừng bước, khoanh tay.
Đứng trước tình trạng nhiễu nhương của xã hội hôm nay, tình cảnh chiến tranh loạn lạc của thế giới, nhiều hiện tượng bất ổn trong Giáo hội, đặc biệt liên quan đến hàng giáo sĩ từ cấp nhỏ đến cấp lớn, có đó không ít người có chút tâm và chút tài đã ngần ngại, e dè vì thoáng thấy sự thất bại trước mắt nếu can đảm lội dòng nước ngược. Một con chim én khó có thể và như không thể làm nên mùa xuân. Và số phận của nó chắc gì còn cánh, còn lông! Không chừng còn bị chê bai là thiếu khôn ngoan, là nóng vội, là bốc đồng, là hiếu thắng. Có khi lại bị quy chụp là phản động, là rối đạo. Và khi đã bị thua cuộc thì rất có thể bị dè bỉu rằng nếu nó làm đẹp lòng Chúa thì Chúa phải bênh đỡ nó chứ! (x.Mt 27,39-44).
Đã không thành công lại còn có thể mất thanh danh, mất chức vị, quyền hạn… thì thật là điều khó vượt qua. Dù rằng đã phải khuất phục trước Chúa Kitô, trước các thánh tử đạo… nhưng ma quỷ cũng đã nhiều lần thành công trong chước cám dỗ này với Hiền Thê của Người theo dòng lịch sử. Cơn cám dỗ cuối cùng luôn có đó với từng người chúng ta. Mùa chay thánh lại về, theo lời mời gọi của các vị cha chung của Giáo hội, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI đang nghỉ hưu, và Đức đương nhiệm, Phanxicô, chớ gì ta chuyên chăm ngắm nhìn thập giá mà học biết yêu thương trong sự can đảm chết đi để được phục sinh, can đảm đón nhận sự thất bại để cùng chiến thắng với Người.
Vai trò của người lãnh đạo trong các cuộc chiến:
Trong các cuộc chiến người ta dễ nhận ra quy luật này: “mạnh ở tướng chứ mạnh gì quân”. Đêm Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã từng nói rằng khi chủ chăn bị đánh tơi tả thì đàn chiên sẽ bị tan tác (x.Mt 26,31). Xin mạo muội đề nghị một giải pháp dành riêng cho các mục tử để chiến đấu với thần dữ trước các chước mưu cám dỗ của nó, đó là quy chiếu Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu: Mầu nhiệm Thánh Thể Chúa Kitô.
Nói đến Giao ước chúng ta có thể hiểu cách phổ thông như là một bản ký kết, một bản hợp đồng giữa hai bên tự nguyện chịu trách nhiệm một hay nhiều phận vụ nào đó và dĩ nhiên sẽ được hưởng một hay nhiều quyền lợi kèm theo. Qua bản hợp đồng thì quyết định tự do đầy tinh thần trách nhiệm được cụ thể hóa cách dứt khoát. Và rồi chính bản hợp đồng là căn cứ, là cơ sở để giải quyết những thiếu sót hay những sự tắc trách vì vô tình hay chủ tâm của bên này hay của phía kia. Các hợp đồng dân sự giữa các pháp nhân tư hay pháp nhân công thì đều có tính giới hạn. Chúng có thể bổ sung, thay đổi hay hết hiệu lực vì nhiều lý do như hết thời hạn hoặc một phía hoàn toàn không có khả năng thực hiện hoặc mất tư cách pháp nhân…
Chúa Kitô đã mình nhiên thiết lập Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu bằng chính thịt máu của Người. Đây là một “hợp đồng” có giá trị cho đến khi trời mới đất mới xuất hiện. Giao ước này chính là cuộc chiến thắng chung cuộc của Chúa Kitô trên thần dữ. Một hành vi được viên đầy giá trị ngay chính khi được quyết định cách dứt khoát. Giáo hội tin rằng khi lập Bí tích Thánh Thể trong đêm Tiệc Ly là lúc Chúa Kitô quyết định cách dứt khoát vâng phục thánh Ý Chúa Cha, thể hiện một tình yêu đến cùng là hiến dâng mạng sống vì nhân loại mà hy tế thập giá là điểm đến hay là sự biểu hiện. Chính vì thế mà mỗi lần Bí tích Thánh Thể được cử hành thì Giáo hội nhìn nhận là Hy tế thập giá Chúa Kitô được hiện tại hóa. Chính yếu tố “hiện tại hóa” Hy tế cứu độ của Bí Tích Thánh Thể giúp chúng ta đủ sức trường kỳ chiến đấu với thần dữ mưu ma.
“Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Giáo hội căn cứ những lời trên đây để xác quyết việc Chúa Kitô lập bí tích truyền chức thánh. Không dám mạn bàn về thần học bí tích, tuy nhiên khi nhìn vào nội hàm của lời truyền Đấng Cứu Độ đêm Tiệc Ly thì chỉ có hàng giám mục và linh mục là những người có năng cách thực thi những điều được truyền là cử hành nhiệm tích Thánh Thể mà không có hàng phó tế, dù cũng là thuộc bí tích truyền chức thánh. Xin được bỏ qua vấn đề này để tập chú vào mối liên hệ hữu cơ giữa hàng tư tế thừa tác với Giao ước mới, Giao ước vĩnh cữu. Sự hiện hữu của hàng tư tế thừa tác theo ý Đấng Cứu thế, là để cho Giao ước mới hiện diện và phát huy hiệu quả theo dòng thời gian. Chính các thừa tác viên Thánh Thể là những người thể hiện Giao ước này. Hội Thánh khẳng định chân lý này khi tuyên bố rằng lúc giám mục hay linh mục đọc lời truyền phép là đọc trong tư cách Chúa Kitô (in personna Christi) (Không đọc: “Này là Mình Chúa Kitô” mà đọc “Này là Mình Thầy”…Trước đây dịch: “Này là Mình Ta”).
Nếu lỡ vì lý do nào đó mà các tư tế thừa tác sa chước cám dỗ thì thiển nghĩ rằng không gì hơn hãy trở về với “bản hợp đồng vĩnh cửu” để quy chiếu hầu chỉnh sửa những sai lầm. Chính khi biết hiến dâng trọn xác thân của mình trong tình liên đới với nhân loại tội lỗi (Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em), thì chúng ta đang thể hiện tình yêu mến Thiên Chúa qua sự vâng phục Thánh ý Người là chọn lấy phương thế tuyệt hảo để bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Ai yêu mến Chúa thì thực thi lời người chỉ dạy. “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Nội hàm của “việc này” là noi gương Thầy Chí Thánh nhiệt thành giảng dạy chân lý, gắng công vuông tròn phận vụ người mục tử, và hơn nữa, người tư tế thừa tác cần biết can đảm dùng chính máu thịt của mình để cho tha nhân đón nhận sự sống và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Sống bí tích Thánh Thể là một cách thế biểu lộ lòng mến và sự cậy trông tuyệt hảo.
Mọi sự lành đều bởi Chúa mà ra. Ơn cứu độ là quà tặng hoàn toàn nhưng không. “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30). “Con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha”(Lc 23,46). Giao ước mới minh định rằng những gì chúng ta đang có, đang là, đều do bởi lãnh nhận. Việc Chúa Kitô hiến dâng toàn thân cho Chúa Cha nhắc nhớ cho chúng ta chân lý nền tảng của đức tin để rồi biết cách thế thờ phượng Thiên Chúa cho xứng, cho phải đạo. Mọi sự đều là của Thiên Chúa và phải dâng về cho Thiên Chúa. Giáo hội khẳng định chân lý này khi dạy chúng ta rằng Thánh Lễ là trung tâm của đời sống Kitô hữu và là đỉnh cao của hành vi thờ phuợng.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ: một lời cầu xin mãi luôn mang tính hiện sinh và cảnh tỉnh chúng ta, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Cầu xin là để nhận biết chước cám dỗ để mà xa lánh hay đề phòng, nhất là để biết cách thế chống trả hữu hiệu. Thánh Tông đồ cả Phêrô cảnh giác chúng ta rằng ma quỷ như sử tử gầm gừ rảo quanh chúng ta rình chờ cắn xé (x.1P 5,8). Vấn đề đặt ra đó là rất nhiều khi chính chúng ta không nhận ra tình trạng sa chước cám dỗ của mình. Là Kitô hữu, đặc biệt là những tư tế thừa tác, không gì hơn hãy luôn bám sát “bản hợp đồng” là Giao Ứớc mới, Giao Ước vĩnh cửu để chấn chỉnh, sửa sai và để biết cách thế chống trả chước mưu cám dỗ của thần dữ. Tin rằng một tư tế thừa tác thường xuyên ý thức và sống nội hàm những gì mình cử hành trong hy tế Thánh Thể hằng ngày thì chắc chắn sẽ khó lạc đường, sa chước cám dỗ mà nếu có thì cũng nhanh chóng chỗi dậy và trở về.
Ban Mê Thuột
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6,13). Đây là một trong những lời cầu của Kinh Lạy Cha mà chúng ta vốn thuộc nằm lòng và cũng thường xuyên đọc hằng ngày. Thiên Chúa không muốn và cũng không nỡ để bất cứ ai phải sa chước cám dỗ. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên, kết hiệp với Thiên Chúa để yêu mến Người, nhận biết thánh ý Người mà thực thi. Có đó không ít người hễ cầu nguyện là chỉ biết cầu xin và thậm chí còn như muốn bắt Chúa làm theo ý của mình. Thiên Chúa đã biết rõ những gì chúng ta cần ngay trước khi chúng ta cầu xin. Đấng Cứu Thế dạy chúng ta cầu nguyện: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” là để chúng ta biết rằng Thánh ý Cha trên trời muốn chúng ta phải cẩn trọng với các chước mưu cám dỗ của ma quỷ cũng như của những người xấu và những thế lực đen tối.
Biết cẩn trọng để rồi biết đề phòng các chước cám dỗ bằng cách xa lánh và tìm cách chiến đấu, chống trả cách hữu hiệu khi phải đương đầu với chúng. Để thực hiện mục đích này thì tiên vàn cần nắm rõ chiến thuật, chiến lược của ma quỷ và các thế lực xấu. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải biết một cách nào đó các lãnh vực xung yếu mà ma quỷ thích tấn công, cám dỗ chúng ta. Sự thường, môn đệ thì không hơn thầy. Cách thế và những lãnh vực ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu thì nó cũng dùng để tấn công chúng ta. Vậy không gì hơn, chúng ta hãy xem xét những chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chịu trong thời gian chay tịnh ở hoang mạc cũng như trước giờ tử nạn để nhận rõ chước mưu cám dỗ của ma quỷ.
Chiến lược: Nói đến chiến lược thì hầu như chúng ta nghĩ ngay đến sự trường kỳ, lâu dài. Thánh sử Luca cho ta thấy sự thật này: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Đức Giêsu, ma quỷ bỏ đi và chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13). Trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã không ít lần bị ma quỷ cám dỗ. Nó không chỉ cám dỗ Người khi Người chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang mạc mà còn cám dỗ Người nhiều lần và nhiều cách thế khác nhau. Sau khi Người hóa bánh ra nhiều thì ma quỷ dùng quần chúng để cám dỗ Người làm vua (x.Ga 6,1-15). Nó cũng dùng cả người môn đệ thân tín của Người là Phêrô để cám dỗ Người đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn (x.Mt 16,21-23). Ngay phút giây Người hấp hối trên thập giá thì ma quỷ vẫn không buông tha (x.Mc 15,29-39).
Chiến thuật: Qua câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang mạc, chúng ta nhận ra một trong những chiến thuật tinh ranh của ma quỷ là đánh ngay vào chính khả năng của người mà nó cám dỗ. Một kiểu đánh quả là độc chiêu. Không ai lại không ít nhiều tự hào về khả năng của mình. Khi hướng được khả năng của ai đó đi theo chiều của mình, theo cung cách của mình thì chúng ta hầu chắc nắm phần thắng trong tay. Ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu sử dụng khả năng, uy quyền của Người theo cách thế nó bày vẽ ra và dĩ nhiên là trái với thánh ý Chúa Cha. Cái tinh xảo của ma quỷ ở chỗ nó không minh nhiên làm đổi hẳn mục tiêu mà Chúa Giêsu nhắm đến. Nó chỉ làm lệch đi một chút hoặc xúi giục Chúa Giêsu đạt đến mục tiêu theo cách thức không đẹp lòng Chúa Cha mà thôi. Chiến thuật xảo quyệt của ma quỷ lộ diện cách rõ nét qua các chước cám dỗ trong hoang mạc và những giờ trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Chiến thuật này có thể xem là chiến thuật mang tính tổng lực và toàn diện.
Ngạn ngữ “biết người - biết ta, trăm trận trăm thắng” có thể nói là một quy luật mang tính phổ biến trong các cuộc chiến. Chúng ta biết về ma quỷ thì chẳng bao nhiêu, nhưng chắc chắn ma quỷ biết chúng ta nhiều và rõ hơn chúng ta biết về nó. Ma quỷ thừa biết khả năng cũng như quyền hạn của các mục tử trong giáo hội. Một điều chắc chắn đó là nó sẽ không hề bỏ lỡ một cơ hội dù nhỏ để cám dỗ chúng ta hành quyền cách lệch lạc. Dĩ nhiên nó sẽ không dại gì cám dỗ chúng ta hành quyền kiểu đi ngược đường lối của Thiên Chúa cách tức khắc, một lần, nhưng chỉ lệch một tí thôi. Từng lần, mỗi lần lệch một chút, lệch vài độ nhỏ, thì rồi sẽ đến lúc lệch 180 độ.
Trong vai vị lãnh đạo mà hành xử quyền bính cách độc đoán, độc tài, thì sẽ làm cho đoàn chiên phân đàn, chia cánh, cắn xé lẫn nhau. Sự nguy hại này thường tồn tại lâu dài và cũng rất khó khắc phục ngày một ngày hai. Lịch sử Giáo hội cho chúng ta bài học đau thương này: để gây chia rẽ, để làm đổ vỡ thì rất dễ. Trái lại để hàn gắn các đổ vỡ, xây dựng lại sự hiệp nhất thì quả là vô vàn khó khăn và đòi hỏi thời gian rất lâu dài. Lẽ thường từ chỗ độc đoán, độc tài ắt sẽ dẫn đến sự độc ác, dù nhiều khi không có chủ ý xấu nhưng hậu quả thì khó lường. Người ta thường dễ lượng thứ cho sự yếu đuối và cả sự mê muội, nhưng sự độc ác thì rất khó mà tha thứ hay bỏ qua. Tin Mừng cho thấy, ba năm theo Thầy, các tông đồ thường xuyên bị cám dỗ về quyền bính.
Căn cứ vào những lời Chúa Giêsu dùng để chống trả chước cám dỗ, đặc biệt các chước cám dỗ thưở đầu đời công khai rao giảng của Người và phút giây hấp hối trong vườn dầu cũng như trên núi sọ, chúng ta có thể thấy được các lãnh vực mà ma quỷ tấn công Người.
Chước cám dỗ về lòng mến: Một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô khi đến thế gian đó là mạc khải cách hoàn hảo chân dung Thiên Chúa là Đấng toàn năng và đầy lòng thương xót cho nhân loại. Chân dung của Đấng Toàn Năng chí ái được biểu lộ qua chính con người, cuộc đời, những lời giảng dạy, việc làm của Người, Giêsu Kitô, vị mục tử nhân lành luôn hết tình vì đàn chiên và từng con chiên đến độ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ma quỷ đâu có cám dỗ Chúa Giêsu không yêu thương con người, nhưng nó cám dỗ Người yêu thương cách “phiếm diện”. Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh đi. Chúa Giêsu đã đáp lại: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,3-4).
Không riêng gì Kitô hữu, bà con lương dân, anh chị em khác đạo, kể cả người vô thần đều công nhận rằng người ta không chỉ sống bằng cơm bánh. Ngoài chuyện cơm áo gạo tiền thì con người cũng cần đến nhiều điều khác như học hành, giải trí, nghệ thuật, tâm linh… Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nói ngược lại câu trích dẫn của Chúa Giêsu mà không sợ sai lầm. Người ta sống không nguyên chỉ nhờ lương thực tinh thần mà còn phải cần đến bánh, cơm, gạo, tiền... Con người là hữu thể xác hồn duy nhất hay nói như các triết gia là tinh thần nhập thể. “Không ai là một hòn đảo”. Con người không hiện hữu đơn độc mà còn có tính xã hội. Để sống, tồn tại và phát triển thì con người luôn cần đến nhau, cần đến các cơ chế, luật lệ… Như thế để yêu thương con người cách toàn diện thì chúng ta không chỉ nghĩ đến luơng thực vật chất hay tinh thần mà còn phải biết nghĩ đến môi trường sống, một lãnh vực nền tảng để con người tồn tại, phát triển và đạt được hạnh phúc vốn được gọi là công ích.
Ma quỷ thừa biết điều này và nó đã, đang cũng như sẽ mãi cám dỗ con người, đặc biệt cám dỗ Hiền Thê Đức Kitô sống đức ái cách phiếm diện. Chước cám dỗ xui khiến chúng ta yêu thương nhau là chỉ giúp nhau về vật chất của cải thì dễ nhận ra. Bởi chưng cái hậu quả của việc sa chước cám dỗ này thường nhãn tiền và dễ thấy. Dòng lịch sử Giáo hội ghi lại không ít hiện tượng này đó đây. Tuy nhiên, chước cám dỗ xui khiến chúng ta yêu thương nhau là chỉ lo phần hồn, lo chuyện thiêng liêng thì quả thật khó nhận diện. Ngay cả với Mẹ Giáo hội, từ thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tự do chính trị bành trướng, đã dần mất hết các quyền lực trần thế thì đã tự co cụm lại trong pháo đài của mình. Chính trong hoàn cảnh này thì chước cám dỗ ma quỷ giăng ra lại hướng mục tiêu vào ngay bản thân Giáo hội. Bị hạn chế về các hoạt động trần thế thì chúng ta quay về với chuyện thiêng liêng. Vì thế Giáo hội đã quá nghiêng chiều về việc chỉ lo cứu rỗi các linh hồn. Chỉ lo cứu các linh hồn hay chỉ lo chuyện thiêng liêng thì cũng là một cách sa chước cám dỗ. Nếu chỉ thương xót linh hồn thì chưa phải là yêu thương con người đúng nghĩa.
Con người không phải là linh hồn. Hơn nữa khi chủ trương rằng chỉ lo chuyện linh hồn thì vô tình chúng ta rơi vào quan niệm nhị nguyên, chưa kể đến chuyện đánh lận con đen, tranh tối tranh sáng, khó bề kiểm chứng. Cũng có khi vì cái cớ lo chuyện linh hồn mà chúng ta đã thoái thác nhiều nghĩa vụ yêu thương phải thực thi theo giới luật mới mà Thầy Chí Thánh truyền dạy. Xin đừng quên Chúa Giêsu đã từng cụ thể hóa luật yêu thương bằng câu chuyện người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,29-37). Đọc Tin Mừng chúng ta thấy rõ điều này: Chúa Giêsu trong ba năm rao giảng, công việc chính của Người là giảng dạy, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ. Và khi sai các môn sinh đi thực tập truyền giáo, Người cũng truyền cho các vị thực thi những điều ấy: rao giảng tin mừng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ.
Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, con người cũng không chỉ sống bằng nguồn dinh dưỡng tinh thần, nhưng con người còn sống nhờ tha nhân, xã hội, các thể chế chính trị, các đường lối phát triển kinh tế, xã hội… Đã yêu con người thì cần phải quan tâm đến con người cách toàn diện. Thời gian gần đây, Giáo hội đã có nhiều nỗ lực thể hiện sự quan tâm của mình trong các lãnh vực được gọi là trần thế như: lao động, công bình, công ích…, đặc biệt từ sau Công Đồng Vatican II, với các hoạt động của thánh Bộ Công Lý và Hòa Bình. Tuy nhiên chước cám dỗ vẫn còn đó với nhiều Giáo hội địa phương khi mà dường như chuyện trần thế còn được xem như là không phải công việc của mình. Quả thật, không thể nói mình yêu thương nhau khi chúng ta còn hững hờ hay bỏ qua một khía cạnh căn bản nào đó trong đời sống của nhau. Những vấn đề về xã hội đã được Giáo hội lên tiếng hướng dẫn. Nhưng thử hỏi có được bao nhiêu vị trong hàng linh mục, tu sĩ đã đọc Thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII. Gần đây Bộ Công Lý và Hòa Bình đã tổng hợp giáo huấn của Giáo hội về các vấn đề xã hội trong quyển “Compendium of the social doctrine of the Church” xuất bản năm 2004 thì đã được bao nhiêu người nắm được nội dung. Giới linh mục và tu sĩ còn vậy, thế thì anh chị em tín hữu giáo dân sẽ ra sao đây?
Chước cám dỗ về Đức Cậy: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4,7; Lc 4,12). Khi nghe Chúa Giêsu dùng câu trích Lời Chúa trên đây để chống lại ma quỷ thì chúng ta dễ nhận ra trọng tâm của chước cám dỗ là hướng vào Đức trông cậy. Giáo lý Công Giáo dạy rằng có hai tội phạm đến Đức trông cậy: một là tuyệt vọng, thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa và hai là chỉ dựa vào sức mình hoặc quả ỷ lại vào tình thương của Chúa. (x.GLCG chung số 2090-2091).
Bị cám dỗ tuyệt vọng hay thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa thì vẫn có đó, nhưng xét cho cùng chước cám dỗ này tương đối dễ nhận ra. Chẳng biết ma quỷ có thành công nhiều trong chước mưu cám dỗ này đến đâu, tuy nhiên chúng ta thấy trong đoàn con cái Chúa, số người tuyệt vọng không mấy nhiều, nếu xét hình thức bên ngoài. Giả như có ai đó có biểu hiện tuyệt vọng thì bà con đồng đạo sớm nhận ra ngay và dĩ nhiên sẽ động viên giúp đỡ nhau cách này cách khác. Người rơi vào tình trạng này rất dễ nhận được sự cảm thông và lòng thương xót của tha nhân. Chẳng hạn với các trường hợp tự vẫn thì ngày nay người ta đã có thái độ khoan dung hơn nhiều, vì nhờ biết cảm thông hơn.
Sa vào chước cám dỗ chỉ dựa vào sức riêng mình thì tai hại khôn lường. Không riêng người Kitô hữu mà bà con lương dân, anh chị em khác đạo cũng dễ dàng thấy được cái nguy cơ của những người chỉ dựa vào sức mình. Không chỉ bất cần đến sự che chở, phù trì của trời cao, những người chỉ dựa vào sức riêng mình cũng bất cần cả sự giúp đỡ của tha nhân. Những người này thường hứng nhận hậu quả hay quả báo nhãn tiền ngay ở đời này. Chính vì thế chúng ta không quá khó nhận ra chước mưu cám dỗ của quỷ ma.
Trái lại, chước cám dỗ xui khiến chúng ta quả ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa thì thật tinh tế và xảo quyệt. Chước cám dỗ này thường xuất hiện dưới nhiều hình thức bên ngoài với dáng vẻ đạo đức, thành kính, kể cả “cậy trông”! Khi rơi vào chước cám dỗ này, đương sự khó nhận biết và tha nhân cũng khó phát hiện. Ai lại không cảm phục người tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa? Thế nhưng chính khi rơi vào chước cám dỗ này, một cách nào đó chúng ta đã thử thách Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Bắt Thiên Chúa phải làm thay, giao khoán tất cả cho Thiên Chúa bằng việc phủi tay, thoái thác trách nhiệm hoặc bằng cách chỉ biết cầu nguyện, cầu xin mà thôi thì vô tình hay hữu ý chúng ta đã để mình chiều theo chước cám dỗ lỗi đức trông cậy. Có thể xác quyết rằng những người đạo đức theo “truyền thống”, những người vị trọng, chức cao trong Giáo hội rất dễ rơi vào tình trạng này. Và cái nguy hiểm lớn nhất đó là những người đang ở trong chước cám dỗ này lại chẳng biết, chẳng hay. Và rồi người ta có cớ để ẩn mình trong thái độ thụ động, thiếu dấn thân, không dám quên mình, đặc biệt khi công lý đòi hỏi phải được bảo vệ.
Người biết sống Đức Cậy không phải là chỉ biết chuyên chăm cầu nguyện, cầu xin, nhưng còn phải biết tận dụng những hồng ân Chúa ban là các khả năng trí khôn, sức khỏe, thời giờ, tiền bạc…để làm cho Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa trị đến, Ý Chúa được thể hiện… Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ đó là Chúa Giêsu chuyên chăm cầu nguyện, tìm kiếm Thánh Ý Chúa Cha để rồi tích cực thực thi. Điểm đến của việc cầu nguyện là để kết hiệp với Chúa, yêu mến Chúa, nhận biết Thánh ý mà thực thi, dĩ nhiên là trong niềm tin vào tình yêu và ân sủng của Người.
Xin được nhắc lại rằng thái độ chỉ biết cầu nguyện trong sự thụ động khoanh tay cứ để cho mình hoặc mặc cho tha nhân ở lâu trong “tình trạng cheo leo” (khốn khổ, bất công, bị tước đoạt nhân vị cùng với những quyền lợi chính đáng…) rồi ngồi chờ hoặc cách nào đó “bắt” Thiên Chúa phải ra tay can thiệp, chính là một sự nghiêng chiều theo chước cám dỗ lỗi đức Trông Cậy.
Chước cám dỗ về Đức Thờ Phượng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người thôi” (Mt 4,10; Lc 4,8). Mẹ Giáo hội dạy chúng ta: “Hành vi đầu tiên của nhân đức thờ phượng là thờ lạy Thiên Chúa, nghĩa là nhận biết Người là Thiên Chúa, là Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc, là Chúa và là Thầy của mọi loài, là Tình Yêu vô biên và giàu lòng thương xót…Thờ lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối thần phục Người vì nhận biết “tính hư không của thụ tạo”, biết sự hiện hữu của chúng ta, hạnh phúc vĩnh hằng của chúng ta hoàn toàn nằm trong tay Người…Việc thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, giải thoát con người khỏi thái độ khép kín, khỏi nô lệ tội lỗi và sự sùng bái thế giới ngẫu tượng.”(x.GLCG chung số 2096-2097).
Sùng bái các loài thụ tạo, suy tôn các thế lực thụ tạo chính là hành vi lỗi phạm đến đức thờ phượng. Một trong những chước cám dỗ ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu năm xưa cũng như xúi giục Hiền Thê của Người qua mọi thời là tin vào quyền năng của các thế lực thụ tạo. Lịch sử Giáo hội một cách nào đó cho chúng ta thấy ảnh hưởng của chước cám dỗ. Từ năm 313 với sắc chỉ Milan, Giáo hội dường như thấy được sự hữu hiệu của thế lực trần thế nên đã có phần cậy dựa vào nó. Không chỉ cậy dựa mà có khi Giáo hội còn lợi dụng thế quyền cho việc đạo và có khi chính mình hành xử như một thế lực trần tục. Với sự trở lại của Vua Clovis năm 498 khiến cho toàn dân nước Pháp bấy giờ cùng theo đạo thì chước cám dỗ như tăng phần mãnh lực.
Để có hiệu năng, có thành quả lớn trong việc thiêng thánh thì người ta cũng dễ bị cám dỗ thỏa hiệp cách nào đó với các thế lực thụ tạo, và chúng ta đã “sùng bái” thụ tạo cách vô tình mà chẳng hay. Những cuộc thánh chiến, những lần theo đoàn viễn chinh để đi truyền giáo phải chăng không cho thấy sự cậy dựa của chúng ta vào các mãnh lực trần thế này khiến cho Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhiều lần thành khẩn xin lỗi công khai? Nói rằng chúng ta đã suy tôn chúng thì quả là hàm hồ nhưng xem chúng là một trong những động lực chính của sự thành công thì dường như không sai. Chuyện “xì căng đan” của hàng giáo sĩ Hội Thánh Ba Lan trong thời cộng sản đã từng là chuyện thời sự và cũng là bằng chứng về sự hiện hữu của chước cám dỗ tinh vi và độc hại này. Hy vọng rằng bài học đau thương này không tái diễn nơi các giáo hội địa phương khác.
Đến khi không nắm được các thế lực trần gian thì chúng ta lại rơi vào việc tự thần thánh hóa chính mình. Giáo hội là một xã hội hoàn hảo (Societas Perfecta). Cái khái niệm được xem là “tự huyễn hoặc” này đã từng kéo dài cho đến Công Đồng Vatican II. Mình không thể sai lầm, chỉ có mình mới nắm giữ trọn vẹn chân lý cũng là một trong những cách thế đặt mình thành ngẫu tượng. Chước cám dỗ ấy còn len lõi vào trong cung cách sống đạo. Nhiều anh em luơng dân hay bà con khác đạo nghĩ rằng “cứ nói nhiều là sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Nghĩa là khi đã thực hiện đủ một số công thức, kinh kệ nào đó thì thần minh phải thực hiện điều mình muốn. Bắt Thiên Chúa tự động (automatic) thực hiện điều mình quy định hay kiểu thức mình đặt ra đúng là một cám dỗ lỗi đức thờ phuợng tinh tế. Chước cám dỗ kiểu dạng ma thuật vẫn phảng phất đâu đó trong các cử hành bí tích, á bí tích. Nếu không tỉnh táo, cẩn mật đề phòng thì cả đến đấng bậc được xem là có thánh chức cũng sa vào, nhất là với cái nhìn “bí tích học” về tính tại sự (ex opere operato) một cách quá máy móc.
Điều quan trọng là xem xét thánh ý Thiên Chúa. Nếu ỷ lại vào các quy chế do chính chúng ta đặt định để cho rằng mình có quyền ban ân lộc thánh thiêng thì cũng là một cách ngẫu tượng hóa bản thân. Chuyện còn tính thời sự đó là nhiều cuộc tấn phong giám mục tại Trung Quốc dù cho là có “thành sự” (valide) nhưng không “hợp pháp” (licite), dĩ nhiên bị tuyệt thông tiền kết (GL Đ.1382). Đây là tình trạng xấu, thế nhưng chỉ sau một “hiệp ước” giữa Tòa Thánh với Chính quyền dân sự thì tình trạng ấy từ xấu trở thành “tốt ngay”! Thiết nghĩ rằng nếu “dùng đức tin mà bù lại” thì cũng có phần khiên cưỡng cách nào đó. Ngẫu tượng hóa bản thân thì vẫn còn dễ nhận biết, nhưng ngẫu tượng hóa tập thể hay cơ chế thì khó phát hiện. Tôn vinh một cơ chế nào đó, một tập thể nào đó lên hàng muôn năm, lên hàng bất diệt là sa vào chước cám dỗ thờ ngẫu tượng. Chước cám dỗ xưa đã khuất phục tổ tiên chúng ta nay như mãi đeo đẳng con cái loài người, kể cả Hiền Thê Đức Kitô.
Có thể nói Đức thờ phượng là hiện thực hóa Đức Tin. Chân lý nền tảng chúng ta tin nhận đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng Tạo Thành và là Cha của hết mọi người, vì thế chúng ta phải tôn thờ, thần phục và yêu mến chỉ mình Người trên hết mọi sự, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Ngoài Người ra thì không có thần minh nào hết. Thế nhưng trong thực tế nhiều khi chúng ta lại suy tôn nhiều thực thể nhân loại lên hàng thần thánh! Kinh tin kính thời các thánh Tông đồ chỉ rõ ngay đến Giáo hội cũng chỉ là đối tượng của sự tin có chứ không phải là tin kính.
Thế nhưng hình như vẫn có đó việc vô tình hay vô tri, chúng ta vĩnh cửu hóa một phương thế Chúa Giêsu thiết lập vốn mang tình thời gian. Có nhiều đấng bậc cảm thấy bị xúc phạm khi nghe nói đến chước cám dỗ của Hiền thê Chúa Kitô, trong khi đó vẫn thấy bình thường khi nghe đề cập đến các chước cám dỗ của chính Đấng Sáng lập nên Giáo hội. Phải chăng đã có lúc, có khi chúng ta nói về Giáo hội nhiều hơn là nói về Thiên Chúa, nhất là khi chúng ta đón nhận một vị trí, vai trò chủ chăn nào đó? Việc đánh lận con đen cũng là một lỗi nghịch với đức thờ phượng, với đức tin. Chống cha là chống Chúa, nói đụng đến giám mục là chống phá Giáo hội, là xúc phạm đến Thiên Chúa. Những lập luận trên đây không luôn hữu lý mà nhiều khi lỗi đức thờ phượng vì chúng ta vô tình thờ ngẫu tượng mà chẳng hay.
Cơn cám dỗ cuối cùng: Ở đây, không chủ ý nói đến cuốn tiểu thuyết “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” (The last temptation of Christ) của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantkasis. Tuy nhiên, đọc Tin Mừng chúng ta phải chân nhận rằng quảng thời gian Chúa Kitô bị cám dỗ quyết liệt nhất đó là những giờ trong vườn dầu và trên cây thập giá. Có lẽ viễn ảnh khổ giá là một thử thách to lớn đối với Chúa Giêsu. Thế nhưng trong thời gian rao giảng, Người đã thoáng hình dung khổ hình thập giá sẽ chịu. Theo thiển ý, có lẽ điều cám dỗ Chúa Giêsu nặng nề nhất đó là sự thất bại, mất cả chì lẫn cả chài,“xôi hỏng, bỏng tay”. “Êlôi, Êlôi, lamasabacthani ! Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mc 15,34).
Nói đến chước cám dỗ về hiệu năng. Mong nhìn thấy kết quả là chước cám dỗ phổ biến nơi nhiều người, cách riêng với những ai có chút tài và chút tâm. Dẫu biết rằng “thất bại là mẹ thành công” nhưng cũng thật khó lòng đón nhận thất bại cách thanh thản, nhất là khi vì sự thất bại ấy mà ta dường như mất tất cả, nhất là cái thanh danh của mình. Đã làm điều gì đó thì ai cũng mong sẽ thành công, sẽ đạt kết quả. Chính vì thế, ma quỷ khôn ranh cho chúng ta thoáng thấy sự uổng công, sự thua cuộc và cả sự thất bại để rồi chúng ta e ngại, dừng bước, khoanh tay.
Đứng trước tình trạng nhiễu nhương của xã hội hôm nay, tình cảnh chiến tranh loạn lạc của thế giới, nhiều hiện tượng bất ổn trong Giáo hội, đặc biệt liên quan đến hàng giáo sĩ từ cấp nhỏ đến cấp lớn, có đó không ít người có chút tâm và chút tài đã ngần ngại, e dè vì thoáng thấy sự thất bại trước mắt nếu can đảm lội dòng nước ngược. Một con chim én khó có thể và như không thể làm nên mùa xuân. Và số phận của nó chắc gì còn cánh, còn lông! Không chừng còn bị chê bai là thiếu khôn ngoan, là nóng vội, là bốc đồng, là hiếu thắng. Có khi lại bị quy chụp là phản động, là rối đạo. Và khi đã bị thua cuộc thì rất có thể bị dè bỉu rằng nếu nó làm đẹp lòng Chúa thì Chúa phải bênh đỡ nó chứ! (x.Mt 27,39-44).
Đã không thành công lại còn có thể mất thanh danh, mất chức vị, quyền hạn… thì thật là điều khó vượt qua. Dù rằng đã phải khuất phục trước Chúa Kitô, trước các thánh tử đạo… nhưng ma quỷ cũng đã nhiều lần thành công trong chước cám dỗ này với Hiền Thê của Người theo dòng lịch sử. Cơn cám dỗ cuối cùng luôn có đó với từng người chúng ta. Mùa chay thánh lại về, theo lời mời gọi của các vị cha chung của Giáo hội, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI đang nghỉ hưu, và Đức đương nhiệm, Phanxicô, chớ gì ta chuyên chăm ngắm nhìn thập giá mà học biết yêu thương trong sự can đảm chết đi để được phục sinh, can đảm đón nhận sự thất bại để cùng chiến thắng với Người.
Vai trò của người lãnh đạo trong các cuộc chiến:
Trong các cuộc chiến người ta dễ nhận ra quy luật này: “mạnh ở tướng chứ mạnh gì quân”. Đêm Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã từng nói rằng khi chủ chăn bị đánh tơi tả thì đàn chiên sẽ bị tan tác (x.Mt 26,31). Xin mạo muội đề nghị một giải pháp dành riêng cho các mục tử để chiến đấu với thần dữ trước các chước mưu cám dỗ của nó, đó là quy chiếu Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu: Mầu nhiệm Thánh Thể Chúa Kitô.
Nói đến Giao ước chúng ta có thể hiểu cách phổ thông như là một bản ký kết, một bản hợp đồng giữa hai bên tự nguyện chịu trách nhiệm một hay nhiều phận vụ nào đó và dĩ nhiên sẽ được hưởng một hay nhiều quyền lợi kèm theo. Qua bản hợp đồng thì quyết định tự do đầy tinh thần trách nhiệm được cụ thể hóa cách dứt khoát. Và rồi chính bản hợp đồng là căn cứ, là cơ sở để giải quyết những thiếu sót hay những sự tắc trách vì vô tình hay chủ tâm của bên này hay của phía kia. Các hợp đồng dân sự giữa các pháp nhân tư hay pháp nhân công thì đều có tính giới hạn. Chúng có thể bổ sung, thay đổi hay hết hiệu lực vì nhiều lý do như hết thời hạn hoặc một phía hoàn toàn không có khả năng thực hiện hoặc mất tư cách pháp nhân…
Chúa Kitô đã mình nhiên thiết lập Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu bằng chính thịt máu của Người. Đây là một “hợp đồng” có giá trị cho đến khi trời mới đất mới xuất hiện. Giao ước này chính là cuộc chiến thắng chung cuộc của Chúa Kitô trên thần dữ. Một hành vi được viên đầy giá trị ngay chính khi được quyết định cách dứt khoát. Giáo hội tin rằng khi lập Bí tích Thánh Thể trong đêm Tiệc Ly là lúc Chúa Kitô quyết định cách dứt khoát vâng phục thánh Ý Chúa Cha, thể hiện một tình yêu đến cùng là hiến dâng mạng sống vì nhân loại mà hy tế thập giá là điểm đến hay là sự biểu hiện. Chính vì thế mà mỗi lần Bí tích Thánh Thể được cử hành thì Giáo hội nhìn nhận là Hy tế thập giá Chúa Kitô được hiện tại hóa. Chính yếu tố “hiện tại hóa” Hy tế cứu độ của Bí Tích Thánh Thể giúp chúng ta đủ sức trường kỳ chiến đấu với thần dữ mưu ma.
“Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Giáo hội căn cứ những lời trên đây để xác quyết việc Chúa Kitô lập bí tích truyền chức thánh. Không dám mạn bàn về thần học bí tích, tuy nhiên khi nhìn vào nội hàm của lời truyền Đấng Cứu Độ đêm Tiệc Ly thì chỉ có hàng giám mục và linh mục là những người có năng cách thực thi những điều được truyền là cử hành nhiệm tích Thánh Thể mà không có hàng phó tế, dù cũng là thuộc bí tích truyền chức thánh. Xin được bỏ qua vấn đề này để tập chú vào mối liên hệ hữu cơ giữa hàng tư tế thừa tác với Giao ước mới, Giao ước vĩnh cữu. Sự hiện hữu của hàng tư tế thừa tác theo ý Đấng Cứu thế, là để cho Giao ước mới hiện diện và phát huy hiệu quả theo dòng thời gian. Chính các thừa tác viên Thánh Thể là những người thể hiện Giao ước này. Hội Thánh khẳng định chân lý này khi tuyên bố rằng lúc giám mục hay linh mục đọc lời truyền phép là đọc trong tư cách Chúa Kitô (in personna Christi) (Không đọc: “Này là Mình Chúa Kitô” mà đọc “Này là Mình Thầy”…Trước đây dịch: “Này là Mình Ta”).
Nếu lỡ vì lý do nào đó mà các tư tế thừa tác sa chước cám dỗ thì thiển nghĩ rằng không gì hơn hãy trở về với “bản hợp đồng vĩnh cửu” để quy chiếu hầu chỉnh sửa những sai lầm. Chính khi biết hiến dâng trọn xác thân của mình trong tình liên đới với nhân loại tội lỗi (Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em), thì chúng ta đang thể hiện tình yêu mến Thiên Chúa qua sự vâng phục Thánh ý Người là chọn lấy phương thế tuyệt hảo để bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Ai yêu mến Chúa thì thực thi lời người chỉ dạy. “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Nội hàm của “việc này” là noi gương Thầy Chí Thánh nhiệt thành giảng dạy chân lý, gắng công vuông tròn phận vụ người mục tử, và hơn nữa, người tư tế thừa tác cần biết can đảm dùng chính máu thịt của mình để cho tha nhân đón nhận sự sống và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Sống bí tích Thánh Thể là một cách thế biểu lộ lòng mến và sự cậy trông tuyệt hảo.
Mọi sự lành đều bởi Chúa mà ra. Ơn cứu độ là quà tặng hoàn toàn nhưng không. “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30). “Con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha”(Lc 23,46). Giao ước mới minh định rằng những gì chúng ta đang có, đang là, đều do bởi lãnh nhận. Việc Chúa Kitô hiến dâng toàn thân cho Chúa Cha nhắc nhớ cho chúng ta chân lý nền tảng của đức tin để rồi biết cách thế thờ phượng Thiên Chúa cho xứng, cho phải đạo. Mọi sự đều là của Thiên Chúa và phải dâng về cho Thiên Chúa. Giáo hội khẳng định chân lý này khi dạy chúng ta rằng Thánh Lễ là trung tâm của đời sống Kitô hữu và là đỉnh cao của hành vi thờ phuợng.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ: một lời cầu xin mãi luôn mang tính hiện sinh và cảnh tỉnh chúng ta, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Cầu xin là để nhận biết chước cám dỗ để mà xa lánh hay đề phòng, nhất là để biết cách thế chống trả hữu hiệu. Thánh Tông đồ cả Phêrô cảnh giác chúng ta rằng ma quỷ như sử tử gầm gừ rảo quanh chúng ta rình chờ cắn xé (x.1P 5,8). Vấn đề đặt ra đó là rất nhiều khi chính chúng ta không nhận ra tình trạng sa chước cám dỗ của mình. Là Kitô hữu, đặc biệt là những tư tế thừa tác, không gì hơn hãy luôn bám sát “bản hợp đồng” là Giao Ứớc mới, Giao Ước vĩnh cửu để chấn chỉnh, sửa sai và để biết cách thế chống trả chước mưu cám dỗ của thần dữ. Tin rằng một tư tế thừa tác thường xuyên ý thức và sống nội hàm những gì mình cử hành trong hy tế Thánh Thể hằng ngày thì chắc chắn sẽ khó lạc đường, sa chước cám dỗ mà nếu có thì cũng nhanh chóng chỗi dậy và trở về.
Ban Mê Thuột
Ngày 21/02: Việc Người thì Sáng – Việc Mình thì Quáng – Lm. Giuse Phêrô Vũ Hải Đăng, SDD
Giáo Hội Năm Châu
01:52 20/02/2024
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca,
Khi ấy, dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.”
Đó là lời Chúa
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:42 20/02/2024
2. Rước lễ là đường tắt an toàn nhất để lên thiên đàng.
(Thánh Pius X)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:45 20/02/2024
84. TIẾNG VỌNG CÁCH VÁCH
La Thừa Tự khi còn ở Châu Tây, mỗi đêm đều nghe tiếng âm thanh va chạm của nhà hàng xóm kế bên không dứt mãi cho đến trời sáng thì thôi.
La Thừa Tự hiếu kỳ muốn biến rõ là như thế nào, bèn đục một lổ nhỏ nơi bức vách để quan sát, té ra là người hàng xóm vì trời quá lạnh nên hai hàm răng đánh cầm cập !
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 84:
Ở những thành phố và những nơi phố thị người hàng xóm thường dửng dưng với nhau, bởi vì ai cũng sống cho mình, cửa nhà đóng kín mít cả ngày và có khi “chơi” cả một con chó Phú Quốc ngồi ngay trước cổng canh nhà, cho nên tuy nhà sát vách mà không biết đến nhau...
Con người ta vì nhiễm thói ích kỷ của tội nguyên tổ nên luôn trở thành kẻ xa lạ của nhau, thậm chí xa lạ ngay cả trong gia đình của mình.
Con người thời nay chỉ trong nháy mắt là biết được chuyện đang xảy ra trên thế giới, nhưng chuyện xảy ra ngay bên cạnh nhà của mình thì lại không biết, bởi vì con mắt xác thịt thì thích nhìn đến những chuyện trên mây trên gió, tức là thích nhìn những sự việc mà mình chỉ cảm nghiệm qua màn hình, còn con mắt tâm hồn có thể nhìn thâu qua bức tường ích kỷ, ghét ghen, thù hận thì lại bị bịt kín bởi thù hận, ghét ghen và ích kỷ kiêu căng, cho nên không nghe không thấy những mảnh đời tội nghiệp của nhà nghèo bên cạnh nhà mình để giúp đỡ và ủi an...
Người Ki-tô hữu được Đức Chúa Giê-su cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa nên tai mắt tâm hồn của họ rất nhạy bén trước những đau khổ của tha nhân, nhất là người hàng xóm bất hạnh bên cạnh nhà mình.
Thứ tự truyền giáo là như thế này: trước tiên là trong gia đình, thứ đến là hàng xóm, tiếp đến là ngoài đường và cứ thế mà lan rộng ra đến với mọi người...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
La Thừa Tự khi còn ở Châu Tây, mỗi đêm đều nghe tiếng âm thanh va chạm của nhà hàng xóm kế bên không dứt mãi cho đến trời sáng thì thôi.
La Thừa Tự hiếu kỳ muốn biến rõ là như thế nào, bèn đục một lổ nhỏ nơi bức vách để quan sát, té ra là người hàng xóm vì trời quá lạnh nên hai hàm răng đánh cầm cập !
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 84:
Ở những thành phố và những nơi phố thị người hàng xóm thường dửng dưng với nhau, bởi vì ai cũng sống cho mình, cửa nhà đóng kín mít cả ngày và có khi “chơi” cả một con chó Phú Quốc ngồi ngay trước cổng canh nhà, cho nên tuy nhà sát vách mà không biết đến nhau...
Con người ta vì nhiễm thói ích kỷ của tội nguyên tổ nên luôn trở thành kẻ xa lạ của nhau, thậm chí xa lạ ngay cả trong gia đình của mình.
Con người thời nay chỉ trong nháy mắt là biết được chuyện đang xảy ra trên thế giới, nhưng chuyện xảy ra ngay bên cạnh nhà của mình thì lại không biết, bởi vì con mắt xác thịt thì thích nhìn đến những chuyện trên mây trên gió, tức là thích nhìn những sự việc mà mình chỉ cảm nghiệm qua màn hình, còn con mắt tâm hồn có thể nhìn thâu qua bức tường ích kỷ, ghét ghen, thù hận thì lại bị bịt kín bởi thù hận, ghét ghen và ích kỷ kiêu căng, cho nên không nghe không thấy những mảnh đời tội nghiệp của nhà nghèo bên cạnh nhà mình để giúp đỡ và ủi an...
Người Ki-tô hữu được Đức Chúa Giê-su cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa nên tai mắt tâm hồn của họ rất nhạy bén trước những đau khổ của tha nhân, nhất là người hàng xóm bất hạnh bên cạnh nhà mình.
Thứ tự truyền giáo là như thế này: trước tiên là trong gia đình, thứ đến là hàng xóm, tiếp đến là ngoài đường và cứ thế mà lan rộng ra đến với mọi người...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Sống với Thiên Chúa - Nghe Lời Đức Kitô
Lm Phêrô Phan Văn Lợi
16:14 20/02/2024
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY NĂM B : MC 9,2-10
Khi ấy, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.
Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a.” Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi.
Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.
SỐNG VỚI THIÊN CHÚA - NGHE LỜI ĐỨC KI-TÔ
Thánh Mác-cô đã đặt trình thuật Hiển dung của Đức Giê-su trong tương quan với việc Người công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn và giáo huấn cho các môn đệ là phải vác thánh giá theo Người (x. Mc 8,31-38). Việc này đã vấp phải sự không hiểu nơi các ông và khiến họ kinh hoảng. Thái độ ấy của các ông xuất phát từ một quan niệm mang màu sắc chính trị về Đấng Mê-si-a, cũng như từ những mơ ước quá ư trần tục của những kẻ đang mãi chôn chân trong cõi thế gian này. Để giúp họ chịu lắng nghe và chấp nhận những lời khó nuốt của Người cũng như để nâng lòng họ lên cao hơn, hướng về một thế giới siêu việt, Đức Giê-su đã thực hiện trước mắt ba chứng nhân cuộc Hiển dung (Biến hình) sáu ngày sau đó.
1. Sống đời “âm thanh nổi”
Cho tới nay, Tin Mừng vẫn dìm ta trong cuộc sống thông thường nhất. Ở đây trái lại, tất cả đều huyền hoặc. Một Đức Giê-su mặc áo vinh quang trắng tinh, sự tương nhập giữa các thời đại, đám mây thần linh tuyên phán : “Hãy vâng nghe Người”. Và cuối cùng là một chỉ thị của Đức Giê-su dìm các môn đệ vào cơn bối rối, nghĩa là lối nói “từ cõi chết sống lại.” Mỗi lần câu chuyện này trở lại (Chúa nhật Thứ hai Mùa Chay cả ba năm A, B, C), chúng ta lại tự đặt câu hỏi : tất cả những cái đó muốn nói lên điều gì? Chúng ta được đưa vào một thế giới khác. Nơi Mô-sê và Ê-li-a có thể trò chuyện với Đức Giê-su, nơi chúng ta tới gần Cha trên trời, nơi nhắc đến một thực tại diệu kỳ và mầu nhiệm : sự phục sinh.
Cuộc Hiển dung phải chăng là một trang để mơ mộng? Một phụ bản lộng lẫy nằm ngoài rìa thực tế? Không, đó cũng là thực tế của chúng ta, chúng ta thuộc về hai thế giới có thực như nhau. Chúng ta là những kẻ xuyên tường.
“Các anh, những Ki-tô hữu, một người lương từng nhận xét, các anh sống trong âm thanh nổi (stéréo)”. Gần như vậy. Lắng nghe cuộc sống dưới thế này, đôi lúc chúng ta cũng nối mình với những làn sóng khác : Kinh thánh, một sách tu đức, điều Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong một giờ cầu nguyện thinh lặng. Cái khó khăn là hòa hợp các thông tin ấy. Hôm nay chẳng hạn, người ta có thể nghe trình thuật Hiển dung cách khá lơ đãng : nếu thế thì đời ta thay đổi được gì?
Vậy nếu chúng ta có đức tin khá mạnh mẽ để sống mọi chân trời của đời mình, chúng ta sẽ chẳng bao giờ để mình bị khép kín trong cuộc sống trần gian đây. “Chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, để sự sống của Đức Ki-tô cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng ta. Chúng ta sống, nhưng không còn phải là chúng ta, mà là Đức Ki-tô sống trong chúng ta, một đời sống trong trắng, thanh tịnh, đơn sơ và đủ mọi nhân đức. Chúng ta đã sống lại với Đức Ki-tô, nên hãy sống trong Người, hãy tiến lên trong Người, để ở dưới đất này, con rắn không thể cắn vào gót chân chúng ta được nữa. Chúng ta hãy trốn khỏi nơi này. Tinh thần bạn có thể trốn xa, dù thân xác bạn bị cầm giữ. Bạn có thể vừa ở đây vừa ở trước mặt Thiên Chúa, nếu linh hồn bạn vẫn gắn bó cùng Người, nếu trong tâm tưởng, bạn vẫn tiếp bước sau Người, nếu nhờ đức tin, chứ không cần mắt thấy, bạn vẫn đi theo Người, và nếu bạn cứ ẩn thân nơi Người. Người quả là nơi nương náu, là sức mạnh như vua Đa-vít nói : Con ẩn náu nơi Ngài và con không phải thất vọng” (T hánh Ambrôsiô, Khảo luận “Xa tránh thế gian”). Chúng ta sẽ bỏ sự đơn điệu, các lo âu và thậm chí các niềm vui của cuộc sống đời này để lắng nghe tiếng nói của Mô-sê, của Chúa Cha và của Đức Giê-su.
2. Lắng nghe “Đấng duy nhất”
Nhưng dẫu là tiếng của Mô-sê, của Chúa Cha hay của Đức Giê-su, cả ba tiếng nói chỉ là một, cả ba hướng về, cô đọng, hội tụ và nên viên mãn nơi kẻ nhận được tự đám mây lời tuyên phán : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Ý tưởng “độc nhất vô nhị”, “một mình” này được Mác-cô diễn tả bằng nhiều cách; trước hết nơi câu khai mở : “Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình... riêng ra một chỗ”, rồi nơi câu kết thúc trình thuật : “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi”… rồi trong nhiều chi tiết của trình thuật.
Người ta có cảm tưởng đây là một cảnh khai tâm, kết nạp, chỉ dành riêng cho ba kẻ thân tín mà Đức Giê-su cũng sẽ đem theo với mình vào vườn Ghétsêmani. Chỉ thị “giữ im lặng” thường thấy nhưng nay lại nghiêm khắc hơn nữa càng làm tăng bầu khí bí mật này : “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy”. Phải bảo vệ nguyên tuyền một mầu nhiệm mà người ta chỉ có thể tiếp xúc sau một cuộc leo núi vất vả : “Người đem họ... tới một ngọn núi cao”.
Mầu nhiệm được đích thân Thiên Chúa mạc khải : “Con người mà mà các ngươi sống với, nghe tiếng, cảm phục, song lại khiến các ngươi hết sức ngỡ ngàng, đó chính là Con của Ta !” Sự xuất hiện của Ê-li-a và Mô-sê nói lên một điều khác : con người ấy đúng là Đấng được đoan hứa, Đấng được đợi chờ, Điểm đến của tất cả lịch sử. Trước Người, nhiều kẻ đã nói, nhưng Người là Lời chung quyết, độc nhất vô nhị. Chính vì thế Người hoàn toàn nổi bật một mình, duy nhất trên đỉnh cao. Nhưng đồng thời nơi Người cũng có nhiều sự hiện diện. Hướng về Chúa Cha và được Thánh Thần cư ngụ, Người bày tỏ sự sống Ba Ngôi, thế giới của Thiên Chúa. Nơi Người cũng cư ngụ thế giới của Kinh Thánh nữa : “Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ” (Lc 24,27).
Nơi Người rung lên các hy vọng và đau khổ của nhân loài : Người chuẩn bị đi vào biến cố sẽ cứu tất cả họ : cuộc tử nạn-phục sinh của Người. Và nếu nhìn xa hơn, cho đến tận thế, chúng ta sẽ thấy Đức Giê-su xuất hiện “đầy quyền năng” (Mc 9,1) như Lời Thiên Chúa, như Con Người, quy tụ hết thảy chúng sinh trước mặt các thiên thần, khai mạc trời mới và đất mới.
Chiêm ngưỡng Đức Giê-su trong sự viên mãn độc nhất vô nhị như thế, chúng ta sẽ nhận được một mệnh lệnh-lời khuyên mà có lẽ chúng ta đã không thấy là hết sức mạnh mẽ : “Hãy vâng nghe lời Người !” Chỉ thị duy nhất của Chúa Cha mà ta hầu như nhận trực tiếp. Chỉ thị đó có thể quyết định vận mạng của chúng ta.
Khi nghe Đức Giê-su thì chúng ta nghe nhân vật nào? Hãy trở về với cuộc chiêm ngưỡng, hãy ở lại trong cuộc chiêm ngưỡng. Càng thấy Đấng chúng ta nghe, các buổi gặp gỡ của chúng ta càng trở thành niềm vui cũng như càng mở rộng cuộc sống chúng ta.
Một trong những bức họa nổi tiếng nhất của Raphel là bức “Chúa biến hình” (1518-1520) trưng bày trong viện bảo tàng Vatican. Bức họa có ba cấp. Cấp trên cùng là Đức Ki-tô đứng trên cụm mây, có Mô-sê và Ê-li-a chầu hầu. Khuôn mặt và hình dáng Người sáng chói. Ở cấp thứ hai, chúng ta thấy Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đang ngã dụi. Họ thay mặt cho những kẻ trên đường đến với Chúa. Cấp dưới cùng, tô mầu sậm, một nhóm môn đệ và một gia đình vây quanh một thiếu niên bị động kinh (x. Mc 9,14-29). Một môn đệ chỉ tay vào cậu bé bệnh hoạn, một môn đệ khác chỉ thẳng lên Chúa. Thật tương phản giữa sự tối tăm của quang cảnh ảm đạm phía dưới với sự chói sáng của Chúa Giê-su ở trên. Raphel đã muốn qua đó trình bày ý nghĩa của bài Tin Mừng : Đức Ki-tô là Đấng thuộc về hai thế giới và muốn kéo chúng ta lên thế giới sáng láng trên cao; Người cũng là hy vọng duy nhất, là Đấng chữa lành tất cả và muốn chúng ta hãy tin tưởng vào Người.
Khi ấy, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.
Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a.” Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi.
Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.
SỐNG VỚI THIÊN CHÚA - NGHE LỜI ĐỨC KI-TÔ
Thánh Mác-cô đã đặt trình thuật Hiển dung của Đức Giê-su trong tương quan với việc Người công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn và giáo huấn cho các môn đệ là phải vác thánh giá theo Người (x. Mc 8,31-38). Việc này đã vấp phải sự không hiểu nơi các ông và khiến họ kinh hoảng. Thái độ ấy của các ông xuất phát từ một quan niệm mang màu sắc chính trị về Đấng Mê-si-a, cũng như từ những mơ ước quá ư trần tục của những kẻ đang mãi chôn chân trong cõi thế gian này. Để giúp họ chịu lắng nghe và chấp nhận những lời khó nuốt của Người cũng như để nâng lòng họ lên cao hơn, hướng về một thế giới siêu việt, Đức Giê-su đã thực hiện trước mắt ba chứng nhân cuộc Hiển dung (Biến hình) sáu ngày sau đó.
1. Sống đời “âm thanh nổi”
Cho tới nay, Tin Mừng vẫn dìm ta trong cuộc sống thông thường nhất. Ở đây trái lại, tất cả đều huyền hoặc. Một Đức Giê-su mặc áo vinh quang trắng tinh, sự tương nhập giữa các thời đại, đám mây thần linh tuyên phán : “Hãy vâng nghe Người”. Và cuối cùng là một chỉ thị của Đức Giê-su dìm các môn đệ vào cơn bối rối, nghĩa là lối nói “từ cõi chết sống lại.” Mỗi lần câu chuyện này trở lại (Chúa nhật Thứ hai Mùa Chay cả ba năm A, B, C), chúng ta lại tự đặt câu hỏi : tất cả những cái đó muốn nói lên điều gì? Chúng ta được đưa vào một thế giới khác. Nơi Mô-sê và Ê-li-a có thể trò chuyện với Đức Giê-su, nơi chúng ta tới gần Cha trên trời, nơi nhắc đến một thực tại diệu kỳ và mầu nhiệm : sự phục sinh.
Cuộc Hiển dung phải chăng là một trang để mơ mộng? Một phụ bản lộng lẫy nằm ngoài rìa thực tế? Không, đó cũng là thực tế của chúng ta, chúng ta thuộc về hai thế giới có thực như nhau. Chúng ta là những kẻ xuyên tường.
“Các anh, những Ki-tô hữu, một người lương từng nhận xét, các anh sống trong âm thanh nổi (stéréo)”. Gần như vậy. Lắng nghe cuộc sống dưới thế này, đôi lúc chúng ta cũng nối mình với những làn sóng khác : Kinh thánh, một sách tu đức, điều Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong một giờ cầu nguyện thinh lặng. Cái khó khăn là hòa hợp các thông tin ấy. Hôm nay chẳng hạn, người ta có thể nghe trình thuật Hiển dung cách khá lơ đãng : nếu thế thì đời ta thay đổi được gì?
Vậy nếu chúng ta có đức tin khá mạnh mẽ để sống mọi chân trời của đời mình, chúng ta sẽ chẳng bao giờ để mình bị khép kín trong cuộc sống trần gian đây. “Chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, để sự sống của Đức Ki-tô cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng ta. Chúng ta sống, nhưng không còn phải là chúng ta, mà là Đức Ki-tô sống trong chúng ta, một đời sống trong trắng, thanh tịnh, đơn sơ và đủ mọi nhân đức. Chúng ta đã sống lại với Đức Ki-tô, nên hãy sống trong Người, hãy tiến lên trong Người, để ở dưới đất này, con rắn không thể cắn vào gót chân chúng ta được nữa. Chúng ta hãy trốn khỏi nơi này. Tinh thần bạn có thể trốn xa, dù thân xác bạn bị cầm giữ. Bạn có thể vừa ở đây vừa ở trước mặt Thiên Chúa, nếu linh hồn bạn vẫn gắn bó cùng Người, nếu trong tâm tưởng, bạn vẫn tiếp bước sau Người, nếu nhờ đức tin, chứ không cần mắt thấy, bạn vẫn đi theo Người, và nếu bạn cứ ẩn thân nơi Người. Người quả là nơi nương náu, là sức mạnh như vua Đa-vít nói : Con ẩn náu nơi Ngài và con không phải thất vọng” (T hánh Ambrôsiô, Khảo luận “Xa tránh thế gian”). Chúng ta sẽ bỏ sự đơn điệu, các lo âu và thậm chí các niềm vui của cuộc sống đời này để lắng nghe tiếng nói của Mô-sê, của Chúa Cha và của Đức Giê-su.
2. Lắng nghe “Đấng duy nhất”
Nhưng dẫu là tiếng của Mô-sê, của Chúa Cha hay của Đức Giê-su, cả ba tiếng nói chỉ là một, cả ba hướng về, cô đọng, hội tụ và nên viên mãn nơi kẻ nhận được tự đám mây lời tuyên phán : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Ý tưởng “độc nhất vô nhị”, “một mình” này được Mác-cô diễn tả bằng nhiều cách; trước hết nơi câu khai mở : “Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình... riêng ra một chỗ”, rồi nơi câu kết thúc trình thuật : “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi”… rồi trong nhiều chi tiết của trình thuật.
Người ta có cảm tưởng đây là một cảnh khai tâm, kết nạp, chỉ dành riêng cho ba kẻ thân tín mà Đức Giê-su cũng sẽ đem theo với mình vào vườn Ghétsêmani. Chỉ thị “giữ im lặng” thường thấy nhưng nay lại nghiêm khắc hơn nữa càng làm tăng bầu khí bí mật này : “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy”. Phải bảo vệ nguyên tuyền một mầu nhiệm mà người ta chỉ có thể tiếp xúc sau một cuộc leo núi vất vả : “Người đem họ... tới một ngọn núi cao”.
Mầu nhiệm được đích thân Thiên Chúa mạc khải : “Con người mà mà các ngươi sống với, nghe tiếng, cảm phục, song lại khiến các ngươi hết sức ngỡ ngàng, đó chính là Con của Ta !” Sự xuất hiện của Ê-li-a và Mô-sê nói lên một điều khác : con người ấy đúng là Đấng được đoan hứa, Đấng được đợi chờ, Điểm đến của tất cả lịch sử. Trước Người, nhiều kẻ đã nói, nhưng Người là Lời chung quyết, độc nhất vô nhị. Chính vì thế Người hoàn toàn nổi bật một mình, duy nhất trên đỉnh cao. Nhưng đồng thời nơi Người cũng có nhiều sự hiện diện. Hướng về Chúa Cha và được Thánh Thần cư ngụ, Người bày tỏ sự sống Ba Ngôi, thế giới của Thiên Chúa. Nơi Người cũng cư ngụ thế giới của Kinh Thánh nữa : “Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ” (Lc 24,27).
Nơi Người rung lên các hy vọng và đau khổ của nhân loài : Người chuẩn bị đi vào biến cố sẽ cứu tất cả họ : cuộc tử nạn-phục sinh của Người. Và nếu nhìn xa hơn, cho đến tận thế, chúng ta sẽ thấy Đức Giê-su xuất hiện “đầy quyền năng” (Mc 9,1) như Lời Thiên Chúa, như Con Người, quy tụ hết thảy chúng sinh trước mặt các thiên thần, khai mạc trời mới và đất mới.
Chiêm ngưỡng Đức Giê-su trong sự viên mãn độc nhất vô nhị như thế, chúng ta sẽ nhận được một mệnh lệnh-lời khuyên mà có lẽ chúng ta đã không thấy là hết sức mạnh mẽ : “Hãy vâng nghe lời Người !” Chỉ thị duy nhất của Chúa Cha mà ta hầu như nhận trực tiếp. Chỉ thị đó có thể quyết định vận mạng của chúng ta.
Khi nghe Đức Giê-su thì chúng ta nghe nhân vật nào? Hãy trở về với cuộc chiêm ngưỡng, hãy ở lại trong cuộc chiêm ngưỡng. Càng thấy Đấng chúng ta nghe, các buổi gặp gỡ của chúng ta càng trở thành niềm vui cũng như càng mở rộng cuộc sống chúng ta.
Một trong những bức họa nổi tiếng nhất của Raphel là bức “Chúa biến hình” (1518-1520) trưng bày trong viện bảo tàng Vatican. Bức họa có ba cấp. Cấp trên cùng là Đức Ki-tô đứng trên cụm mây, có Mô-sê và Ê-li-a chầu hầu. Khuôn mặt và hình dáng Người sáng chói. Ở cấp thứ hai, chúng ta thấy Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đang ngã dụi. Họ thay mặt cho những kẻ trên đường đến với Chúa. Cấp dưới cùng, tô mầu sậm, một nhóm môn đệ và một gia đình vây quanh một thiếu niên bị động kinh (x. Mc 9,14-29). Một môn đệ chỉ tay vào cậu bé bệnh hoạn, một môn đệ khác chỉ thẳng lên Chúa. Thật tương phản giữa sự tối tăm của quang cảnh ảm đạm phía dưới với sự chói sáng của Chúa Giê-su ở trên. Raphel đã muốn qua đó trình bày ý nghĩa của bài Tin Mừng : Đức Ki-tô là Đấng thuộc về hai thế giới và muốn kéo chúng ta lên thế giới sáng láng trên cao; Người cũng là hy vọng duy nhất, là Đấng chữa lành tất cả và muốn chúng ta hãy tin tưởng vào Người.
Ngạc nhiên với những gì thân quen
Lm. Minh Anh
16:16 20/02/2024
NGẠC NHIÊN VỚI NHỮNG GÌ THÂN QUEN
“Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này!”.
Gordon Lester nói, “Quen thuộc và gần gũi không giống nhau! “Quen thuộc” là điều không thể tránh; dẫu không thấy, nhưng nó xảy ra gần như thường tình. “Gần gũi” thì khó cảm nhận hơn; nó phải được tìm kiếm, mở ra và đáp trả. “Quen thuộc” luôn luôn có; “gần gũi” thì phải tìm, hiểu biết và cảm kích cá nhân. Nó đòi hỏi một sự ‘ngạc nhiên với những gì thân quen!’”.
Kính thưa Anh Chị em,
Ý tưởng cần có một sự ‘ngạc nhiên với những gì thân quen’ được gặp lại qua Lời Chúa hôm nay. Thật thú vị, cả hai bài đọc liên kết với nhau qua một nhân vật khá độc đáo, Giôna! Giôna kêu gọi Ninivê tái khám phá Thiên Chúa; Chúa Giêsu cũng chỉ làm ngần ấy với người đương thời.
Với Chúa Giêsu, bao phép lạ, giáo huấn và sự thánh thiện của Ngài là điều không ai phủ nhận; ấy thế, một số người vẫn không hài lòng, họ đòi thêm dấu lạ. Cũng thế, bạn và tôi thường dễ rơi vào thái độ tương tự! Thay vì đánh giá cao sự giàu có được bảo tồn trong Hội Thánh, không ít người vẫn chạy theo những dấu lạ bất thường. Các Mối Phúc, các phép lạ trong Tin Mừng, kể cả việc người chết sống lại… nghe có vẻ nhàm; đang khi những mặc khải tư, chuyện linh hồn hiện về… lại thu hút nhiều người. Mùa Chay, thời điểm bạn và tôi quay lại với những gì căn bản, tập ‘ngạc nhiên với những gì thân quen’, tập “gần gũi lại, mở ra và đáp trả” tiếng Chúa trong Thánh Kinh, trong Thánh Lễ, trong chuỗi hạt… như thể lần đầu!
Thật ra, sự hiện diện của Chúa Kitô trong hành tinh này đã là một dấu lạ vĩ đại; nhưng khi nói về Giôna, Ngài nói đến dấu lạ ‘tử nạn và phục sinh’ của Ngài. Trên thực tế, không dấu lạ nào vĩ đại hơn dấu lạ này, và việc cử hành mầu nhiệm Phục Sinh là cao trào thực sự mà Mùa Chay hướng đến. Mùa Chay, mùa ‘ngạc nhiên với những gì thân quen’; ngạc nhiên với cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta, các tội nhân. “Lạy Thiên Chúa, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê!” - Thánh Vịnh đáp ca; nhưng thông thường, chúng ta là những tội nhân chểnh mảng. Vì thế, để “gần gũi” lại với Chúa, bạn phải “kiếm tìm”. Hãy nghe một người ‘từng trở lại’ tâm sự, “Đừng trì hoãn trở về, vì ngày mai có thể sẽ không bao giờ đến! Chúa hứa thứ tha nếu bạn quay lại; nhưng Ngài không hứa, bạn sẽ có ngày mai để có một cơ hội!” - Augustinô.
Anh Chị em,
“Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này!”. ‘Dấu lạ Giêsu’, lớn hơn ‘dấu lạ Giôna’ bội phần! Dấu lạ này đã xảy ra cách đây hơn 2.000 năm và vẫn xảy ra hằng ngày trên các bàn thờ. Hãy tái khám phá ‘dấu lạ Giêsu’ trong mỗi Thánh Lễ, từng trang Phúc Âm; khám phá Ngài trong từng con người thân quen dưới một mái nhà; khám phá trong mỗi phút giây chúng ta hít thở… Hãy “tìm kiếm, mở ra và đáp trả” trước huyền nhiệm Thiên Chúa, huyền nhiệm Giêsu trong các Bí tích, trong những con người thân quen! Đó không phải là những gì quá “quen thuộc”, hoặc xa xôi, nhưng thật “gần gũi”, thân ái mà chúng ta tái khám phá từng ngày hầu có thể ngạc nhiên. Đừng đợi thêm dấu lạ nào nữa!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con hời hợt với những gì quen thuộc, hờ hững với những gì gần gũi. Cho con biết nhìn mọi sự, mọi người với đôi mắt ngạc nhiên của trẻ thơ!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này!”.
Gordon Lester nói, “Quen thuộc và gần gũi không giống nhau! “Quen thuộc” là điều không thể tránh; dẫu không thấy, nhưng nó xảy ra gần như thường tình. “Gần gũi” thì khó cảm nhận hơn; nó phải được tìm kiếm, mở ra và đáp trả. “Quen thuộc” luôn luôn có; “gần gũi” thì phải tìm, hiểu biết và cảm kích cá nhân. Nó đòi hỏi một sự ‘ngạc nhiên với những gì thân quen!’”.
Kính thưa Anh Chị em,
Ý tưởng cần có một sự ‘ngạc nhiên với những gì thân quen’ được gặp lại qua Lời Chúa hôm nay. Thật thú vị, cả hai bài đọc liên kết với nhau qua một nhân vật khá độc đáo, Giôna! Giôna kêu gọi Ninivê tái khám phá Thiên Chúa; Chúa Giêsu cũng chỉ làm ngần ấy với người đương thời.
Với Chúa Giêsu, bao phép lạ, giáo huấn và sự thánh thiện của Ngài là điều không ai phủ nhận; ấy thế, một số người vẫn không hài lòng, họ đòi thêm dấu lạ. Cũng thế, bạn và tôi thường dễ rơi vào thái độ tương tự! Thay vì đánh giá cao sự giàu có được bảo tồn trong Hội Thánh, không ít người vẫn chạy theo những dấu lạ bất thường. Các Mối Phúc, các phép lạ trong Tin Mừng, kể cả việc người chết sống lại… nghe có vẻ nhàm; đang khi những mặc khải tư, chuyện linh hồn hiện về… lại thu hút nhiều người. Mùa Chay, thời điểm bạn và tôi quay lại với những gì căn bản, tập ‘ngạc nhiên với những gì thân quen’, tập “gần gũi lại, mở ra và đáp trả” tiếng Chúa trong Thánh Kinh, trong Thánh Lễ, trong chuỗi hạt… như thể lần đầu!
Thật ra, sự hiện diện của Chúa Kitô trong hành tinh này đã là một dấu lạ vĩ đại; nhưng khi nói về Giôna, Ngài nói đến dấu lạ ‘tử nạn và phục sinh’ của Ngài. Trên thực tế, không dấu lạ nào vĩ đại hơn dấu lạ này, và việc cử hành mầu nhiệm Phục Sinh là cao trào thực sự mà Mùa Chay hướng đến. Mùa Chay, mùa ‘ngạc nhiên với những gì thân quen’; ngạc nhiên với cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta, các tội nhân. “Lạy Thiên Chúa, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê!” - Thánh Vịnh đáp ca; nhưng thông thường, chúng ta là những tội nhân chểnh mảng. Vì thế, để “gần gũi” lại với Chúa, bạn phải “kiếm tìm”. Hãy nghe một người ‘từng trở lại’ tâm sự, “Đừng trì hoãn trở về, vì ngày mai có thể sẽ không bao giờ đến! Chúa hứa thứ tha nếu bạn quay lại; nhưng Ngài không hứa, bạn sẽ có ngày mai để có một cơ hội!” - Augustinô.
Anh Chị em,
“Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này!”. ‘Dấu lạ Giêsu’, lớn hơn ‘dấu lạ Giôna’ bội phần! Dấu lạ này đã xảy ra cách đây hơn 2.000 năm và vẫn xảy ra hằng ngày trên các bàn thờ. Hãy tái khám phá ‘dấu lạ Giêsu’ trong mỗi Thánh Lễ, từng trang Phúc Âm; khám phá Ngài trong từng con người thân quen dưới một mái nhà; khám phá trong mỗi phút giây chúng ta hít thở… Hãy “tìm kiếm, mở ra và đáp trả” trước huyền nhiệm Thiên Chúa, huyền nhiệm Giêsu trong các Bí tích, trong những con người thân quen! Đó không phải là những gì quá “quen thuộc”, hoặc xa xôi, nhưng thật “gần gũi”, thân ái mà chúng ta tái khám phá từng ngày hầu có thể ngạc nhiên. Đừng đợi thêm dấu lạ nào nữa!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con hời hợt với những gì quen thuộc, hờ hững với những gì gần gũi. Cho con biết nhìn mọi sự, mọi người với đôi mắt ngạc nhiên của trẻ thơ!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
TÌNH DỤC THÁNH THIÊNG
Vũ Văn An
16:11 20/02/2024
Trên First Thing, ngày 15 tháng 2 năm 2024, W. Bradford Wilcox và Wendy Wang (*) có bài tiểu luận sau đây, viết theo cuốn sách Get Married: Why American Must Defy the Elites, Forge Strong Families và Save Civilization mới phát hành của Brad Wilcox.
“Nhà xã hội học tôn giáo về người Thệ phản, phim khiêu dâm và 'Khu liên hợp công nghiệp thanh khiết'" – đó là tiêu đề của một cuộc phỏng vấn gần đây trên tờ New Yorker, trong đó Isaac Chotiner đã hỏi nhà xã hội học Samuel Perry về mối liên hệ giữa tôn giáo, nội dung khiêu dâm và hôn nhân giữa những người theo Thệ phản. Bạn có thể đoán được đức tin Kitô giáo đã xuất hiện như thế nào trên phương tiện truyền thông chính thống này. Không tốt lắm.
Cuộc phỏng vấn của tờ New Yorker để lại cho người đọc một ấn tượng rõ ràng rằng tất cả chỉ vì đạo đức tình dục Kitô giáo cổ xưa cấm nội dung khiêu dâm, nên đàn ông và cộng đồng Kitô giáo đầy rẫy “trầm cảm”, “bất hạnh” và hôn nhân tan vỡ.
Tờ New Yorker chế nhạo những cuốn sách, các nhóm nhỏ và các công ty phần mềm được thiết kế để giúp những người theo Thệ phản tránh phim khiêu dâm—điều mà Perry gọi là “tổ hợp công nghiệp thuần khiết”. Perry cho rằng những người đàn ông theo Kitô giáo đang phải chịu đựng "sự bất hòa về nhận thức" giữa niềm tin của họ rằng tình dục là thánh thiêng—và được hiểu là chỉ được chia sẻ với vợ bạn—và mong muốn tham gia vào các hành vi trái ngược với niềm tin này, như xem nội dung khiêu dâm chẳng hạn. Theo lời ông, những người đàn ông theo Kitô gío phải chịu gánh nặng đặc biệt nặng nề từ cảm giác xấu hổ ngày càng tăng về phim khiêu dâm. Như Perry—tác giả của cuốn sách Addicted to Lust: Pornography in the Lives of Conservative Protestants [Nghiện nhục dục: Nội dung khiêu dâm trong cuộc sống của những người theo đạo Thệ phản bảo thủ]—nói rằng, những người đàn ông theo Kitô giáo sử dụng phim khiêu dâm bị khốn khổ bởi “mặc cảm tội lỗi và sự xấu hổ khiến bạn cảm thấy tồi tệ về bản thân” và những phụ nữ Thệ phản “vẽ ra một đường vạch cứng rắn” chống lại việc chồng họ sử dụng phim khiêu dâm vì họ coi đó là “sự ngoại tình, sự phản bội hoặc sự trụy lạc theo nghĩa đen”. Điều này khiến những người vợ Kitô giáo “có khả năng ly dị chồng cao gấp đôi vì anh ta xem tài liệu khiêu dâm”. Ngược lại, bài báo trên tờ New Yorker này cho thấy, những người đàn ông thế tục ít có xác suất chịu bất cứ mặc cảm tội lỗi hoặc các vấn đề về mối quan hệ nào do sử dụng phim khiêu dâm.
Bài báo này—và nhiều bài tương tự trên các phương tiện truyền thông chính thống—tạo cho công chúng ấn tượng rằng đức tin đóng một vai trò độc hại trong cuộc sống của những gia đình bình thường. Nhưng bức chân dung này có tính lừa đảo.
Sự thật là đức tin nói chung dường như là một động lực tốt khi nói đến chất lượng và sự ổn định của cuộc sống hôn nhân, sự hài lòng của đàn ông và phụ nữ với cuộc sống của họ và phúc lợi của con cái. Nghiên cứu cho chúng ta biết rằng những người đàn ông và phụ nữ Mỹ thường xuyên đến nhà thờ sẽ hạnh phúc hơn đáng kể trong cuộc hôn nhân của họ, ít có nguy cơ ly hôn hơn và hài lòng hơn với cuộc sống của mình. Thí dụ, dữ liệu cho chúng ta biết rằng những người thường xuyên đi nhà thờ có nguy cơ ly hôn thấp hơn khoảng 30% đến 50% so với những người Mỹ không đi nhà thờ. Quả là quá đáng khi tờ New Yorker nói bóng gió cho rằng đức tin là một sức mạnh gây bất ổn trong hôn nhân ngày nay.
Nhưng còn một trong những lĩnh vực quan trọng và gây tranh cãi nhất trong nền văn hóa của chúng ta: Niềm tin tôn giáo lớn hơn có liên quan đến tình dục tốt hơn hay tồi tệ hơn?
Rất nhiều tiếng nói trong nền văn hóa của chúng ta sẽ cho rằng câu trả lời là “tệ hơn”. Thí dụ, trong Addicted to Lust [Nghiện Nhục Dục], Perry giới thiệu với chúng ta hai người đàn ông Georgia khoảng ba mươi tuổi, một trong số họ là người theo Kitô giáo và một người thì không, cả hai đều xem phim khiêu dâm hàng tuần.
Perry miêu tả David bị hành khổ, suy sụp và vô cùng bất hạnh vì sử dụng thường xuyên. Người đàn ông da trắng đã có gia đình này cảm thấy “như một kẻ thất bại” và một “kẻ đạo đức giả khủng khiếp”. Việc anh không thể thành thật với vợ về thói quen xem phim của mình đã “đánh cắp sự thân mật” trong cuộc hôn nhân của anh và anh “cảm thấy thất vọng vì không thể loại bỏ hoàn toàn nội dung khiêu dâm khỏi cuộc sống của mình”.
Ngược lại, Nick không “nghĩ rằng có gì sai trái về mặt đạo đức” khi xem nội dung khiêu dâm. Anh ta tiêu thụ những thứ mà anh ta “coi là khá bình thường, một điều hợp tiêu chuẩn” và cảm thấy thoải mái với việc sử dụng thường xuyên cũng như với mối quan hệ lãng mạn kéo dài sáu năm của mình. Mặc dù anh ấy thừa nhận rằng có thể có “tác dụng phụ” từ việc xem phim khiêu dâm, bao gồm cả xu hướng tưởng tượng “về những người phụ nữ khác ngoài bạn tình của tôi”, nhưng anh ấy dường như không bị ảnh hưởng đặc biệt bởi việc sử dụng phim khiêu dâm. Mặc dù thừa nhận một số nhược điểm, Nick không bao giờ tỏ ra bị tê liệt vì sử dụng nội dung khiêu dâm, không giống như đồng nghiệp Peach Stater David.
Trong câu chuyện tháp ngà này, bạn biết người đàn ông nào là “Kitô hữu” trước khi bạn được cho biết là David. Trên thực tế, các cách xử lý mang tính học thuật và truyền thông về tôn giáo và các mối quan hệ, như cách này, thường bóng gió nói rằng các chuẩn mực bảo thủ của Kitô giáo về tình dục có ảnh hưởng độc hại đến cuộc sống và các mối quan hệ của người bình thường.
Chúng ta được hướng dẫn để tin rằng những quan điểm tôn giáo về tình dục đã khiến quá nhiều người đàn ông và cuộc hôn nhân của họ bị tê liệt. Nick, chúng ta được cho biết, “cảm thấy rằng tôn giáo có tác dụng phản tác dụng; nó kìm hãm ham muốn tình dục và sau đó khiến những người thất vọng thực hiện hành vi tình dục” bằng cách xem phim khiêu dâm, cùng với những hành động khác. Và, theo Perry, “sự không phù hợp liên tục về mặt đạo đức” của việc thường xuyên sử dụng phim khiêu dâm, “cùng với sự che đậy và lừa dối mang theo,” dẫn đến “các hậu quả tiêu cực đối với sức khỏe tinh thần và thậm chí cả đức tin của những người theo Thệ phản bảo thủ.” Những người gác cổng văn hóa của chúng ta nghĩ rằng đức tin ngăn cản đàn ông và phụ nữ tận hưởng thành quả của nửa thế kỷ giải phóng tình dục.
Nhưng đối với tất cả những David ngoài kia, còn có rất nhiều người đàn ông như Martin (tên đã được thay đổi vì quyền riêng tư). Martin, một người chồng và người cha theo Kitô giáo da đen sống ở ngoại ô Washington, D.C., không sử dụng nội dung khiêu dâm, phần lớn là vì đức tin giúp anh tránh xa nó. Ngay cả khi lên mạng, xem các trang tin tức và âm nhạc yêu thích, anh ấy vẫn cẩn thận. “Ý tôi là đó là một trong những điều mà bạn biết Kinh thánh nói rất rõ ràng về việc chạy trốn khỏi cám dỗ,” anh ấy nói với chúng tôi và nói thêm, “Vì vậy, vâng... một số trang web nhất định tôi sẽ không vào xem.” Hơn nữa, Martin thận trọng lướt qua các trang hip-hop và Instagram yêu thích của mình, cẩn thận “tiếp tục cuộn” qua các video về “những người phụ nữ ăn mặc thiếu vải” xuất hiện thường xuyên.
Sự cẩn thận khi Martin sử dụng internet là biểu tượng cho cách những người chồng sùng đạo thường tiếp cận những cám dỗ ảo. Theo Khảo sát Tình trạng Liên minh của Chúng ta năm 2022, những người đàn ông đã lập gia đình có tôn giáo ít sử dụng nội dung khiêu dâm hơn rõ rệt so với những người đồng lứa thế tục của họ. Chỉ có 35% người chồng theo đạo đã xem nội dung khiêu dâm trong tháng vừa qua, so với 62% người đàn ông đã lập gia đình hiếm khi hoặc không bao giờ tham gia các nghi lễ tôn giáo. Một phân tích khác của Khảo sát xã hội chung cho thấy phần lớn đàn ông theo Thệ phản đi nhà thờ không sử dụng nội dung khiêu dâm trong năm ngoái; ngược lại, phần lớn nam giới không thường xuyên đi nhà thờ đều sử dụng phim khiêu dâm.
Sự quan tâm so sánh của những người theo đạo đối với tình dục vượt ra ngoài thế giới ảo đến thế giới thực. Martin cho biết rằng việc “bước đi với đức tin” đã giúp anh tránh được những tình huống “có thể khiến tôi rơi vào tình huống nguy hiểm”. Chẳng hạn, sau khi kết hôn, Martin và vợ Kimberly (tên đã được thay đổi vì quyền riêng tư) “đã nói về những rào cản” để điều hướng các mối quan hệ với những người khác giới. Điều này bao gồm việc tránh xa việc duy trì mối quan hệ với mối tình cũ hoặc đi “đi uống rượu ban đêm với ai đó” ngoài vợ/chồng của bạn, Kimberly nói với tôi.
Niềm tin của Martin và Kimberly cũng là động lực tích cực trong việc hướng dẫn mối quan hệ tình dục của họ. Theo cô, họ đã cùng nhau cầu nguyện về mối quan hệ tình dục của mình và đức tin của họ thúc đẩy các cuộc thảo luận về “nhu cầu chung của họ, cho dù đó là tình dục hay cảm xúc hay bất cứ điều gì”. Khi nói đến tình dục, cô ấy nói thêm, “Chúng tôi thường xuyên trò chuyện về chủ đề 'Được rồi, vậy bao lâu một lần?' hoặc 'tại sao không thường xuyên?' hoặc... ‘Bạn có thấy thỏa mãn không, chẳng hạn như [bạn đang ở đâu]?’” xét về khía cạnh thể lý của mối quan hệ.
Tình dục là một vấn đề đặc biệt nhạy cảm đối với Kimberly, người từng bị lạm dụng tình dục trước đó trong đời. Hoàn cảnh của cô ban đầu khiến cô gặp khó khăn trong việc thân mật tình dục với Martin. Đức tin của cô đã giúp cô vượt qua những vết thương tinh thần mà cô phải gánh chịu do bị lạm dụng và cho cô sức mạnh để giải quyết vấn đề tình dục mà “chúng tôi đang gặp phải, đặc biệt là vào thời điểm mới bắt đầu cuộc hôn nhân của chúng tôi”.
Kimberly và Martin không đơn độc. Bởi vì các vấn đề tình dục—từ ngoại tình đến nội dung khiêu dâm đến sở thích tình dục lệch lạc—là nguyên nhân chính gây ra ly hôn và xung đột hôn nhân, nên những cách mà đức tin trực tiếp củng cố lòng chung thủy, giao tiếp cởi mở và lòng rộng lượng có thể rất quan trọng trong việc thiết lập giai đoạn tình cảm và xã hội cho một mối quan hệ bền chặt. và đảm bảo mối quan hệ thể lý. Thí dụ, những người vợ trong các cuộc hôn nhân tôn giáo có nhiều xác suất tường trình rằng “hầu hết” hoặc “chắc chắn” đúng là chồng họ rất thông cảm khi họ không muốn quan hệ tình dục, so với những cặp vợ chồng không có chung một đức tin; tương tự như vậy, những người chồng trong các cuộc hôn nhân tôn giáo có nhiều xác suất tường trình rằng vợ họ đáp ứng với họ khi họ khởi diễn quan hệ tình dục, so với những người đàn ông trong những cuộc hôn nhân không có đức tin.
Điều này có thể giúp giải thích tại sao các cặp đôi đi nhà thờ lại quan hệ tình dục nhiều hơn các cặp đôi không theo tôn giáo. Cụ thể, khoảng 2/3 số cặp vợ chồng tham dự các buổi lễ tôn giáo cùng nhau có quan hệ tình dục ít nhất một lần một tuần, so với chưa đến một nửa số người không thường xuyên tham dự cùng nhau hoặc không tham dự cùng nhau.
Các cặp vợ chồng tham dự các nghi lễ tôn giáo cùng nhau cũng cho biết họ có mức độ hài lòng về tình dục cao nhất. Khoảng 3/4 số người chồng và người vợ này rất hạnh phúc với mối quan hệ tình dục của mình; ngược lại, những người không thường xuyên tham dự cùng nhau hoặc ít khi tham dự có xác suất ít hạnh phúc hơn rõ rệt. Chắc chắn là câu chuyện của David cho chúng ta thấy rằng không có loại thuốc thần kỳ tôn giáo nào có thể giúp tình dục trở nên tốt đẹp. Nhưng có quá nhiều mô tả mang tính học thuật, truyền thông và văn hóa đại chúng—chẳng hạn như những bài đăng vui nhộn của Saturday Night Live về “The Church Lady” vào những năm 1980 và 1990—về mối quan hệ giữa tôn giáo và tình dục đã che khuất sự thật xã hội học quan trọng này: đối với hầu hết các cặp vợ chồng, nhiều đức tin hơn đồng nghĩa với tình dục tốt hơn.
Lần tới khi bạn gặp một bài báo hoặc video trên các phương tiện truyền thông chính thống mổ xẻ đức tin và gia đình, hãy nhớ điều này: Đối với hầu hết đàn ông và phụ nữ, phú cho tình dục, chưa kể đến hôn nhân, một cảm thức thánh thiêng không dẫn đến trầm cảm và tòa án ly hôn mà dẫn đến sự kết hợp bền chặt và thỏa mãn – bên ngoài và bên trong phòng ngủ.
____________________________________
(*) Brad Wilcox, giáo sư xã hội học và giám đốc Dự án Hôn nhân Quốc gia tại Đại học Virginia.
Wendy Wang là giám đốc nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Gia đình.
Hy Lạp trở thành quốc gia Kitô giáo chính thống đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới
Đặng Tự Do
16:47 20/02/2024
Hy Lạp đã trở thành quốc gia Chính thống giáo đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới sau khi quốc hội Athens thông qua cuộc cải cách mang tính bước ngoặt trong bối cảnh cả nước vừa hân hoan vừa giận dữ.
Trong một sự thể hiện sự đồng thuận hiếm hoi của quốc hội, 176 nghị sĩ từ khắp các phe phái khác nhau đã bỏ phiếu ủng hộ dự luật vào hôm thứ Năm. 76 người khác phản đối dự luật trong khi hai người bỏ phiếu trắng và 46 người không có mặt.
Cuộc bỏ phiếu diễn ra sau hai ngày tranh luận sôi nổi - và nhiều tuần công khai chỉ trích – dự luật được những người ủng hộ mô tả là “táo bạo” và “đã quá hạn lâu” và bị các đối thủ bao gồm cả Giáo Hội Chính thống chỉ trích là “phản xã hội” và “phản Kitô giáo”.
Mặc dù phải đối mặt với sự phản đối dữ dội từ nội bộ đảng Dân chủ Mới trung hữu của mình, thủ tướng Kyriakos Mitsotakis vẫn ủng hộ dự luật, nói rằng nó sẽ chấm dứt “sự bất bình đẳng nghiêm trọng đối với nền dân chủ của chúng ta”.
Trong một bài phát biểu đầy nhiệt huyết trước cuộc bỏ phiếu, nhà lãnh đạo 55 tuổi, thuộc phe tự do trong đảng của ông, cho biết biện pháp này sẽ gắn kết Hy Lạp với 36 quốc gia trên toàn cầu đã ban hành luật về vấn đề này. Ông cho rằng chủ nghĩa bảo thủ không nên bị nhầm lẫn với những quan điểm lạc hậu, không đồng bộ với xã hội hiện đại.
Mitsotakis nói: “Cuộc cải cách mà chúng tôi đang lập pháp ngày hôm nay… sẽ làm cho cuộc sống của một số đồng bào của chúng tôi trở nên tốt đẹp hơn nhiều mà không lấy đi bất cứ thứ gì khỏi cuộc sống của nhiều người,” Mitsotakis nói và nói thêm rằng luật sẽ mang lại đầy đủ quyền lợi cho họ. quyền của cha mẹ đối với các cặp đồng giới.
“Chúng tôi đang lấp đầy khoảng trống bằng cách cho phép mọi người, nếu họ muốn, gắn kết mối quan hệ của họ về mặt thể chế giống như các cặp đôi dị tính vẫn làm.”
Nhưng sự phản kháng đã rất mạnh mẽ từ các nghị sĩ Đảng Dân chủ Mới.
Cựu thủ tướng Antonis Samaras đã nói với quốc hội trước đó vào thứ Năm rằng hôn nhân đồng giới không phải là nhân quyền và luật “nguy hiểm” đáng lẽ không nên được đưa ra.
Nếu không có sự hậu thuẫn của Syriza, đảng cánh tả đối lập chính do Stefanos Kasselakis, nhà lãnh đạo chính trị đồng tính đầu tiên của Hy Lạp lãnh đạo, và các nhóm nhỏ khác, dự luật có lẽ không thể được thông qua.
Source:The Guardian
Cựu Tư lệnh quân đội Ý được bổ nhiệm làm Giám đốc Cơ sở hạ tầng và Dịch vụ tại Vatican
Đặng Tự Do
16:50 20/02/2024
Cho đến tháng 2 hai năm trước, Tướng Salvatore Farina là Tham mưu trưởng Quân đội Ý và thậm chí trước đó là tư lệnh NATO ở Hà Lan và Kosovo. Hiện ông đã nghỉ hưu và giảng dạy về gìn giữ hòa bình và chuyển đổi xung đột tại Đại học Latêranô.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã triệu ông đến Vatican và bổ nhiệm ông làm Giám đốc Tổng cục Cơ sở hạ tầng và Dịch vụ của Chính quyền, thực tế là tất cả các quyết định tổ chức của các dịch vụ kỹ thuật bao gồm việc xây dựng, phòng thí nghiệm, người bán hoa, xe máy và việc chăm sóc các khu vườn ở Vatican - tất nhiên bao gồm cả các hợp đồng, phải được thông qua bàn của anh ta. Đương nhiên, Farina cũng sẽ phải chuẩn bị cho Năm Thánh và do đó sẽ là người đối thoại có giá trị đối với Nhà nước Ý.
Farina, người gốc Gallipoli, nơi ông sinh năm 1957, là một chuyên gia quân sự thường được phỏng vấn về các kịch bản chiến tranh. Chương trình giảng dạy của ông phản ánh một cuộc đời binh nghiệp rực rỡ. Ông có ba bằng thạc sĩ - về kỹ thuật điện, khoa học chiến lược, khoa học quốc tế và ngoại giao - và bằng thạc sĩ cấp hai về “quản lý tài nguyên quốc phòng” tại Viện Quốc phòng Hoa Kỳ ở Monterey, California.
Tại Vatican, việc bổ nhiệm ông đã gây ra nhiều sự tò mò cũng bởi vì vị tướng này chưa chính thức được giao nhiệm vụ giám sát bất cứ điều gì liên quan đến an ninh hoặc viễn thông. Ông thay thế linh mục Rafael García de la Serrana Villalobos, thuộc Giáo hạt Opus Dei, người vừa rời chức vụ này.
Luật mua sắm mới được Đức Giáo Hoàng cập nhật vào Tháng Giêng quy định rằng chính Giám đốc Tổng cục Cơ sở hạ tầng và Dịch vụ là người chỉ định tên của các nhân viên thuộc Văn phòng Dự án sẽ được ghi danh vào Danh sách cụ thể của các nhà thiết kế. Nó cũng sẽ cho phép đơn giản hóa hơn nữa các thủ tục mua sắm. Văn bản, bao gồm 86 điều khoản, cũng bảo đảm, “việc tối ưu hóa các hoạt động mua sắm mang tính chức năng để những người và chính quyền liên quan có thể hoạt động dễ dàng”. Trong bối cảnh này, các biện pháp kiểm soát ghi danh hoạt động kinh tế trong Sổ ghi danh cũng đã được cập nhật, đơn giản hóa thủ tục xác minh.
Source:ilmessaggero.it
Đức Hồng Y Gerhard Müller nhận định: Tuyên ngôn Fiducia Supplicans có vấn đề về giáo lý
J.B. Đặng Minh An dịch
16:51 20/02/2024
Đức Hồng Y Gerhard Müller, nguyên tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin vừa có bài viết nhan đề “Does Fiducia Supplicans Affirm Heresy?”, nghĩa là “Fiducia Supplicans có xác nhận dị giáo không?”
Tuyên bố gần đây của Vatican Fiducia Supplicans có chứa đựng những giáo lý trái ngược với đức tin thiêng liêng và Công Giáo không? Bộ Giáo lý Đức tin đã trả lời câu hỏi này trong một thông cáo báo chí phát hành vào ngày 4 Tháng Giêng, nhằm đáp lại mối quan tâm của nhiều vị giám mục và nhiều Hội đồng Giám mục. Thông cáo báo chí bảo vệ tính chính thống của Fiducia Supplicans bằng cách trích dẫn nó, lập luận rằng Tuyên ngôn này không hề thay đổi giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về hôn nhân và tình dục và không nêu bất cứ điều gì là dị giáo. Thông cáo báo chí lập luận rằng Fiducia Supplicans không quan tâm đến vấn đề giáo lý mà chỉ quan tâm đến các vấn đề thực tế và đơn giản là nó cần được điều chỉnh cho phù hợp với các bối cảnh và mức độ nhạy cảm khác nhau.
Nhưng thực ra có đơn giản như vậy không? Trên thực tế, lời chỉ trích từ các giám mục không hề cho rằng Tuyên ngôn phủ nhận thẳng thừng giáo huấn của Giáo hội về hôn nhân và tính dục. Đúng hơn, các ngài chỉ trích rằng việc cho phép chúc lành cho các cặp quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, đặc biệt là các cặp đồng giới, là phủ nhận giáo huấn Công Giáo trên thực tế, nếu không muốn nói là bằng lời nói. Lời chỉ trích dựa trên một nguyên tắc truyền thống vững chắc: lex orandi, lex credendi— đó là nguyên tắc cho rằng cách Giáo hội cầu nguyện phản ánh những gì Giáo hội tin tưởng. Như Sách Giáo lý dạy: “Khi Giáo hội cử hành các bí tích, Giáo hội tuyên xưng đức tin đã nhận được từ các thánh tông đồ”.
Trên thực tế, có những thực hành Công Giáo không thể thay đổi nếu không bác bỏ giáo lý Công Giáo. Chẳng hạn, hãy nghĩ đến điều mà Công đồng Trentô gọi là bản chất của các bí tích, nghĩa là những yếu tố của các bí tích đã được chính Chúa Kitô thiết lập. Một sự thay đổi ảnh hưởng đến bản chất này, ngay cả khi đó là một sự thay đổi trên thực tế, sẽ là một sự bác bỏ giáo lý Công Giáo. Ví dụ, nếu ai đó một mặt khẳng định giáo huấn Công Giáo về phép rửa tội, nhưng mặt khác lại chấp nhận Bí tích Thánh Thể dành cho những người chưa được rửa tội, thì người đó, trên thực tế, đang bác bỏ giáo huấn Công Giáo. Thánh Thomas nói rằng những mâu thuẫn như vậy đã tạo ra “sự giả dối trong các dấu chỉ bí tích”.
Như thế, câu hỏi đặt ra là liệu việc chấp nhận các “phép lành” “mục vụ” và phi phụng vụ do Fiducia Supplicans đề xuất cho các cặp vợ chồng trong những hoàn cảnh trái luật có cấu thành việc phủ nhận giáo lý Công Giáo hay không – có thể không phải bằng sự phủ nhận rõ ràng, mà là trong thực tế. Thông cáo báo chí do Bộ Giáo Lý Đức Tin đưa ra KHÔNG đá động gì đến câu hỏi này. Vì vậy cần phải kiểm tra nó một cách chi tiết.
Trước hết, chúng ta phải xem xét sự khác biệt giữa các phép lành phụng vụ và các phép lành mục vụ thuần túy, vì Fiducia Supplicans dựa vào sự phân biệt này. Fiducia Supplicans lập luận rằng những “phép lành mục vụ” mới này dành cho các cặp vợ chồng trong những hoàn cảnh trái luật không phải là phụng vụ. Giờ đây, sự phân biệt giữa các phước lành này là một điều mới lạ mà Fiducia Supplicans giới thiệu, điều này không hề có cơ sở dù là nhỏ nhất trong Kinh thánh, trong các giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng, hoặc Huấn quyền. Fiducia Supplicans tuyên bố rằng “các phép lành mục vụ” không mang tính phụng vụ. Tuy nhiên, chúng có cấu trúc phụng vụ, theo ví dụ được đưa ra trong thông cáo báo chí của Bộ Giáo Lý Đức Tin (một lời cầu nguyện kèm theo dấu thánh giá). Và trong mọi trường hợp, phụng vụ trong Kitô giáo không được đo lường, như trong các tôn giáo khác, bằng đồ vật, lễ phục hoặc bàn thờ. Việc chính một linh mục, đại diện cho Chúa Kitô, là người ban “phước lành mục vụ” này khiến nó trở thành một hành vi phụng vụ trong đó thẩm quyền của Chúa Kitô và Giáo hội đang bị đe dọa. Công đồng Vatican II nhấn mạnh đến mối liên kết không thể tách rời giữa mọi hành động của linh mục và phụng vụ (xem Presbyterorum ordernis).
Hơn nữa, mọi phép lành, dù long trọng hay không, đều bao hàm sự tán thành điều được chúc phúc. Đây là điều mà truyền thống lâu dài của Giáo Hội, dựa trên Kinh Thánh, đã dạy. Trên thực tế, từ Hy Lạp được sử dụng trong Tân Ước để chỉ “phước lành” là eulogein, giống như từ benedicere trong tiếng Latinh, có nghĩa đen là “nói rằng điều gì đó là tốt”. Hơn nữa, trong Kinh thánh, chúc phúc cho một điều gì đó không chỉ là tuyên bố nó tốt, mà còn nói rằng nó tốt vì nó đến từ Đấng Tạo Hóa. Những lời chúc phúc được gửi đến sự sáng tạo của Thiên Chúa, điều mà Ngài thấy là rất tốt đẹp, để chính Thiên Chúa có thể làm cho nó trưởng thành và viên mãn. Vì lý do này, không thể cầu xin phép lành cho các mối quan hệ hoặc tình huống có tính chất mâu thuẫn hoặc bác bỏ trật tự của tạo vật, chẳng hạn như sự kết hợp dựa trên thực hành đồng tính luyến ái, mà Thánh Phaolô coi là hậu quả của việc phủ nhận kế hoạch của Đấng Tạo Hóa (Rôma 1:21–27). ). Nhu cầu này phải hài hòa với trật tự tạo dựng, áp dụng cho mọi loại phép lành, bất kể tính chất long trọng hay không của nó.
Chúng ta nên lưu ý rằng Bộ Giáo Lý Đức Tin ngầm thừa nhận rằng những phước lành này (bao gồm cả những phước lành mục vụ) chấp thuận những gì đang được ban phước. Đó là lý do tại sao thông cáo báo chí phải chịu khó phân biệt đâu là lời chúc đôi lứa và đâu là lời chúc cho sự kết hiệp. Nếu đúng là những phép lành mục vụ này không hợp pháp hóa bất cứ điều gì, thì sẽ không có vấn đề trong việc chúc lành mục vụ cho sự kết hợp. Nỗ lực của Bộ Giáo Lý Đức Tin nhằm làm sáng tỏ rằng sự kết hợp không hề được chúc phúc, đã bộc lộ rằng Bộ Giáo Lý Đức Tin coi “phép lành mục vụ” là một sự chấp thuận, và do đó phải nhấn mạnh rằng chính cặp vợ chồng chứ không phải sự kết hợp mới được chúc phúc.
Thành ra, vì không thể phân biệt giữa các phép lành phụng vụ và mục vụ, người ta phải kết luận rằng Fiducia Supplicans có vấn đề về mặt giáo lý, bất kể Tuyên ngôn này khẳng định giáo lý Công Giáo bằng ngôn từ đến mức nào. Vì vậy, không thể nói rằng vấn đề chỉ mang tính thực tiễn và tùy thuộc vào sự nhạy cảm của các vùng miền khác nhau. Chúng ta đang đề cập đến một vấn đề liên quan đến cả luật tự nhiên lẫn sự khẳng định của Phúc âm về sự thánh thiêng của thân xác, và những vấn đề này ở Malawi không khác gì ở Đức.
Nhưng Bộ Giáo Lý Đức Tin cũng đã sử dụng hai điểm khác biệt nữa để tránh thừa nhận rằng Fiducia Supplicans ngụ ý chấp thuận các kết hợp đồng tính luyến ái. Sự phân biệt đầu tiên là giữa lời chúc cho sự kết hợp và lời chúc phúc cho đôi lứa. Sự phân biệt này có thể thực hiện được không? Không, thật vậy, nếu người ta chúc phúc cho một cặp đôi như một cặp vợ chồng, nghĩa là được hợp nhất bằng một mối quan hệ tình dục khác ngoài hôn nhân, thì người ta chấp nhận sự kết hợp đó, vì chính sự kết hợp đó đã tạo nên họ như một cặp vợ chồng. Sẽ là một vấn đề khác nếu cặp đôi được chúc phúc không phải với tư cách là một cặp đồng tính, mà chẳng hạn như một cặp khách hành hương đến gần một đền thờ. Nhưng đây không phải là ý của Fiducia Supplicans, và đó là lý do tại sao Tuyên ngôn này nói đến việc chúc phúc cho các cặp vợ chồng trong tình trạng bất hợp lệ, kể cả các cặp đồng giới.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét sự phân biệt thứ hai: Có thể cho rằng điều được chúc phúc không phải là một cặp đôi được hợp nhất bởi mối quan hệ tình dục, mà là một cặp đôi được hợp nhất bởi các khía cạnh khác của cuộc sống, chẳng hạn, qua sự giúp đỡ họ dành cho nhau trong quá trình làm việc, hay qua một căn bệnh, có thể nói như thế không? Sự phân biệt này không làm thay đổi sự thật rằng cặp đôi được chúc phúc như một cặp vợ chồng được kết hợp với nhau bằng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Vì điều tiếp tục cấu thành nên cặp đôi chính là mối quan hệ tình dục gắn kết họ. Các khía cạnh khác của cuộc sống vợ chồng của họ không phải là những gì tạo nên họ như một cặp vợ chồng, và tất cả những khía cạnh này cũng không thành công trong việc cải thiện lối sống tình dục khiến họ trở thành một cặp vợ chồng hợp luật, như Phản hồi năm 2021 của Bộ Giáo lý Đức tin đã khẳng định.
Khi Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, thảo luận về cách ban những phép lành này, ngài ngụ ý rằng vấn đề không phải là chúc phúc cho cặp đôi. Chẳng hạn, ngài gợi ý rằng nên làm dấu thánh giá cho mỗi người, chứ không phải cho cặp đôi. Tuy nhiên, Đức Hồng Y không muốn làm rõ rằng cặp vợ chồng không thể được chúc phúc, và tiếp tục chấp nhận những dấu chỉ – chẳng hạn như lời cầu nguyện chung cho hai người – là những dấu hiệu mang lại tính hợp pháp dưới mắt Giáo hội cho sự tồn tại của cặp vợ chồng như một điều tốt cho những con người trong kết hiệp ấy. Đức Hồng Y cũng đã từ chối lên án một số cử hành nhất định, chẳng hạn như phước lành mà Cha James Martin đã đưa ra một cách công khai, trong đó có nội dung rõ ràng gửi đến cặp đôi.
Gần đây, chúng ta nhận thấy một sự thay đổi ngữ nghĩa mới trong các giải thích chính thức của Fiducia Supplicans. Họ không còn nói đến việc chúc lành cho “các cặp vợ chồng” mà là cho “các cá nhân”, thêm vào đó là về những người “ở bên nhau”. Giờ đây, chúc phúc cho hai người đến với nhau chính vì mối quan hệ đồng giới đã gắn kết họ không khác gì chúc phúc cho sự kết hợp. Cho dù người ta có nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần rằng người ta không chúc phúc cho sự kết hợp, thì đó chính xác là điều người ta đang làm, bởi chính tính khách quan của nghi thức đang được thực hiện.
Sau khi xác định rằng vấn đề cơ bản mang tính giáo lý, chúng ta nên mô tả lỗi lầm của Fiducia Supplicans như thế nào? Đây có phải là dị giáo không?
Hãy xem xét giáo huấn cổ điển về các đối tượng khác nhau của giáo huấn - huấn quyền và việc tín hữu tuân theo các giáo huấn đó. Học thuyết này được chứa đựng trong tự sắc “Ad tuendam Fidem” hay “Để bảo vệ đức tin” của Đức Gioan Phaolô II, trong đó trình bày ba “đoạn” Tuyên xưng Đức tin được thực hiện khi đảm nhận các chức vụ khác nhau trong giáo hội. Đoạn đầu tiên đề cập đến những chân lý chứa đựng trong mặc khải; việc phủ nhận những sự thật này cấu thành tà giáo. Đoạn thứ hai đề cập đến những sự thật, mặc dù không có trong mặc khải, nhưng có liên quan mật thiết với mặc khải và cần thiết cho việc bảo tồn kho tàng được tiết lộ. Đây là những sự thật mà, vì mối liên hệ lịch sử hoặc hợp lý của chúng với những sự thật được mặc khải, nên phải được chấp nhận và giữ vững một cách chắc chắn và dứt khoát. Những người phủ nhận những sự thật như vậy là đi ngược lại giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, ngay cả khi bản thân những khẳng định của họ không thể bị coi là dị giáo. Đoạn thứ ba của lời tuyên xưng đức tin đề cập đến những chân lý được Huấn quyền thông thường dạy, phù hợp với tâm trí và ý chí tôn giáo.
Làm thế nào điều này áp dụng cho trường hợp của chúng ta? Lời khẳng định rằng các hành vi đồng tính luyến ái trái với luật Chúa là một sự thật được mặc khải; phủ nhận nó sẽ vi phạm đoạn đầu tiên của Tuyên xưng Đức tin và sẽ là dị giáo. Sự từ chối này không được tìm thấy ở Fiducia Supplicans. Việc chấp nhận lời chúc phúc hôn nhân cho các cặp đồng giới cũng là điều dị giáo. Điều này cũng không được tìm thấy trong Fiducia Supplicans. Vì vậy, Fiducia Supplicans dường như không vi phạm đoạn đầu tiên. Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể phân loại lời khẳng định của Tuyên ngôn này rằng sự kết hợp tình dục ngoài hôn nhân có thể được ban một thứ phước lành ngoài hôn nhân? Ngay cả khi người ta lập luận rằng lời khẳng định này không bị bác bỏ một cách rõ ràng trong mạc khải, thì lời khẳng định này ít nhất vi phạm đoạn thứ hai của Tuyên xưng Đức tin, vì, như chúng ta đã thấy, ban phước cho những người này như những cặp đồng giới là chấp thuận sự kết hợp của họ, ngay cả khi sự kết hiệp ấy không được coi là hôn nhân. Do đó, đây là một học thuyết trái ngược với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, vì việc chấp nhận nó, ngay cả khi không trực tiếp là dị giáo, một cách hợp lý cũng dẫn đến dị giáo.
Vì tất cả những lý do này, Fiducia Supplicans phải được coi là có vấn đề về mặt giáo lý, vì nó chứa đựng sự phủ nhận giáo lý Công Giáo. Vì lý do này, Tuyên ngôn này cũng có vấn đề xét theo quan điểm mục vụ. Thật vậy, một mục tử tốt lành tiếp cận mọi người đang gặp khó khăn với tư cách là thầy dạy các giới răn của Chúa, khuyên họ cầu nguyện với Chúa, và, trong trường hợp phạm tội nặng, dẫn họ đến việc ăn năn, xưng tội và đổi mới cuộc sống nhờ sự tha thứ qua Bí tích Giải tội. Điều ngài sẽ không bao giờ làm trong việc chăm sóc mục vụ cho người Công Giáo trong các mối quan hệ tình dục bất thường là đưa ra những so sánh giữa phép lành của Thiên Chúa dành cho hôn nhân giữa người nam và người nữ và cái gọi là phép lành ngoài phụng vụ dành cho những người có mối quan hệ tội lỗi. Trong trường hợp hai người sống trong một hoàn cảnh bất hợp lệ, có lý do mục vụ nào để chúc phúc cho những người đó cùng nhau chứ không phải với tư cách cá nhân? Tại sao những người này lại muốn được chúc phúc cùng nhau, nếu không phải vì họ muốn được Chúa chấp thuận cho sự kết hợp của họ? Do đó, chúc phúc cho họ cùng nhau có nghĩa là chấp nhận tội lỗi của họ và khiến họ xa lánh Thiên Chúa.
Nguyên tắc tất cả chúng ta đều là tội nhân và do đó không thể phân biệt giữa các tội nhân với những người khác cũng không phù hợp với một mục tử tốt lành. Kinh Thánh phân biệt các loại tội lỗi, như chúng ta đọc trong Tin Mừng Gioan: “Mọi hành vi sai trái đều là tội lỗi, nhưng có tội không đến nỗi chết người” (1 Gioan 5:17). Giáo huấn của Giáo hội, dựa trên Kinh thánh, phân biệt giữa tội nhẹ (không nhất thiết đòi hỏi sự xá tội để được tha) và tội trọng đòi phải nhận được ơn xá giải. Giáo Hội cũng phân biệt những tội lỗi công khai với những tội lỗi không công khai, cũng như phân biệt những tội nhân sẵn sàng ăn năn với những tội nhân ngoan cố là những người cố chấp trong tội lỗi của mình. Những sự khác biệt này rất quan trọng, không phải để đánh giá con người mà để giúp họ chữa lành. Tương tự như vậy, một bác sĩ giỏi cần đưa ra những chẩn đoán khác nhau cho những trường hợp khác nhau, vì không phải mọi căn bệnh đều có thể được điều trị theo cùng một cách.
Tóm lại, chừng nào Bộ Giáo Lý Đức Tin vẫn tiếp tục không sửa lỗi Fiducia Supplicans bằng cách làm rõ rằng không thể ban phước lành cho cặp đôi mà chỉ có thể cho từng cá nhân, thì Bộ Giáo Lý Đức Tin đang chấp thuận những tuyên bố trái ngược với ít nhất đoạn thứ hai của Lời tuyên xưng đức tin. —nghĩa là, nó chấp nhận những tuyên bố trái ngược với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, những giáo huấn mà bản thân chúng không mang tính dị giáo nhưng tất yếu sẽ dẫn đến dị giáo. Điều này có nghĩa là các phép lành mục vụ dành cho các cuộc kết hợp bất thường này không thể được các tín hữu Công Giáo chấp nhận, và đặc biệt là những người, khi đảm nhận một chức vụ trong giáo hội, đã tuyên xưng đức tin và đưa ra lời thề trung thành, trong đó trước hết đòi hỏi phải bảo tồn toàn bộ kho tàng đức tin.
Việc từ chối chấp nhận Fiducia Supplicans, có thể được bày tỏ công khai trong chừng mực liên quan đến lợi ích chung của Giáo hội. Việc từ chối như vậy không hàm ý bất kỳ sự thiếu tôn trọng nào đối với Đức Thánh Cha, là người đã ký văn bản Fiducia Supplicans; nhưng ngược lại. Vì việc phục vụ Đức Thánh Cha là do ngài thực hiện chính xác trong chừng mực ngài là người bảo đảm cho tính liên tục của tín lý Công Giáo, và việc phục vụ này được vinh danh chủ yếu bằng cách vạch trần những khiếm khuyết nghiêm trọng của Fiducia Supplicans.
Tóm lại, việc thi hành Huấn quyền không thể chỉ giới hạn ở việc cung cấp thông tin chính xác về mặt giáo lý về “sự thật của Tin Mừng” (Gal. 2:14). Thánh Phaolô công khai và không ngần ngại phản đối việc Phêrô, anh trai ngài thực thi quyền tối thượng một cách mơ hồ trong hoạt động tông đồ, bởi vì Phêrô, qua hành vi sai lầm của mình, đã gây nguy hiểm cho đức tin chân chính và ơn cứu rỗi của các tín hữu, không phải là nguy hiểm cho đức tin được các tín hữu tuyên xưng, nhưng liên quan đến việc thực hành đời sống Kitô giáo.
Source:First Things
Đại sứ quán Israel phản đối sau khi Vatican tố cáo cuộc tàn sát ở Gaza
Đặng Tự Do
16:53 20/02/2024
Israel đã phản đối Vatican sau khi Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh xác định những gì đang xảy ra ở Gaza là “cuộc tàn sát” do phản ứng quân sự không cân xứng của Israel đối với Hamas.
“Đó là một tuyên bố đáng trách. Đánh giá tính hợp pháp của một cuộc chiến mà không tính đến tất cả các hoàn cảnh và dữ liệu liên quan chắc chắn sẽ dẫn đến kết luận sai lầm”, đại sứ quán Israel tại Tòa thánh cho biết trong một tuyên bố.
Một ngày trước đó, Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Pietro Parolin đã nhắc lại “yêu cầu rằng quyền phòng thủ của Israel, vốn được viện dẫn để biện minh cho hoạt động này, phải tương xứng, và chắc chắn với 30.000 người chết thì không phải vậy”.
“Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều phẫn nộ trước những gì đang xảy ra, bởi cuộc tàn sát này, nhưng chúng ta phải có can đảm để tiến về phía trước và không mất hy vọng”, Đức Hồng Y Parolin nói và nói thêm rằng “chúng ta phải tìm những cách khác để giải quyết vấn đề Gaza, vấn đề quyền sống của Palestine.”
Một bài xã luận hôm thứ Tư trên tờ báo chính thức của Vatican, tờ Quan Sát Viên Rôma, đã củng cố thông điệp này.
“Không ai có thể định nghĩa những gì đang xảy ra ở Dải Gaza là 'thiệt hại không thể tránh khỏi ' trong cuộc chiến chống khủng bố. Quyền tự vệ, và quyền của Israel đưa thủ phạm của vụ thảm sát tháng 10 ra trước công lý, không thể biện minh cho cuộc tàn sát này”, tuyên bố viết.
Ít nhất 1.200 người Israel đã thiệt mạng và khoảng 250 người bị bắt làm con tin trong cuộc đột kích của phiến quân Hamas vào miền nam Israel vào ngày 7/10, khiến Israel phải trả đũa. Bộ Y tế Gaza cho biết hôm thứ Tư rằng ít nhất 28.576 người Palestine đã thiệt mạng trong các cuộc tấn công của Israel.
Lưu ý rằng Hamas sử dụng bệnh viện và trường học làm lá chắn, đồng thời gợi ý rằng phần lớn người dân Gaza “tích cực” ủng hộ nhóm này, đại sứ quán Israel khẳng định Hamas phải chịu mọi trách nhiệm về cái chết và sự tàn phá ở vùng đất Palestine.
Đức Thánh Cha, người đã đưa ra nhiều lời cầu xin hòa bình ở Trung Đông và các nơi khác, đã phải đối mặt với những lời chỉ trích trước đây từ các nhóm Do Thái về quan điểm của Vatican trong cuộc xung đột Israel-Gaza.
Vào tháng 11, một cuộc tranh cãi đã nổ ra về việc liệu Đức Phanxicô có dùng từ “diệt chủng” để mô tả các sự kiện ở Gaza hay không, với những người Palestine đã gặp ngài khẳng định rằng ngài làm vậy, còn Vatican nói rằng ngài không làm vậy.
Source:Reuters
Các giám mục Công Giáo ở Mễ Tây Cơ cho biết các ngài đã đàm phán để có được hiệp định hòa bình với các thủ lĩnh băng đảng ma túy
Đặng Tự Do
16:54 20/02/2024
Bốn giám mục Công Giáo Rôma đã gặp các ông trùm băng đảng ma túy Mễ Tây Cơ trong nỗ lực đàm phán một hiệp định hòa bình có thể có, một trong các giám mục cho biết, và Tổng thống Andrés Manuel López Obrador cho biết hôm thứ Năm rằng ông chấp thuận các cuộc đàm phán như vậy.
Tiết lộ của Giám mục Chilpancingo-Chilapa, José de Jesús González Hernández, trong nhận xét khi xuất hiện trước công chúng, minh họa mức độ mà chính sách không đối đầu với các băng đảng của chính phủ đã khiến những người dân bình thường phải tự mình thực hiện các thỏa thuận hòa bình riêng với các băng nhóm.
López Obrador thừa nhận đây không phải là lần đầu tiên các nhà lãnh đạo giáo hội tổ chức những buổi nói chuyện như vậy và họ đã từng làm như vậy trước đây ở bang lân cận Michoacan và các bang khác.
“Các linh mục, mục sư và thành viên của tất cả các giáo hội đã tham gia, giúp đỡ trong việc bình định đất nước. Tôi nghĩ điều đó rất tốt”, López Obrador nói một ngày sau khi sự tồn tại của các cuộc đàm phán được tiết lộ.
Ông cho biết các cuộc đàm phán như vậy đã được tổ chức ở bang lân cận Michoacan và ở những nơi khác ở Mễ Tây Cơ. “Giáo Hội làm điều đó, tôi có thể bảo đảm điều này, ở Michoacán, và họ làm điều đó ở những nơi khác.”
López Obrador nói rằng mặc dù ông không gặp vấn đề gì với các cuộc đàm phán, nhưng ông sẽ không chấp thuận “bất kỳ thỏa thuận nào có nghĩa là cấp quyền miễn trừ, đặc quyền hoặc giấy phép để ăn cướp”.
Đức Cha González Hernández cho biết điều đó thật quan trọng đối với các linh mục quản xứ có thị trấn ở Michoacan đã bị thống trị bởi băng đảng này hay băng đảng khác trong nhiều năm. Vị linh mục không thể nêu tên vì lý do an ninh cho biết: “Đó là một sự thừa nhận ngầm rằng chính phủ không thể cung cấp các điều kiện an toàn”.
Vị Giám Mục nói: “Chắc chắn, chúng tôi phải nói chuyện với một số người, nhất là khi nói đến sự an toàn của mọi người, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi đồng ý với điều đó”. Chẳng hạn, ngài cho biết, người dân địa phương đã yêu cầu ngài hỏi các ông trùm băng đảng về số phận của những người thân mất tích.
Nhiều người dân Mễ Tây Cơ bình thường đã âm thầm đồng ý trả tiền bảo vệ cho các tập đoàn ma túy vì sợ bị tấn công hoặc nhà cửa hoặc cơ sở kinh doanh của họ bị đốt cháy. Nhà thờ cũng phải chịu đựng - các linh mục cũng bị các băng đảng giết hại - nhưng một số thủ lĩnh băng đảng đã nói chuyện với các thủ lĩnh Giáo Hội.
Vị giám mục cho biết các cuộc đàm phán gần đây nhất đã thất bại vì các băng đảng ma túy không muốn ngừng tranh giành lãnh thổ ở bang Guerrero ven biển Thái Bình Dương. Những trận chiến đó đã làm tê liệt hệ thống giao thông vận tải và dẫn đến hàng chục vụ giết người trong những tháng gần đây.
Đức Cha González Hernández nói về cuộc đàm phán được tổ chức vài tuần trước: “Họ yêu cầu đình chiến nhưng có điều kiện. “Nhưng những điều kiện này không được một trong những người tham gia đồng ý.”
Khi được các phóng viên địa phương hỏi những điều kiện đó là gì, vị giám mục trả lời “các lãnh thổ”.
Các tập đoàn và băng đảng ma túy ở Mễ Tây Cơ không chỉ bán hoặc buôn lậu ma túy; họ moi tiền từ hầu hết mọi ngành nghề kinh doanh trong lãnh thổ mà họ kiểm soát.
Theo chính sách “vòng tay ôm chứ không phải súng đạn” của López Obrador, chính phủ đã tránh đối đầu trực tiếp với các tập đoàn, cho phép họ về cơ bản kiểm soát hàng chục thành phố cỡ trung bình trở lên, nơi giá của hầu hết các sản phẩm đều cao hơn vì chúng bao gồm một thứ ' thuế' do các thủ lĩnh băng đảng áp đặt.
Giám mục đã nghỉ hưu Salvador Rangel, nhà lãnh đạo giáo phận này cho đến năm 2022, nói với hãng tin AP rằng ông đã được những người có mặt ở đó thông báo về các cuộc đàm phán.
Ngài không xác định được băng nhóm nào đã tham gia, nhưng có ít nhất hàng chục băng đảng như vậy đang tranh giành quyền kiểm soát các khu vực khác nhau ở bang Guerrero, nơi có khu nghỉ dưỡng Acapulco, ven biển Thái Bình Dương.
Đức Cha Rangel khẳng định cuộc đàm phán thất bại vì các băng đảng “không muốn nhượng bộ bất cứ điều gì”.
Tuy nhiên, ngài bảo vệ các cuộc đàm phán. Trong thời gian phục vụ với tư cách là giám mục, trước đây ông đã nói chuyện cởi mở về việc gặp gỡ các thủ lĩnh băng đảng để theo đuổi hòa bình. Ngài nói: “Tôi nghĩ rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm đạt được hòa bình và hòa hợp đều có giá trị”.
Đức Cha González Hernández cho rằng đường lối này ít nhất đã được Đức Thánh Cha Phanxicô ngầm chấp thuận trong cuộc họp với các giám mục năm ngoái.
Một phát ngôn viên của Vatican đã không trả lời ngay lập tức khi được hỏi về nhận xét của vị giám mục. Vatican hiếm khi bình luận về những buổi tiếp kiến riêng của Đức Giáo Hoàng.
Điều đó nói lên rằng, quan điểm được vị giám mục đưa ra phù hợp với xu hướng của Đức Phanxicô là chiều theo ý kiến chuyên môn của các giám mục tại chỗ, và niềm tin mạnh mẽ của ngài vào sự cần thiết phải đối thoại bằng mọi giá.
Chẳng hạn, Đức Phanxicô thường xuyên được hỏi về việc ngài có sẵn sàng cử một phái viên đến Mạc Tư Khoa để cố gắng đàm phán với Điện Cẩm Linh hay không. Trong khi Đức Phanxicô nói rằng bạn “không bao giờ nên đối thoại với ma quỷ”, ngài nhấn mạnh rằng trong các vấn đề chiến tranh và hòa bình trên thế giới thực, đối thoại với kẻ xâm lược là cách duy nhất để tìm ra con đường hòa bình, “ngay cả khi nó bốc mùi hôi thối”.
Rõ ràng, đó không phải là một vai trò mà Giáo Hội ưa thích. Như vị Giám Mục đã lưu ý, “chúng tôi sẽ không phải làm điều này nếu chính phủ thực hiện đúng công việc của mình”.
Source:AP
Tin Giáo Hội Việt Nam
Khai mạc Chợ Xuân bên Mẹ 2024_ CđCg Gp San Jose
Thái K Phạm
01:35 20/02/2024
Thánh Lễ Xuân Giáp Thìn 2024_Gx Đức Mẹ La Vang, Tp Fresno, California
Magarita Nguyễn Phương Lan
01:46 20/02/2024
Thánh lễ Mừng Năm Mới _ Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang thành phố Fresno thuộc tiểu bang California
Xem Hình
“ Ngày đầu xuân, con dâng lên Thiên Chúa trí tôn.
Lời cảm mến, chúc khen Cha chí lành. “
Cùng hòa chung niềm vui với cả dân tộc Việt Nam đón mừng Xuân Giáp Thìn 2024. Vào lúc 11g sáng Chúa Nhật ngày 18 tháng 2 năm 2024 tức mùng 9 tết Nguyên Đán, Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang thành phố Fresno thuộc tiểu bang California dâng Thánh lễ Mừng Năm Mới. Đặt biệt năm nay có Đức Giám Mục Giáo phận Joseph V. Brennan chủ tế, Cha Chánh Xứ Giuse Victor Đinh Toàn cùng với Thầy Phó tế Giuse Nguyễn Phi Hùng.
Bắt đầu thánh lễ bằng nghi thức lễ gia tiên kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên. Một nét văn hóa cổ truyền mà người Việt Nam chúng ta đã gần quên lãng nơi xứ người. Đây cũng là dịp để mọi người trong Giáo Xứ bày tỏ lòng hiếu thảo với Cha Mẹ và kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên.
Trong thánh lễ Đức Giám Mục cũng như Cha Chánh Xứ Giuse nói lên tâm tình cảm tạ Thiên Chúa về những hồng ân mà Ngài đã ban cho Giáo Xứ nói chung và mỗi từng gia đình, từng người nói riêng trong suốt một năm qua. Và Đức Giám Mục rất vui khi thấy Giáo Xứ dù sống ở xứ người nhưng vẫn gìn giữ tiếng Việt và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Việt. Cha Chánh xứ đặc biệt cám ơn các hội đoàn, gia đình và mỗi cá nhân đã tích cực trong việc chuẩn bị đại lễ ngày hôm nay được tốt đẹp.
Và cuối cùng Đức Giám Mục chủ tế, Cha Chánh Xứ và Thầy Phó tế lì xì cho tất cả các em thiếu nhi cũng như Thiệp Lộc Xuân cho mỗi gia đình một phong tục tốt đẹp hay nói đúng hơn cũng là một nét văn hóa của người Việt trong ngày Tết.
Niềm hân hoan gặp gỡ trong những ngày đầu năm được tiếp nối bằng bữa tiệc mừng xuân sau tiếng pháo dồn dã cùng hòa vui với nhịp điệu múa lân do các em trong Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Thánh Linh Fresno phụ trách. Nguyện xin Chúa và Mẹ La Vang luôn tiếp tục đồng hành, yêu thương và chúc lành cho Giáo Xứ chúng con trong Xuân Giáp Thìn 2024 này ngày càng đi lên trong ân nghĩa của Chúa và của Mẹ.
“…Xin chúc nhau một mùa xuân hạnh phúc. Xin chúc nhau một mùa xuân hy vọng.
Ta chúc nhau một mùa xuân ấm êm và chúc mọi người một năm mới bình an.”
Xem Hình
“ Ngày đầu xuân, con dâng lên Thiên Chúa trí tôn.
Lời cảm mến, chúc khen Cha chí lành. “
Cùng hòa chung niềm vui với cả dân tộc Việt Nam đón mừng Xuân Giáp Thìn 2024. Vào lúc 11g sáng Chúa Nhật ngày 18 tháng 2 năm 2024 tức mùng 9 tết Nguyên Đán, Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang thành phố Fresno thuộc tiểu bang California dâng Thánh lễ Mừng Năm Mới. Đặt biệt năm nay có Đức Giám Mục Giáo phận Joseph V. Brennan chủ tế, Cha Chánh Xứ Giuse Victor Đinh Toàn cùng với Thầy Phó tế Giuse Nguyễn Phi Hùng.
Bắt đầu thánh lễ bằng nghi thức lễ gia tiên kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên. Một nét văn hóa cổ truyền mà người Việt Nam chúng ta đã gần quên lãng nơi xứ người. Đây cũng là dịp để mọi người trong Giáo Xứ bày tỏ lòng hiếu thảo với Cha Mẹ và kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên.
Trong thánh lễ Đức Giám Mục cũng như Cha Chánh Xứ Giuse nói lên tâm tình cảm tạ Thiên Chúa về những hồng ân mà Ngài đã ban cho Giáo Xứ nói chung và mỗi từng gia đình, từng người nói riêng trong suốt một năm qua. Và Đức Giám Mục rất vui khi thấy Giáo Xứ dù sống ở xứ người nhưng vẫn gìn giữ tiếng Việt và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Việt. Cha Chánh xứ đặc biệt cám ơn các hội đoàn, gia đình và mỗi cá nhân đã tích cực trong việc chuẩn bị đại lễ ngày hôm nay được tốt đẹp.
Và cuối cùng Đức Giám Mục chủ tế, Cha Chánh Xứ và Thầy Phó tế lì xì cho tất cả các em thiếu nhi cũng như Thiệp Lộc Xuân cho mỗi gia đình một phong tục tốt đẹp hay nói đúng hơn cũng là một nét văn hóa của người Việt trong ngày Tết.
Niềm hân hoan gặp gỡ trong những ngày đầu năm được tiếp nối bằng bữa tiệc mừng xuân sau tiếng pháo dồn dã cùng hòa vui với nhịp điệu múa lân do các em trong Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Thánh Linh Fresno phụ trách. Nguyện xin Chúa và Mẹ La Vang luôn tiếp tục đồng hành, yêu thương và chúc lành cho Giáo Xứ chúng con trong Xuân Giáp Thìn 2024 này ngày càng đi lên trong ân nghĩa của Chúa và của Mẹ.
“…Xin chúc nhau một mùa xuân hạnh phúc. Xin chúc nhau một mùa xuân hy vọng.
Ta chúc nhau một mùa xuân ấm êm và chúc mọi người một năm mới bình an.”
Tài Liệu - Sưu Khảo
Lộ Đức vẫy gọi
Phạm Bá Nha
02:00 20/02/2024
LỘ ĐỨC VẪY GỌI (LOURDES VOUS APPELLE)
Tại Lộ Đức, từ năm 1858, Đức Mẹ hiện ra với thánh Bernadette. Ở đây như LỘ ĐỨC VẪY GỌI (LOURDES VOUS APPELLE), đến van xin
1) Tại Alta Gracia, tỉnh Cordoban, Brasil, ai đến thăm đến thăm nhà nguyện Đức Mẹ Lộ Đức, không có Ảnh Đức Mẹ Lộ Đức ở đó, mà ai cũng nhìn thấy Đức Mẹ mặc áo choàng, chiếu sáng, 3 mặt rực rỡ (vietcatholic 16.2.24)
2) Phép lạ thứ 70 tại Lộ Đức, 2008 (trong 2000 hồ sơ)
Sr Bernadette Moriau ở Beauvais Pháp, 79 tuổi đi được sau 20 năm liệt. Ngày 11.2.2018, nhân kỷ niệm 160 năm ĐM hiện ra tại Lộ Đức, ĐC giáo phận Beauvais đã công bố phép lạ thứ 70 ở Lộ Đức. Cuối năm 1960 Sr Bernadette Moriau bị ‘nội chứng đuôi ngựa’, do thoái vị đĩa đệm thần kinh vùng lưng bị chèn ép. Đến năm 1967 Sr không đi lại được. Sr kể lại: Tháng 2.2008, theo lời bác sỹ khuyên Sr đi Lộ Đức. Từ khi bị bệnh, chưa bao giờ đến. Và cũng chưa bao giờ xin khỏi bệnh. Chỉ xin hóan cải trái tim và sức mạng để tiếp tục hành trình đau bệnh. Khi trở về cộng đoàn ở Besies, gần Beauvais. Thì ngày 11.7.2008, trong khi các sơ chầu Thánh Thể hiệp thông với Lộ Đức, trong lòng sống lại tâm tình các bệnh nhân trên xe lăn kiệu MTC, Tôi cảm thấy thật sự có Chúa hiện diện. Cuối giờ chầu, tôi cảm thấy thân thể nóng lên, thấy khỏe. Lập tức, tôi bắt đầu đi không cần máy trơ tim. Tôi đã gọi các chị tu tron nhà đến chứng kiến.
Bs chữa cho Sr đã trình hồ sơ khỏi bệnh cho văn phòng y khoa Lộ Đức. Hai ngày 18 và 19.11.1016, Hội đồng y khoa họp và công bố trường hợp khỏi bệnh của sr Moriau, y khoa không thể giải thích được (Vatican Insider, 11.2. 2018)
Hang Đá Lộ Đức có khắp nơi trong nước Pháp
Tuần báo Pèlerin, số đặc biệt Giáng Sinh, số 7186, dịp Lễ Đức Mẹ Lên Trời 15.8.2020, có phổ biến tài liệu phụ bản ‘Từ hang đá Lộ Đức khắp nơi trong nước Pháp’ (Des Grottes de Lourdes dons toute La France) liệt kê và hình photô 11 hang Lộ Đức rải rắc khắp nước Pháp (trong khoảng 100 hang đá). Năm 1858, Đức Mẹ Vô Nhiễm đã hiện ra với thánh Bernadette tại hang Massabiette, Lộ Đức. Được Tòa Thánh công nhận 1862. Và từ 1870, nhiều nơi trên nước Pháp xây dựng ‘hang Lộ Đức Nhỏ’ (Petits Lourdes) đáp ứng nhu cầu giáo dân địa phương đọc kinh, mong đến Lộ Đức mà xa không đến được. Họ làm hang đá giống như Lộ Đức, có sẵn kế bên. Mỗi hang đá đều có thánh tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm, bàn thờ, khuôn viên rộng đọc kinh lần chuỗi rước kiệu…Tại 4 nơi, có photô chứng nhân đứng trước hang đá tâm tình về kinh nguyện với Đức Mẹ (xem số 1, 2, 4 và 10)
1) Tại Audingghen, Palais de Calais, miền 62, hang đá xưa nhất, xây sau 1870. Bà Bernadette Ciroux, 72 tuổi, có 4 con, 9 cháu, phụ trách nhóm làm việc tự nguyện tại hang, cho biết: Từ nhỏ theo cha mẹ dạo mát quanh hang trong các ngày chúa nhật. Năm 1936, bà chứng kiến một ông khỏi bệnh lạ lùng tại đây. Lễ đám cưới hay tổ chức tại hang. Hàng năm, dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời có hành hương, khoảng 2.000 người tham dự. Trên bàn thờ có tập ghi ý cầu nguyện. Ngày ngày, từ 7g đến 20g, luôn có người đến đọc kinh, lần chuỗi. Đi làm ghé, hay đi xe đạp đến. Đó là sức mạnh đức tin của chúng tôi, lớn bé.
2) Tại Hérouville-Saint-Clair, miền Calvados, Normand. Hang đá xây 1879. Mỗi tháng có cả 1000 người khách hành hương kính viếng cầu kinh. Ông Benoit Roussier, 72 tuổi, chủ tịch hội ‘Bạn Lộ Đức Nhỏ’ (Association Les Amis du Petits Loursdes) chia sẻ: Lúc đầu, nhà nguyện và hang đá nhỏ xâysau 21 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Kinh phí do một ông có vợ được khỏi bệnh hiểm nghèo. Sau đó, dân chúng trong vùng mong muốn xây nới rộng ra để thường xuyên lui tới cầu nguyện.Hiện nay, từ 14g đến 17g, luôn có người quét dọn, đốt nến, hướng dẫn hành hương. Một năm trung bình có khoảng 12.000 người thăm viếng. Lúc 15g30, ở đây kết hợp với Lộ Đức lần Chuỗi chung. Xin Đức Mẹ chúc lành cho ai đến đây với chúng tôi.
3) Tại La Ferrière-au-Etangs, miền 61, nơi thiết kế hệ thống ánh sáng điện màu thật đẹp, lạ mắt.
4) Tại Bernadierre, miền 44, xây sau thế chiến, 1950. Bà Claude Colon, 68 tuổi, sống ở đây từ khi có hang đá phát biểu: Trước khi vào làng, bao giờ tôi cũng ghé hang đá Lộ Đức. Thời gian thế chiến thứ II, cha sở chúng tôi khấn hứa xây hang đá với sự tiếp tay của giáo dân. Ông nội chúng tôi là Alphonce thợ rèn và nhiều người khác cùng xây, từ 1950. Kinh phí do tình nguyện và khánh thành 9.9.1951. Hang đá rộng gấp 3 lần Lộ Đức. Năm 91 tuổi, bố tôi chiều nào cũng tới đây cầu kinh. Trong tháng Năm, mỗi ngày có lần Chuỗi và Chúa Nhật thứ II trong tháng Chín có hành hương với khoảng 500 người tham dự. Cháu gái tôi, mới 4 tuổi, thích đến, qùi xuống chắp tay khấn kinh, như người lớn. Mỗi khi đến hang đá tôi cảm động nhiều vì nó gắn bó với gia đình, cha mẹ và đám cưới chúng tôi.
5) Tại La Plus Insulaire có nhà nguyện d’Ilur, miền Il d’Arz, Morbihan, bên cạnh có dòng sông.
6) Tại Ricorgtière, miền 85
7) Tại Peyrilles, miền 46, xây 2018
8) Tại d’Aiguebelle, thường gọi Notre Dame d’Aiguebelle, miền 26
9) Tại Menton, miền 06, khó đến mãi gần Alpes Maritimes
10) Tại Wettolsheim, miền Haut Rhin, khu Alsace, xây theo mẫu Lộ Đức nhưng rộng hơn. Ông Jean-Rémy Haeffelin sinh và lớn lên tại đây. Nhà thờ và hang đá ngay trung tâm thánh địa. Ông Jean 67 tuổi, là chủ tịch hội đồng cố vấn của Wettolsheim, xác nhận hang Lộ Đức gắn liền với lịch sử làng đang ở. Chúng tôi làm đám cưới năm 1977, sau lễ, chúng tôi đến trước Đức Mẹ dâng bước đầu tuổi xuân và gia đình. Đó như là thói quen của đôi tân hôn. Mỗi dịp lễ hội, dân làng đều tổ chức tại đây. Năm 1912 dân làng xây hội quán bên cạnh cho tiện tổ chức. Tôi đến hang mỗi ngày thắp nến và đón tiếp du khách kính viếng từ xa. Hang đá là biểu tượng đức tin dân làng.
11) Tại nhà thương Moselle, miền 57, làm bởi khối đá to như cột cao. Do sáng kiến cha Joeph Lette, sau khi đi Fatima, Thánh Địa, Lộ Đức về. Hang đá khánh thành 1966
Mang chung tâm tình cầu nguyện, xin đọc kinh Đức Mẹ Lộ Đức do Đức Thánh Cha Piô XII soạn
Lạy Thánh nữ Đồng Trinh Vẹn Tuyền Lộ Đức, Chúng con theo lời Mẹ dạy, chạy đến quỳ dưới chân Mẹ, gần bên hang đá hèn mọn, là nơi Mẹ đã thương hiện ra để chỉ cho những người lầm đường lạc lối con đường sám hối và cầu nguyện; Cùng phân phát cho kẻ khốn-cùng những ơn thánh và sự lạ do lòng từ bi cao cả Mẹ.
Ôi Nữ Vương nhân ái, xin hãy nhận lấy những lời tán tụng và khẩn cầu của muôn người muôn nước đang gặp cảnh sầu đau, lo sợ, mà họ thành tín dâng lên Mẹ.
Hỡi Mẹ là ánh hào quang thiên quốc, xin chiếu ánh sáng Đức Tin trên những người lầm lạc. Xin hãy lấy thiên hương Đức Cậy mà xoa dịu những tâm hồn thống khổ. Ôi Maria nguồn suối cứu rỗi vô tận, xin hãy kín múc nguồn tình thương của Chúa mà tưới gội những tâm hồn khô héo.
Xin ban cho các con cái Mẹ, niềm an ủi trong cơn sầu khổ, sự chở che trong cơn nguy khốn; được nâng đỡ trong giờ giao tranh. Xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa Giêsu dịu ngọt của Mẹ đến cùng, hầu ngày sau chúng con cũng được hưởng sự an vui đời đời cùng Mẹ trên nước thiên đàng. Amen.
Năm nay, ĐTC Phanxico đã đặt bó hoa trước Đức Mẹ Lộ Đức của hang đá Lộ Đức trong vườn Vatican. Hang đá này xây dựng vào thế kỷ 20. Với khoản 150 người. Có một bác sĩ, một y tá và một tuyên úy bệnh viện, những người mà đã chăm sóc bệnh nhân bị nhiễm coronavirus là một trong số những người có mặt. Cũng có một người đã được chữa khỏi và một người phụ nữ mất mẹ vì căn bệnh này.
Truyền thống đọc kinh Mân Côi tại đây có lâu đời. Ngày 31.5.2020, sau 50 kinh Năm sự Sáng, những người có mặt cùng đọc kinh mà ĐGH Phanxicô đã sọan vào 11.3.2020.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn chiếu soi trên hành trình của chúng con như dấu chỉ của ơn cứu độ và niềm hy vọng. Chúng con tự phó dâng cho Mẹ, mạnh khỏe khỏi bệnh tật, những người trước Thánh Giá đã kết giao với nỗi đau của Chúa Giêsu, một lòng trung kiên đức tin của Người.
Lạy Mẹ, là phần rỗi của dân thành Roma. Mẹ biết điều chúng con cần và chắc chắn rằng Mẹ sẽ ban cho chúng con, để giống như ở Cana miền Galilê, niềm vui và lễ hội sẽ trở lại sau thời gian thử thách này
Lạy Mẹ của Tình yêu Chúa, xin giúp đỡ chúng con, để chúng con biết vâng theo thánh ý Chúa Cha và làm điều mà Chúa Giêsu phán bảo chúng con
Ngài là Đấng đã gánh trên mình Ngài các nỗi đau của chúng con, để qua Thánh Giá, đưa chúng con đến niềm vui Phục Sinh
Lạy Mẹ Thiên Chúa, Chúng con tìm nương náu dưới sự che chở của Mẹ. Xin chớ chê chớ bỏ lời cầu xin của chúng con đang trong cơn thử thách và thân lạy Đức Nữ vinh hiển đầy ơn phúc, xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen
Mỗi người dẫn một phần của chuỗi Mân côi, trong số những người Công Giáo được cầu nguyện với cường độ mãnh liệt hơn trong tháng Năm.
Kết thúc buổi cầu kinh, ĐTC và nhóm đọc tiếp cầu cho đại dịch mau chấm dứt:
Lạy Mẹ Thiên Chúa, chúng con chạy đến ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ.
Lạy Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con, trong tình cảnh bi thương hiện nay, khi toàn thế giớ khi toàn thế giới chìm trong khổ đau và lo lắng, chúng con chạy đến với Mẹ và tìm nương ẩn dưới sự che chở của Mẹ.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin đoái thương ghé mắt từ ái nhìn đến chúng con đang trong cơn đại dịch coronavirus này. Xin an ủi những người đang phải bàng hoàng than khóc người thân đã qua đời, đôi khi chỉ được an táng sơ sài khiến họ đau lòng sâu sắc. Xin gần gũi với những ai đang lo lắng cho những người thân yêu bị nhiễm bệnh và những ai, để tránh lây lan không thể cận kề bên cạnh. Xin mang đến hy vọng cho những ai lo lắng trước một tương lai bấp bênh do hậu quả đối với kinh tế và công ăn việc làm của đại dịch này.
Lạy Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin cầu cùng Chúa là Cha đầy lòng thương xót cho chúng con, để thử thách này chấm dứt và rạng đông hy vọng bình an sẽ đến. Xin Mẹ cầu khẩn cùng Con chí thánh Mẹ như xưa Mẹ cầu khẩn cùng Người ở Cana, để gia đình các bệnh nhân được an ủi và tâm hồn họ được mở ra với hy vọng và cậy trông.
Xin bảo vệ các bác sỹ, y tá, nhân viên y tế, tình nguyện viên, là những đang ở tuyến đầu trong tình trạng khẩn cấp này và đang liều mạng sống mình để cứu những mạng sống khác. Xin nâng đỡ nỗ lực anh hùng của họ và ban cho họ lòng quảng đại dồi dào.
Xin cận kề bên những ngày đêm trợ giúp các bệnh nhân, và xin gần gũi các linh mục, là những vị với mối quan tâm mục vụ và lòng trung tín với Tin Mừng, đang tìm cách giúp đỡ và trợ giúp tất cả mọi người.
Lạy Đức Trinh Nữ đầy ơn phúc, xin soi sáng tâm trí của những nam nữ dấn thân trong nghiên cứu khoa học, xin giúp họ tìm ra những giải pháp hiệu quả để khống chế coronavirus này. Xin an ủi những người đang phải bàng hoàng than khóc người thân đã qua đời, đôi khi chỉ được an táng sơ sài khiến họ đau lòng sâu sắc. Xin gần gũi với những ai đang lo lắng cho những người thân yêu bị nhiễm bệnh và những ai, để tránh lây lan không thể cận kề bên cạnh. Xin mang đến hy vọng cho những ai lo lắng trước một tương lai bấp bênh do hậu quả đối với kinh tế và công ăn việc làm của đại dịch này.
Xin nâng đỡ những nhà lãnh đạo các quốc gia, để với sự khôn ngoan, quan tâm và quảng đại, họ có thể giúp đỡ những người đang thiếu những điều kiện cần thiết căn bản cho cuộc sống và đề ra được giải pháp xã hội và kinh tế với tầm nhìn xa với tinh thần liên đới.
Lạy Mẹ Maria rất thánh, xin đánh động lương tâm chúng con để những số tiền khổng lồ thay vì được chi trả cho việc phát triển và thu tích các vũ khí, được dùng để thúc đẩy các nghiên cứu hiệu quả, nhằm ngăn chặn những họa tương tự trong tương lai.
Lạy Mẹ rất yêu dấu, xin giúp chúng con nhận thức được rằng tất cả chúng con là các thành viên cùng một đại gia đình duy nhất và ý thức được mối liên hệ hiệp nhất tất cả mọi người, để trong tình huynh đệ và liên đới chúng con có thể giúp giảm bớt biết bao tình cảnh nghèo đói và lầm than. Xin cho chúng con kiên vững trong đức tin, bền chí trong phục vụ và liên lỷ trong cầu nguyện.
Lạy Mẹ Maria, Đấng an ủi những người đau khổ, xin ôm lấy các con cái đang u sầu và xin cầu cùng Chúa để Người vươn cánh tay quyền năng ra giải thoát cho chúng con khỏi cơn đại dịch khủng khiếp này để cuộc sống thanh thản có thể trở lại bình thường.
Lạy Mẹ, Mẹ luôn chiếu soi trên hành trình của chúng con như dấu chỉ của ơn cứu độ và niềm hy vọng. Chúng con phó thác chúng con cho Mẹ. Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay Đức Nữ Đồng Trinh Maria. Amen
Trên khắp thế giới, 50 đền thờ Thánh Mẫu đã tham gia cầu nguyện từ các quốc gia tương ứng. Lời cầu nguyện long trọng đã kết thúc khi được bắt đầu trong lời hát Ave Maria. (RV 2.6.2020)
Kết Luận Ts Paris Notre-Dame số 1993, 15/ 2/ 2024: có hình cha chính Gp Paris ĐÔ Francis Gonon và cha phụ trách Paul-An nhà nguyện dành cho người Hoa, ở St Hyppolide 13e bái nhang dịp Năm Mới Gíáp Thìn,10.2.24. Trong khi ca đoàn hát Tv 8.
Trời Cao hãy đổ sương xuống, Và hãy mưa Đấng Cứu Chuộc tôi
Trong đêm u tối, Tìm về dòng suốt trong (tr, PN II)
Giảng lễ, Đô Gonon nói, tôi chưa có dịp qua Hà Nội, nhưng ở đâu tôi cũng thấy người Công Giáo VN giữ vững đức tin và tin Chúa Quan Phòng dù gặp nghịch cảnh sóng gió.
KINH KHẤN Đức Mẹ LỘ ĐỨC
(Đức Thánh Cha Piô 12 soạn)
Lạy Thánh nữ Đồng Trinh Ven Tuyền Lộ Đức, Chúng con theo lời Mẹ dạy, chạy đến quỳ dưới chân Mẹ, gần bên hang đá hèn mọn, là nơi Mẹ đã thương hiện ra để chỉ cho những người lầm đường lạc lối con đường sám hối và cầu nguyện; Cùng phân phát cho kẻ khốn-cùng những ơn thánh và sự lạ do lòng từ bi cao cả Mẹ.
Ôi Nữ Vương nhân ái, xin hãy nhận lấy những lời tán tụng và khẩn cầu của muôn người muôn nước đang gặp cảnh sầu đau, lo sợ, mà họ thành tín dâng lên Mẹ.
Hỡi Mẹ là ánh hào quang thiên quốc, xin chiếu ánh sáng Đức Tin trên những người lầm lạc. Xin hãy lấy thiên hương Đức Cậy mà xoa dịu những tâm hồn thống khổ. Ôi Maria nguồn suối cứu rỗi vô tận, xin hãy kín múc nguồn tình thương của Chúa mà tưới gội những tâm hồn khô héo.
Xin ban cho các con cái Mẹ, niềm an ủi trong cơn sầu khổ, sự chở che trong cơn nguy khốn; được nâng đỡ trong giờ giao tranh. Xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa Giêsu dịu ngọt của Mẹ đến cùng, hầu ngày sau chúng con cũng được hưởng sự an vui đời đời cùng Mẹ trên nước thiên đàng. Amen.
Tại Lộ Đức, từ năm 1858, Đức Mẹ hiện ra với thánh Bernadette. Ở đây như LỘ ĐỨC VẪY GỌI (LOURDES VOUS APPELLE), đến van xin
1) Tại Alta Gracia, tỉnh Cordoban, Brasil, ai đến thăm đến thăm nhà nguyện Đức Mẹ Lộ Đức, không có Ảnh Đức Mẹ Lộ Đức ở đó, mà ai cũng nhìn thấy Đức Mẹ mặc áo choàng, chiếu sáng, 3 mặt rực rỡ (vietcatholic 16.2.24)
2) Phép lạ thứ 70 tại Lộ Đức, 2008 (trong 2000 hồ sơ)
Sr Bernadette Moriau ở Beauvais Pháp, 79 tuổi đi được sau 20 năm liệt. Ngày 11.2.2018, nhân kỷ niệm 160 năm ĐM hiện ra tại Lộ Đức, ĐC giáo phận Beauvais đã công bố phép lạ thứ 70 ở Lộ Đức. Cuối năm 1960 Sr Bernadette Moriau bị ‘nội chứng đuôi ngựa’, do thoái vị đĩa đệm thần kinh vùng lưng bị chèn ép. Đến năm 1967 Sr không đi lại được. Sr kể lại: Tháng 2.2008, theo lời bác sỹ khuyên Sr đi Lộ Đức. Từ khi bị bệnh, chưa bao giờ đến. Và cũng chưa bao giờ xin khỏi bệnh. Chỉ xin hóan cải trái tim và sức mạng để tiếp tục hành trình đau bệnh. Khi trở về cộng đoàn ở Besies, gần Beauvais. Thì ngày 11.7.2008, trong khi các sơ chầu Thánh Thể hiệp thông với Lộ Đức, trong lòng sống lại tâm tình các bệnh nhân trên xe lăn kiệu MTC, Tôi cảm thấy thật sự có Chúa hiện diện. Cuối giờ chầu, tôi cảm thấy thân thể nóng lên, thấy khỏe. Lập tức, tôi bắt đầu đi không cần máy trơ tim. Tôi đã gọi các chị tu tron nhà đến chứng kiến.
Bs chữa cho Sr đã trình hồ sơ khỏi bệnh cho văn phòng y khoa Lộ Đức. Hai ngày 18 và 19.11.1016, Hội đồng y khoa họp và công bố trường hợp khỏi bệnh của sr Moriau, y khoa không thể giải thích được (Vatican Insider, 11.2. 2018)
Hang Đá Lộ Đức có khắp nơi trong nước Pháp
Tuần báo Pèlerin, số đặc biệt Giáng Sinh, số 7186, dịp Lễ Đức Mẹ Lên Trời 15.8.2020, có phổ biến tài liệu phụ bản ‘Từ hang đá Lộ Đức khắp nơi trong nước Pháp’ (Des Grottes de Lourdes dons toute La France) liệt kê và hình photô 11 hang Lộ Đức rải rắc khắp nước Pháp (trong khoảng 100 hang đá). Năm 1858, Đức Mẹ Vô Nhiễm đã hiện ra với thánh Bernadette tại hang Massabiette, Lộ Đức. Được Tòa Thánh công nhận 1862. Và từ 1870, nhiều nơi trên nước Pháp xây dựng ‘hang Lộ Đức Nhỏ’ (Petits Lourdes) đáp ứng nhu cầu giáo dân địa phương đọc kinh, mong đến Lộ Đức mà xa không đến được. Họ làm hang đá giống như Lộ Đức, có sẵn kế bên. Mỗi hang đá đều có thánh tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm, bàn thờ, khuôn viên rộng đọc kinh lần chuỗi rước kiệu…Tại 4 nơi, có photô chứng nhân đứng trước hang đá tâm tình về kinh nguyện với Đức Mẹ (xem số 1, 2, 4 và 10)
1) Tại Audingghen, Palais de Calais, miền 62, hang đá xưa nhất, xây sau 1870. Bà Bernadette Ciroux, 72 tuổi, có 4 con, 9 cháu, phụ trách nhóm làm việc tự nguyện tại hang, cho biết: Từ nhỏ theo cha mẹ dạo mát quanh hang trong các ngày chúa nhật. Năm 1936, bà chứng kiến một ông khỏi bệnh lạ lùng tại đây. Lễ đám cưới hay tổ chức tại hang. Hàng năm, dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời có hành hương, khoảng 2.000 người tham dự. Trên bàn thờ có tập ghi ý cầu nguyện. Ngày ngày, từ 7g đến 20g, luôn có người đến đọc kinh, lần chuỗi. Đi làm ghé, hay đi xe đạp đến. Đó là sức mạnh đức tin của chúng tôi, lớn bé.
2) Tại Hérouville-Saint-Clair, miền Calvados, Normand. Hang đá xây 1879. Mỗi tháng có cả 1000 người khách hành hương kính viếng cầu kinh. Ông Benoit Roussier, 72 tuổi, chủ tịch hội ‘Bạn Lộ Đức Nhỏ’ (Association Les Amis du Petits Loursdes) chia sẻ: Lúc đầu, nhà nguyện và hang đá nhỏ xâysau 21 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Kinh phí do một ông có vợ được khỏi bệnh hiểm nghèo. Sau đó, dân chúng trong vùng mong muốn xây nới rộng ra để thường xuyên lui tới cầu nguyện.Hiện nay, từ 14g đến 17g, luôn có người quét dọn, đốt nến, hướng dẫn hành hương. Một năm trung bình có khoảng 12.000 người thăm viếng. Lúc 15g30, ở đây kết hợp với Lộ Đức lần Chuỗi chung. Xin Đức Mẹ chúc lành cho ai đến đây với chúng tôi.
3) Tại La Ferrière-au-Etangs, miền 61, nơi thiết kế hệ thống ánh sáng điện màu thật đẹp, lạ mắt.
4) Tại Bernadierre, miền 44, xây sau thế chiến, 1950. Bà Claude Colon, 68 tuổi, sống ở đây từ khi có hang đá phát biểu: Trước khi vào làng, bao giờ tôi cũng ghé hang đá Lộ Đức. Thời gian thế chiến thứ II, cha sở chúng tôi khấn hứa xây hang đá với sự tiếp tay của giáo dân. Ông nội chúng tôi là Alphonce thợ rèn và nhiều người khác cùng xây, từ 1950. Kinh phí do tình nguyện và khánh thành 9.9.1951. Hang đá rộng gấp 3 lần Lộ Đức. Năm 91 tuổi, bố tôi chiều nào cũng tới đây cầu kinh. Trong tháng Năm, mỗi ngày có lần Chuỗi và Chúa Nhật thứ II trong tháng Chín có hành hương với khoảng 500 người tham dự. Cháu gái tôi, mới 4 tuổi, thích đến, qùi xuống chắp tay khấn kinh, như người lớn. Mỗi khi đến hang đá tôi cảm động nhiều vì nó gắn bó với gia đình, cha mẹ và đám cưới chúng tôi.
5) Tại La Plus Insulaire có nhà nguyện d’Ilur, miền Il d’Arz, Morbihan, bên cạnh có dòng sông.
6) Tại Ricorgtière, miền 85
7) Tại Peyrilles, miền 46, xây 2018
8) Tại d’Aiguebelle, thường gọi Notre Dame d’Aiguebelle, miền 26
9) Tại Menton, miền 06, khó đến mãi gần Alpes Maritimes
10) Tại Wettolsheim, miền Haut Rhin, khu Alsace, xây theo mẫu Lộ Đức nhưng rộng hơn. Ông Jean-Rémy Haeffelin sinh và lớn lên tại đây. Nhà thờ và hang đá ngay trung tâm thánh địa. Ông Jean 67 tuổi, là chủ tịch hội đồng cố vấn của Wettolsheim, xác nhận hang Lộ Đức gắn liền với lịch sử làng đang ở. Chúng tôi làm đám cưới năm 1977, sau lễ, chúng tôi đến trước Đức Mẹ dâng bước đầu tuổi xuân và gia đình. Đó như là thói quen của đôi tân hôn. Mỗi dịp lễ hội, dân làng đều tổ chức tại đây. Năm 1912 dân làng xây hội quán bên cạnh cho tiện tổ chức. Tôi đến hang mỗi ngày thắp nến và đón tiếp du khách kính viếng từ xa. Hang đá là biểu tượng đức tin dân làng.
11) Tại nhà thương Moselle, miền 57, làm bởi khối đá to như cột cao. Do sáng kiến cha Joeph Lette, sau khi đi Fatima, Thánh Địa, Lộ Đức về. Hang đá khánh thành 1966
Mang chung tâm tình cầu nguyện, xin đọc kinh Đức Mẹ Lộ Đức do Đức Thánh Cha Piô XII soạn
Lạy Thánh nữ Đồng Trinh Vẹn Tuyền Lộ Đức, Chúng con theo lời Mẹ dạy, chạy đến quỳ dưới chân Mẹ, gần bên hang đá hèn mọn, là nơi Mẹ đã thương hiện ra để chỉ cho những người lầm đường lạc lối con đường sám hối và cầu nguyện; Cùng phân phát cho kẻ khốn-cùng những ơn thánh và sự lạ do lòng từ bi cao cả Mẹ.
Ôi Nữ Vương nhân ái, xin hãy nhận lấy những lời tán tụng và khẩn cầu của muôn người muôn nước đang gặp cảnh sầu đau, lo sợ, mà họ thành tín dâng lên Mẹ.
Hỡi Mẹ là ánh hào quang thiên quốc, xin chiếu ánh sáng Đức Tin trên những người lầm lạc. Xin hãy lấy thiên hương Đức Cậy mà xoa dịu những tâm hồn thống khổ. Ôi Maria nguồn suối cứu rỗi vô tận, xin hãy kín múc nguồn tình thương của Chúa mà tưới gội những tâm hồn khô héo.
Xin ban cho các con cái Mẹ, niềm an ủi trong cơn sầu khổ, sự chở che trong cơn nguy khốn; được nâng đỡ trong giờ giao tranh. Xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa Giêsu dịu ngọt của Mẹ đến cùng, hầu ngày sau chúng con cũng được hưởng sự an vui đời đời cùng Mẹ trên nước thiên đàng. Amen.
Năm nay, ĐTC Phanxico đã đặt bó hoa trước Đức Mẹ Lộ Đức của hang đá Lộ Đức trong vườn Vatican. Hang đá này xây dựng vào thế kỷ 20. Với khoản 150 người. Có một bác sĩ, một y tá và một tuyên úy bệnh viện, những người mà đã chăm sóc bệnh nhân bị nhiễm coronavirus là một trong số những người có mặt. Cũng có một người đã được chữa khỏi và một người phụ nữ mất mẹ vì căn bệnh này.
Truyền thống đọc kinh Mân Côi tại đây có lâu đời. Ngày 31.5.2020, sau 50 kinh Năm sự Sáng, những người có mặt cùng đọc kinh mà ĐGH Phanxicô đã sọan vào 11.3.2020.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn chiếu soi trên hành trình của chúng con như dấu chỉ của ơn cứu độ và niềm hy vọng. Chúng con tự phó dâng cho Mẹ, mạnh khỏe khỏi bệnh tật, những người trước Thánh Giá đã kết giao với nỗi đau của Chúa Giêsu, một lòng trung kiên đức tin của Người.
Lạy Mẹ, là phần rỗi của dân thành Roma. Mẹ biết điều chúng con cần và chắc chắn rằng Mẹ sẽ ban cho chúng con, để giống như ở Cana miền Galilê, niềm vui và lễ hội sẽ trở lại sau thời gian thử thách này
Lạy Mẹ của Tình yêu Chúa, xin giúp đỡ chúng con, để chúng con biết vâng theo thánh ý Chúa Cha và làm điều mà Chúa Giêsu phán bảo chúng con
Ngài là Đấng đã gánh trên mình Ngài các nỗi đau của chúng con, để qua Thánh Giá, đưa chúng con đến niềm vui Phục Sinh
Lạy Mẹ Thiên Chúa, Chúng con tìm nương náu dưới sự che chở của Mẹ. Xin chớ chê chớ bỏ lời cầu xin của chúng con đang trong cơn thử thách và thân lạy Đức Nữ vinh hiển đầy ơn phúc, xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen
Mỗi người dẫn một phần của chuỗi Mân côi, trong số những người Công Giáo được cầu nguyện với cường độ mãnh liệt hơn trong tháng Năm.
Kết thúc buổi cầu kinh, ĐTC và nhóm đọc tiếp cầu cho đại dịch mau chấm dứt:
Lạy Mẹ Thiên Chúa, chúng con chạy đến ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ.
Lạy Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con, trong tình cảnh bi thương hiện nay, khi toàn thế giớ khi toàn thế giới chìm trong khổ đau và lo lắng, chúng con chạy đến với Mẹ và tìm nương ẩn dưới sự che chở của Mẹ.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin đoái thương ghé mắt từ ái nhìn đến chúng con đang trong cơn đại dịch coronavirus này. Xin an ủi những người đang phải bàng hoàng than khóc người thân đã qua đời, đôi khi chỉ được an táng sơ sài khiến họ đau lòng sâu sắc. Xin gần gũi với những ai đang lo lắng cho những người thân yêu bị nhiễm bệnh và những ai, để tránh lây lan không thể cận kề bên cạnh. Xin mang đến hy vọng cho những ai lo lắng trước một tương lai bấp bênh do hậu quả đối với kinh tế và công ăn việc làm của đại dịch này.
Lạy Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin cầu cùng Chúa là Cha đầy lòng thương xót cho chúng con, để thử thách này chấm dứt và rạng đông hy vọng bình an sẽ đến. Xin Mẹ cầu khẩn cùng Con chí thánh Mẹ như xưa Mẹ cầu khẩn cùng Người ở Cana, để gia đình các bệnh nhân được an ủi và tâm hồn họ được mở ra với hy vọng và cậy trông.
Xin bảo vệ các bác sỹ, y tá, nhân viên y tế, tình nguyện viên, là những đang ở tuyến đầu trong tình trạng khẩn cấp này và đang liều mạng sống mình để cứu những mạng sống khác. Xin nâng đỡ nỗ lực anh hùng của họ và ban cho họ lòng quảng đại dồi dào.
Xin cận kề bên những ngày đêm trợ giúp các bệnh nhân, và xin gần gũi các linh mục, là những vị với mối quan tâm mục vụ và lòng trung tín với Tin Mừng, đang tìm cách giúp đỡ và trợ giúp tất cả mọi người.
Lạy Đức Trinh Nữ đầy ơn phúc, xin soi sáng tâm trí của những nam nữ dấn thân trong nghiên cứu khoa học, xin giúp họ tìm ra những giải pháp hiệu quả để khống chế coronavirus này. Xin an ủi những người đang phải bàng hoàng than khóc người thân đã qua đời, đôi khi chỉ được an táng sơ sài khiến họ đau lòng sâu sắc. Xin gần gũi với những ai đang lo lắng cho những người thân yêu bị nhiễm bệnh và những ai, để tránh lây lan không thể cận kề bên cạnh. Xin mang đến hy vọng cho những ai lo lắng trước một tương lai bấp bênh do hậu quả đối với kinh tế và công ăn việc làm của đại dịch này.
Xin nâng đỡ những nhà lãnh đạo các quốc gia, để với sự khôn ngoan, quan tâm và quảng đại, họ có thể giúp đỡ những người đang thiếu những điều kiện cần thiết căn bản cho cuộc sống và đề ra được giải pháp xã hội và kinh tế với tầm nhìn xa với tinh thần liên đới.
Lạy Mẹ Maria rất thánh, xin đánh động lương tâm chúng con để những số tiền khổng lồ thay vì được chi trả cho việc phát triển và thu tích các vũ khí, được dùng để thúc đẩy các nghiên cứu hiệu quả, nhằm ngăn chặn những họa tương tự trong tương lai.
Lạy Mẹ rất yêu dấu, xin giúp chúng con nhận thức được rằng tất cả chúng con là các thành viên cùng một đại gia đình duy nhất và ý thức được mối liên hệ hiệp nhất tất cả mọi người, để trong tình huynh đệ và liên đới chúng con có thể giúp giảm bớt biết bao tình cảnh nghèo đói và lầm than. Xin cho chúng con kiên vững trong đức tin, bền chí trong phục vụ và liên lỷ trong cầu nguyện.
Lạy Mẹ Maria, Đấng an ủi những người đau khổ, xin ôm lấy các con cái đang u sầu và xin cầu cùng Chúa để Người vươn cánh tay quyền năng ra giải thoát cho chúng con khỏi cơn đại dịch khủng khiếp này để cuộc sống thanh thản có thể trở lại bình thường.
Lạy Mẹ, Mẹ luôn chiếu soi trên hành trình của chúng con như dấu chỉ của ơn cứu độ và niềm hy vọng. Chúng con phó thác chúng con cho Mẹ. Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay Đức Nữ Đồng Trinh Maria. Amen
Trên khắp thế giới, 50 đền thờ Thánh Mẫu đã tham gia cầu nguyện từ các quốc gia tương ứng. Lời cầu nguyện long trọng đã kết thúc khi được bắt đầu trong lời hát Ave Maria. (RV 2.6.2020)
Kết Luận Ts Paris Notre-Dame số 1993, 15/ 2/ 2024: có hình cha chính Gp Paris ĐÔ Francis Gonon và cha phụ trách Paul-An nhà nguyện dành cho người Hoa, ở St Hyppolide 13e bái nhang dịp Năm Mới Gíáp Thìn,10.2.24. Trong khi ca đoàn hát Tv 8.
Trời Cao hãy đổ sương xuống, Và hãy mưa Đấng Cứu Chuộc tôi
Trong đêm u tối, Tìm về dòng suốt trong (tr, PN II)
Giảng lễ, Đô Gonon nói, tôi chưa có dịp qua Hà Nội, nhưng ở đâu tôi cũng thấy người Công Giáo VN giữ vững đức tin và tin Chúa Quan Phòng dù gặp nghịch cảnh sóng gió.
KINH KHẤN Đức Mẹ LỘ ĐỨC
(Đức Thánh Cha Piô 12 soạn)
Lạy Thánh nữ Đồng Trinh Ven Tuyền Lộ Đức, Chúng con theo lời Mẹ dạy, chạy đến quỳ dưới chân Mẹ, gần bên hang đá hèn mọn, là nơi Mẹ đã thương hiện ra để chỉ cho những người lầm đường lạc lối con đường sám hối và cầu nguyện; Cùng phân phát cho kẻ khốn-cùng những ơn thánh và sự lạ do lòng từ bi cao cả Mẹ.
Ôi Nữ Vương nhân ái, xin hãy nhận lấy những lời tán tụng và khẩn cầu của muôn người muôn nước đang gặp cảnh sầu đau, lo sợ, mà họ thành tín dâng lên Mẹ.
Hỡi Mẹ là ánh hào quang thiên quốc, xin chiếu ánh sáng Đức Tin trên những người lầm lạc. Xin hãy lấy thiên hương Đức Cậy mà xoa dịu những tâm hồn thống khổ. Ôi Maria nguồn suối cứu rỗi vô tận, xin hãy kín múc nguồn tình thương của Chúa mà tưới gội những tâm hồn khô héo.
Xin ban cho các con cái Mẹ, niềm an ủi trong cơn sầu khổ, sự chở che trong cơn nguy khốn; được nâng đỡ trong giờ giao tranh. Xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa Giêsu dịu ngọt của Mẹ đến cùng, hầu ngày sau chúng con cũng được hưởng sự an vui đời đời cùng Mẹ trên nước thiên đàng. Amen.
VietCatholic TV
Lợi dụng Kyiv thiếu đạn, Nga mở 3 mặt trận. Ukraine chống trả quyết liệt hạ gục 6 chiếc Sukhoi
VietCatholic Media
02:38 20/02/2024
1. Sáu chiến đấu cơ của Nga bị bắn hạ chỉ trong ba ngày
Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Six Russian Fighter Jets Shot Down in Just Three Days”, nghĩa là “Sáu chiến đấu cơ của Nga bị bắn hạ chỉ trong ba ngày.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv sáng Thứ Ba, 20 Tháng Hai, Phát ngôn nhân của lực lượng không quân Ukraine, Đại Tá Yurii Ihnat, cho biết lực lượng vũ trang Ukraine đã bắn hạ 6 chiến đấu cơ của Nga chỉ trong vòng 3 ngày.
Đại Tá Yurii Ihnat cho biết hôm thứ Hai Ukraine đã phá hủy hai máy bay phản lực của Nga, một máy bay ném bom chiến đấu Su-34 và một chiến đấu cơ Su-35S.
“Máy bay Nga tiếp tục rơi! Sáng nay, những người bảo vệ bầu trời đã bắn hạ hai máy bay Nga ở hướng đông – một máy bay ném bom chiến đấu Su-34 và một chiến binh Su-35”, Đại Tá Ihnat nói. “Trong 3 ngày, Ukraine đã phá hủy 6 máy bay Nga”
Tin tức này được đưa ra sau khi Tư lệnh Lực lượng Không quân của Lực lượng Vũ trang Ukraine, Trung tướng Mykola Oleshchuk, cho biết Ukraine đã phá hủy 4 máy bay quân sự của Nga vào cuối tuần qua.
Oleshchuk cho biết trên Telegram hôm thứ Bảy: “Các đơn vị của Lực lượng Không quân thuộc Lực lượng Vũ trang Ukraine đã tiêu diệt cùng lúc ba máy bay địch – hai chiến đấu cơ-ném bom Su-34 và một chiến đấu cơ Su-35”.
Ông cho biết Kyiv đã bắn hạ một máy bay ném bom Su-34 khác của Nga vào sáng Chúa Nhật.
Một đoạn video lan truyền trên mạng xã hội vào sáng thứ Hai dường như cho thấy khoảnh khắc một trong những chiếc máy bay phản lực bị bắn rơi.
Anton Gerashchenko, cố vấn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Ukraine, viết trong một bài đăng trên X.
Quân đội Kyiv cho biết trong một bản cập nhật hôm thứ Hai rằng Mạc Tư Khoa cho đến nay đã mất 336 máy bay kể từ khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022.
Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Ukraine đăng số liệu về tổn thất quân đội và trang thiết bị của Nga như một phần cập nhật hàng ngày về cuộc chiến. Nó cũng cho biết Nga đã mất 1.290 quân chỉ trong một ngày – đó là tổn thất lớn nhất trong một ngày được báo cáo trong một năm qua.
Các ước tính về con số thương vong khác nhau, trong đó con số của Ukraine thường vượt quá con số của các đồng minh phương Tây. Mạc Tư Khoa hiếm khi chia sẻ thông tin về số thương vong hoặc thiệt hại về trang thiết bị mà nước này phải gánh chịu trong cuộc chiến.
Tháng trước, Bộ Tổng tham mưu cho biết lực lượng Kyiv đã bắn hạ một chiếc Su-34 của Nga trên vùng Luhansk phía đông Ukraine.
Và vào cuối tháng 12, Kyiv cho biết họ đã phá hủy thêm ba máy bay chỉ trong một ngày trên khu vực Kherson phía nam Ukraine.
Bộ Quốc phòng Anh hồi tháng 1 cho biết chuỗi tổn thất gần đây cho thấy Nga không có khả năng giành ưu thế trên không ở Ukraine.
2. Video Ukraine cho thấy 18 xe Nga bị tiêu diệt khi cuộc tấn công bị đập tan
Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Ukraine Video Shows 18 Russian Vehicles Wiped Out As Offensive Thwarted”, nghĩa là “Video Ukraine cho thấy 18 xe Nga bị tiêu diệt khi cuộc tấn công bị đập tan.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Theo Kyiv, lực lượng Ukraine đã phá hủy 18 xe thiết giáp của Mạc Tư Khoa trong cuộc tấn công của Nga vào miền nam đất nước hôm thứ Bảy, khi lực lượng của Điện Cẩm Linh giành được căn cứ dọc theo chiến tuyến phía đông.
Lực lượng Nga đã mất ba xe tăng trong cuộc tấn công ở khu vực Zaporizhzhia phía nam Ukraine hôm thứ Bảy, Bộ chỉ huy tác chiến phía Tây Ukraine cho biết trong một tuyên bố hôm Chúa Nhật.
Quân đội Ukraine không cung cấp thêm thông tin chi tiết nhưng chia sẻ một đoạn video được cho là cho thấy các xe Nga tấn công dọc mặt trận phía nam. Đoạn clip cũng được Bộ Tổng tham mưu nước này chia sẻ.
Kể từ tháng 10, Nga đã dần dần tiến quân xung quanh thành phố Avdiivka, gần thủ phủ vùng Donetsk, thành phố Donetsk. Hôm thứ Bảy, Ukraine cho biết họ sẽ rút khỏi khu định cư để tránh lực lượng của mình bị quân đội Nga bao vây.
“Các binh sĩ của chúng tôi đã vinh dự hoàn thành nghĩa vụ quân sự của mình, làm mọi thứ có thể để tiêu diệt các đơn vị quân đội tốt nhất của Nga, và gây cho đối phương những tổn thất đáng kể về nhân lực và trang thiết bị”, Tư lệnh quân đội Ukraine, Đại Tướng Oleksandr Syrskyi, cho biết trong một tuyên bố hôm thứ Bảy..
Nga cho biết họ đang nỗ lực thiết lập quyền kiểm soát hoàn toàn đối với thành phố và xóa bỏ các khu vực kiểm soát cuối cùng của Ukraine.
Một blogger quân sự nổi tiếng của Nga, Rybar, cho biết hôm Chúa Nhật rằng các lực lượng Nga đang rà phá các khu vực do Mạc Tư Khoa kiểm soát ở Avdiivka.
Nga cũng đã tăng cường lực lượng phòng thủ phía đông bắc Ukraine trong những tuần gần đây.
Tuy nhiên, giao tranh vẫn tiếp diễn ở miền nam Ukraine. Quân đội Kyiv hôm Chúa Nhật cho biết họ đã đẩy lùi hơn chục cuộc tấn công vào các vị trí của họ xung quanh làng Robotyne ở Zaporizhzhia.
Bộ Quốc phòng Nga hôm Chúa Nhật cho biết họ đã tiêu diệt 70 binh sĩ Ukraine và một xe chiến đấu bộ binh dọc theo khu vực chiến tuyến bao gồm Robotyne và thị trấn Verbove gần đó.
Tài khoản Rybar hôm Chúa Nhật cho biết các đơn vị Nga đã tiến tới hai km ở một số khu vực của Zaporizhzhia trong những giờ gần đây mà không nêu rõ chi tiết.
Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW, đánh giá hôm thứ Bảy rằng lực lượng Nga đã tiến về phía tây Zaporizhzhia, chiếm lại một vị trí ở phía nam Robotyne. Một số blogger quân sự Nga đã đưa tin về một cuộc tấn công mới từ Mạc Tư Khoa xung quanh thị trấn và lực lượng của Điện Cẩm Linh đang “tích cực tấn công khu định cư”, tổ chức tư vấn cho biết trong bản cập nhật mới nhất của mình.
Ukraine đã nắm quyền kiểm soát Robotyne vào cuối tháng 8 như một phần của cuộc phản công vào mùa hè năm 2023.
3. Tư lệnh Không gian Đức cho biết vũ khí hạt nhân của Nga là mối nguy hiểm cho tất cả mọi người
Tờ Politico có trụ sở ở Washington DC có bài tường trình nhan đề “Russia’s nuclear space weapon a risk for all, says German Space Command chief”, nghĩa là “Tư lệnh Không gian Đức cho biết vũ khí hạt nhân của Nga là mối nguy hiểm cho tất cả mọi người.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Đình Trinh.
Thiếu tướng Michael Traut nói: “Không ai có thể sống sót sau một hành động như vậy”.
Kịch bản tệ hại nhất về vụ nổ vũ khí hạt nhân của Nga trên không gian sẽ là thảm khốc, Tư lệnh Không gian Đức, Thiếu tướng Michael Traut, đã đưa ra lập trường trên.
Phát biểu tại một sự kiện bên lề Hội nghị An ninh Munich, Traut nói rõ rằng có “nhiều câu hỏi hơn câu trả lời” khi nói đến những tiết lộ trong tuần qua ở Hoa Kỳ rằng Nga được hiểu là đang phát triển một số dạng vũ khí hạt nhân chống vệ tinh..
Mặc dù nghe có vẻ giống khoa học viễn tưởng nhưng vẫn chưa rõ liệu vũ khí không gian như vậy là hỏa tiễn trên mặt đất hay tàu vũ trụ chạy bằng năng lượng hạt nhân có khả năng tiêu diệt các vệ tinh trên quỹ đạo.
Traut cho biết, kịch bản xấu nhất về một vụ nổ hạt nhân bừa bãi trong không gian phát ra xung điện từ làm cháy vệ tinh trên quỹ đạo thấp của trái đất sẽ gây thiệt hại nặng nề cho mọi người.
Traut nói: “Nếu ai đó dám cho nổ vũ khí hạt nhân trong bầu khí quyển cao hoặc thậm chí trong không gian, thì điều này ít nhiều sẽ chấm dứt khả năng sử dụng của tài sản chung toàn cầu đó”.
Hậu quả của một cuộc tấn công sẽ là biến hàng ngàn vệ tinh đang nhấp nháy hiện đang hoạt động ồn ào trên quỹ đạo thành rác đồng thời tạo ra những cánh đồng mảnh vụn dày đặc.
Traut nói: “Không ai có thể sống sót sau một hành động như vậy – không có vệ tinh nào, dù là của Trung Quốc hay Nga, Mỹ hay Âu Châu. Nếu ai đó tính toán hợp lý thì sẽ không có ai sử dụng loại vũ khí như vậy trong không gian”.
Traut cho biết, việc triển khai vũ khí hạt nhân trong không gian cũng sẽ đi ngược lại Hiệp ước ngoài vũ trụ năm 1967 của Liên Hiệp Quốc, vì hiệp ước này cấm lắp đặt vũ khí hủy diệt hàng loạt trên quỹ đạo.
Ludwig Möller, Giám đốc Viện Chính sách Vũ trụ Âu Châu, cho biết, nếu Nga phóng vào không gian và phá hủy các vệ tinh thương mại thì sẽ bị ảnh hưởng kinh tế từ ngân hàng đến năng lượng và tiêu tốn hàng ngàn tỷ Mỹ Kim.
Đức đã chính thức mở Bộ Tư Lệnh không gian vào năm ngoái, cùng với Pháp và Vương quốc Anh cũng làm điều tương tự như một phần trong nỗ lực bắt đầu xây dựng hệ thống phòng thủ đáng tin cậy cho cả cơ sở hạ tầng chính phủ và thương mại trên quỹ đạo.
Trong khi những nước như Trung Quốc và Ấn Độ đang nhanh chóng phát triển công nghệ vũ trụ của họ thì cuộc chiến tàn khốc của Nga với Ukraine và việc nước này sẵn sàng thực hiện các thỏa thuận hàng không quân sự với các quốc gia bị trừng phạt như Bắc Hàn và Iran khiến nước này trở thành mối đe dọa cấp bách.
Tuy nhiên, các quan chức ở Washington luôn muốn làm rõ rằng không có mối đe dọa sắp xảy ra từ không gian bất chấp thông tin tình báo.
Cố vấn Tòa Bạch Ốc John Kirby cho biết: “Mặc dù việc Nga theo đuổi khả năng đặc biệt này gây ra bối rối nhưng không có mối đe dọa trực tiếp nào đối với sự an toàn của bất kỳ ai”. “Chúng tôi không nói về một loại vũ khí có thể được sử dụng để tấn công con người hoặc gây ra sự hủy diệt vật chất trên Trái đất.”
4. The Washington Post đưa tin rằng Điện Cẩm Linh thực hiện chiến dịch thông tin sai lệch nhằm làm suy yếu Zelenskiy
Hơn 100 tài liệu của Điện Cẩm Linh được cơ quan tình báo Âu Châu thu được và được The Washington Post xem xét, cho thấy Nga đã thực hiện một chiến dịch thông tin sai lệch nhằm làm suy yếu tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy.
Theo The Washington Post, các tập tin được chia sẻ với họ “lần đầu tiên vạch trần quy mô tuyên truyền của Điện Cẩm Linh nhắm vào Zelenskiy với mục đích chia rẽ và gây bất ổn cho xã hội Ukraine – những nỗ lực mà Mạc Tư Khoa gọi là 'hoạt động tâm lý thông tin'“.
Washington Post cho biết các chỉ thị của Điện Cẩm Linh đã “dẫn đến hàng ngàn bài đăng trên mạng xã hội và hàng trăm bài báo bịa đặt, được tạo ra bởi các nhóm dư luận viên và lưu hành ở Ukraine cũng như khắp Âu Châu” nhằm “cố gắng khai thác những gì được đồn đại là căng thẳng khi đó giữa Zelenskiy và Tổng Tư Lệnh Valerii Zaluzhnyi. Đầu tháng này, Zelenskiy đã sa thải Zaluzhnyi, một cuộc cải tổ quân sự lớn nhất ở Ukraine kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện của Nga bắt đầu gần hai năm trước.
Washington Post cho biết, tại cuộc họp ngày 16/1/2023, phó chánh văn phòng thứ nhất của Điện Cẩm Linh, Sergei Kiriyenko “đã đặt ra 4 mục tiêu chính cho đội tuyên truyền Ukraine: làm mất uy tín của giới lãnh đạo quân sự và chính trị của Kyiv, chia rẽ giới tinh hoa Ukraine, làm mất tinh thần quân đội Ukraine, và làm mất phương hướng của người dân Ukraine”.
Phát ngôn nhân của Điện Cẩm Linh, Dmitry Peskov, nhà lãnh đạo bộ phận phát triển công nghệ thông tin và truyền thông của Điện Cẩm Linh, Tatyana Matveeva, và Alexander Kharichev đã không trả lời yêu cầu bình luận của The Washington Post về nội dung của các tài liệu.
5. Bản đồ chiến tranh Ukraine cho thấy thắng, thua khi Avdiivka rơi vào tay Nga
Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Ukraine War Maps Show Ground Won, Lost As Avdiivka Falls”, nghĩa là “Bản đồ chiến tranh Ukraine cho thấy thắng, thua khi Avdiivka thất thủ.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Các bản đồ mới cho thấy những bước tiến của Nga ở miền đông Ukraine khi lực lượng của Kyiv rút lui khỏi thành phố trọng điểm Avdiivka, đó là chiến thắng lớn đầu tiên của Mạc Tư Khoa kể từ khi chiếm được thành phố Bakhmut đang bị bao vây vào tháng 5 năm ngoái.
Đoạn phim được định vị địa lý hôm thứ Bảy cho thấy các lực lượng Nga đã tiến vào phía bắc và đông bắc Avdiivka, cũng như vào trung tâm thành phố từ phía nam, theo Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW, của Mỹ.
Ukraine hôm thứ Bảy cho biết họ đã rút lui khỏi Avdiivka sau hơn 4 tháng đụng độ ác liệt xung quanh thành phố, nơi đã tồn tại suốt một thập kỷ ở tiền tuyến. Sự thất thủ của Avdiivka là một chiến thắng mang tính biểu tượng và chiến lược đối với Mạc Tư Khoa, đồng thời giáng một đòn mạnh vào hy vọng của Ukraine trong việc giành được thêm viện trợ quân sự từ các đồng minh chủ chốt nhằm duy trì nỗ lực chiến tranh mệt mỏi của mình.
Gây ra bởi cuộc tấn công của Nga vào ngày 10 tháng 10, giao tranh xung quanh Avdiivka ở khu vực phía đông Donetsk bị sáp nhập của Ukraine đã khiến thành phố này bị gắn mác “máy xay thịt”, một thuật ngữ dùng để mô tả các trận chiến kéo dài có số lượng thương vong cao và tiêu tốn nguồn tài nguyên đáng kể. Nó cũng được dùng để mô tả các cuộc đụng độ ở thành phố Bakhmut của Donetsk mà lực lượng Mạc Tư Khoa đã tuyên bố vào tháng 5 năm 2023 sau nhiều tháng giao tranh đẫm máu kéo dài.
Vào mùa thu năm 2022, Nga cho biết họ sẽ sáp nhập các vùng Donetsk, Luhansk, Kherson và Zaporizhzhia của lục địa Ukraine, nhưng không kiểm soát hoàn toàn các vùng lãnh thổ này.
Tư lệnh quân đội Ukraine, Đại tướng Oleksandr Syrskyi, hôm thứ Bảy cho biết lực lượng Kyiv đã rút lui khỏi Avdiivka để “tránh bị bao vây” và cứu mạng các chiến binh của nước này.
Syrskyi cho biết trong một tuyên bố: “Các binh sĩ của chúng tôi đã vinh dự hoàn thành nghĩa vụ quân sự của mình, làm mọi thứ có thể để tiêu diệt các đơn vị quân đội tốt nhất của Nga và gây cho đối phương những tổn thất đáng kể về nhân lực và trang thiết bị”.
Một bản đồ do Viện Nghiên cứu Chiến tranh sản xuất cho thấy vị trí được đánh giá của Nga và Ukraine tính đến thứ Bảy. Các bản đồ mới cho thấy những bước tiến của Nga ở miền đông Ukraine khi lực lượng của Kyiv rút lui... Thêm
Trong khoảng thời gian từ ngày 10 tháng 10 năm 2023 đến ngày 17 tháng 2 năm 2024, lực lượng Nga đã mất hơn 47.000 binh sĩ, 364 xe tăng và 748 xe chiến đấu bọc thép, Chuẩn tướng Oleskandr Tarnavskyi, chỉ huy nhóm lực lượng Tavria của Ukraine bao trùm tiền tuyến xung quanh Avdiivka, cho biết hôm Chúa Nhật..
Bộ Quốc phòng Nga hôm thứ Bảy cho biết các “đơn vị biệt lập” của binh sĩ Ukraine đã tìm cách rời khỏi Avdiivka. Điện Cẩm Linh cho biết lực lượng Mạc Tư Khoa đang nỗ lực “dọn dẹp thành phố” và nhà máy luyện cốc Avdiivka ở phía đông bắc khu định cư. Điện Cẩm Linh cho biết Kyiv đã mất 1.500 chiến binh trong 24 giờ trước đó.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy hôm thứ Bảy cho biết đất nước bị chiến tranh tàn phá này cần thêm viện trợ quân sự từ các nước ủng hộ phương Tây để có cơ hội chống lại các cuộc tấn công tiếp theo của Nga. Viện trợ quân sự trong tương lai vẫn đang được Quốc hội thông qua sau sự phản đối gay gắt của một số nhà lập pháp Đảng Cộng hòa do tranh chấp về kiểm soát biên giới ở miền nam Hoa Kỳ.
“Việc giữ Ukraine trong tình trạng thiếu hụt vũ khí giả tạo, đặc biệt là thiếu hụt pháo binh và khả năng tầm xa cho phép Putin thích ứng với cường độ hiện tại của cuộc chiến,” ông Zelenskiy nói tại Hội nghị An ninh Munich ở Đức.
Tổ chức nghiên cứu ISW đánh giá hôm thứ Bảy rằng sự chậm trễ trong hỗ trợ của phương Tây “có thể dẫn đến những hạn chế đáng kể hơn nữa đối với hệ thống phòng không của Ukraine, điều này có thể cho phép các lực lượng Nga tái tạo sự hỗ trợ trên không ở cự ly gần đã tạo điều kiện cho Nga tiến vào Avdiivka trên quy mô lớn ở Ukraine”.
6. Sau hai năm chiến tranh, Ukraine vẫn có hàng ngàn xe tăng
Ký giả David Axe của tờ Forbes có trụ sở ở New Jersey, Hoa Kỳ có bài tường trình nhan đề “After Two Years Of War, Ukraine Still Has A Thousand Tanks”, nghĩa là “Sau hai năm chiến tranh, Ukraine vẫn có hàng ngàn xe tăng.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Đình Trinh.
31 xe tăng M-1 Abrams mà Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Ukraine đã đến Ukraine vào mùa thu.
Ít nhất bốn tháng sau, những chiếc xe tăng nặng 68 tấn – với pháo nòng trơn 120 ly, hệ thống quang học ngày đêm cao cấp, áo giáp tổng hợp và động cơ tua-bin khí mạnh mẽ nhưng khát nước – vẫn còn ở đâu đó phía sau chiến tuyến.
Chúng tôi không biết khi nào các chỉ huy Ukraine có kế hoạch đưa những chiếc M-1A1SA bốn người cổ điển của những năm 2000 tham gia chiến đấu. Chúng tôi thậm chí còn không biết họ thuộc lữ đoàn nào.
Những gì chúng ta biết là, sau hai năm tham gia cuộc chiến rộng lớn hơn của Nga ở Ukraine, lực lượng Ukraine có số lượng xe tăng hoạt động nhiều như trước khi Nga tấn công vào tháng 2 năm 2022: khoảng một ngàn chiếc. Và phần lớn là do nước ngoài tài trợ các loại xe tăng như M-1.
Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Luân Đôn đưa tin: “Nhìn chung, chúng tôi ước tính rằng hai năm sau cuộc xâm lược toàn diện, số lượng xe tăng chiến đấu chủ lực đang phục vụ trong lực lượng vũ trang Ukraine vẫn gần bằng mức trước chiến tranh”.
Nhưng có một nhược điểm. Lực lượng mặt đất của Ukraine đã tăng gấp đôi quy mô kể từ năm 2022. Ngày nay có khoảng một trăm lữ đoàn lục quân, Nhảy Dù, thủy quân lục chiến, lãnh thổ và vệ binh quốc gia, mỗi lữ đoàn có ít nhất 2.000 người và rất nhiều phương tiện.
Vì vậy, theo Oryx, mặc dù Ukraine ít nhất đã cố gắng duy trì tổng lượng xe tăng tồn kho ngay cả sau khi mất khoảng 700 xe tăng trong chiến đấu, nhưng theo Oryx, nhu cầu xe tăng của nước này ngày nay lớn hơn nhiều so với năm 2022.
Nếu mỗi lữ đoàn có một tiểu đoàn với 31 xe tăng thì Ukraine sẽ cần tới hơn 3.000 xe tăng.
Ukraine không có 3.000 xe tăng. Trừ đi 700 tổn thất từ sức mạnh trước chiến tranh là 1.000, sau đó cộng thêm 500 xe tăng mà Ukraine thu được từ người Nga, vài trăm xe tăng của Liên Xô cũ mà các kỹ thuật viên Ukraine đã thu hồi được từ kho lưu trữ lâu dài và 600 xe tăng khác mà Ukraine cho đến nay đã nhận được từ các đồng minh của mình. Kho hiện tại có khoảng 2.000 xe tăng.
Giảm một nửa con số đó để tính đến khối lượng lớn xe tăng đi qua các xưởng ở khu vực phía sau để sửa chữa và nâng cấp và bạn sẽ đạt được con số tương tự mà IISS đã đạt được. Một ngàn xe tăng.
Nhưng như vậy là đủ cho 30 tiểu đoàn tiền tuyến hoặc ít hơn một trăm đại đội tiền tuyến một chút.
Khi cuộc chiến rộng lớn hơn của Nga bước sang năm thứ ba, Ukraine sẽ cần thêm xe tăng. Và do ngành công nghiệp Ukraine vẫn chưa sản xuất xe tăng mới nên nước này sẽ phải mua chúng từ các đồng minh.
Nhưng không phải là từ Hoa Kỳ. Người Mỹ đã không tặng bất kỳ chiếc xe mới nào trong gần hai tháng.
31 chiếc M-1 đó, nằm đâu đó phía sau chiến tuyến, có thể là những chiếc M-1 duy nhất Ukraine từng có.
7. Josep Borrell nói: 'Cam kết an ninh quan trọng nhất' đối với Ukraine là đưa nước này trở thành thành viên Liên Hiệp Âu Châu
Phát biểu tại Hội nghị An ninh Munich hôm Chúa Nhật, nhà lãnh đạo chính sách đối ngoại của Liên Hiệp Âu Châu, Josep Borrell, cho biết các vấn đề địa chính trị quan trọng nhất mà Liên Hiệp Âu Châu phải đối mặt ngày nay có liên quan đến Ukraine, Gaza và miền Nam toàn cầu - cũng như quốc phòng.
Ông nói: “Chúng ta phải tăng cường và cung cấp cho Ukraine các cam kết an ninh”, đồng thời cho biết thêm rằng “cam kết an ninh quan trọng nhất đối với Ukraine là tư cách thành viên” của Liên Hiệp Âu Châu.
Ông cũng cảnh báo rằng “chúng ta phải xem xét các kịch bản khác nhau về mức độ tham gia của Mỹ đối với an ninh Âu Châu”.
8. Putin nói Ukraine là 'vấn đề sống còn' của Nga
Trong bài phát biểu được phát sóng hôm Chúa Nhật, 18 Tháng Hai, Vladimir Putin cho biết các sự kiện trên chiến trường Ukraine là vấn đề “sinh tử” đối với Nga và có thể quyết định số phận của nước này.
Điện Cẩm Linh đã nhiều lần coi cuộc xung đột kéo dài gần hai năm này là một cuộc chiến sinh tồn của Nga nhằm khơi dậy tình cảm yêu nước trong người dân, dù thế, nhiều người vẫn thờ ơ với cuộc xâm lược và coi đó là một cuộc chiến của riêng cá nhân Putin.
“Tôi nghĩ điều quan trọng đối với bản thân chúng ta và thậm chí còn quan trọng hơn đối với khán thính giả ở nước ngoài là hiểu được cách suy nghĩ của chúng ta”, ông Putin nói trong một cuộc phỏng vấn với đài truyền hình nhà nước.
Ông nói: “Mọi thứ đang diễn ra trên mặt trận Ukraine: Đối với họ, đó là sự cải thiện vị trí chiến thuật của họ, nhưng đối với chúng ta, đó là số phận của chúng ta, đó là vấn đề sống chết”.
Putin đang trả lời câu hỏi về cuộc phỏng vấn kéo dài hai giờ đồng hồ mà ông dành cho người dẫn chương trình talkshow Hoa Kỳ Tucker Carlson, cuộc phỏng vấn mà Điện Cẩm Linh đã sử dụng để quảng bá các bài tường thuật của mình về cuộc xung đột.
Trong cuộc phỏng vấn đó, Putin đã nói rất nhiều về lịch sử nước Nga và liên tục đặt câu hỏi về tư cách nhà nước của Ukraine, khiến cả Kyiv và phương Tây phẫn nộ.
“Đối với người nghe, người xem phương Tây, điều đó không hề dễ dàng. Thậm chí còn hơn thế đối với người Mỹ,” ông Putin nói khi được hỏi về những suy ngẫm lịch sử lâu dài của ông trong cuộc phỏng vấn với Carlson.
“Lịch sử Hoa Kỳ có hơn 300 năm, và lịch sử chúng ta bắt đầu từ năm 862. Vì vậy, tôi nghĩ khán giả Mỹ không dễ hiểu,” ông nói.
9. Trung Quốc nói với Ukraine 'không bán vũ khí sát thương' cho Nga
Ngoại trưởng Trung Quốc đã nói với Ngoại trưởng Ukraine rằng Bắc Kinh không bán vũ khí sát thương cho Nga để phục vụ cuộc chiến chống Ukraine, một tuyên bố hôm Chúa Nhật cho biết.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Mao Ninh cho biết Vương Nghị đã nói với Dmytro Kuleba trong cuộc họp bên lề Hội nghị An ninh Munich hôm thứ Bảy rằng Trung Quốc “không lợi dụng tình hình và không bán vũ khí sát thương cho các khu vực xung đột hoặc các bên xung đột “
Trung Quốc cho biết họ là một bên trung lập trong cuộc xung đột Ukraine nhưng đã bị chỉ trích vì từ chối lên án Mạc Tư Khoa vì hành động tấn công của nước này.
Trung Quốc và Nga đã tăng cường hợp tác kinh tế và liên lạc ngoại giao trong những năm gần đây, và mối quan hệ đối tác chiến lược của họ đã phát triển gần gũi hơn kể từ khi Mạc Tư Khoa xâm chiếm Ukraine.
Bắc Kinh đã phải đối mặt với những cáo buộc rằng họ đang cung cấp vũ khí sát thương cho Nga, những cáo buộc mà họ luôn phủ nhận.
Theo thông tin của Bộ, ông Vương nói với Kuleba: “Cho dù tình hình quốc tế có thay đổi như thế nào, Trung Quốc vẫn hy vọng rằng quan hệ Trung Quốc-Ukraine sẽ phát triển bình thường và tiếp tục mang lại lợi ích cho nhân dân hai nước”.
“Một lần nữa, tôi muốn cảm ơn Ukraine vì đã giúp người dân Trung Quốc di tản an toàn trong điều kiện khẩn cấp”, Mao Ninh nói. “Người dân Trung Quốc sẽ không bao giờ quên điều đó.”
Cô ta cũng cho biết ông Vương nhấn mạnh rằng Trung Quốc tuân thủ giải pháp chính trị cho các vấn đề nóng bỏng và nhất quyết thúc đẩy các cuộc đàm phán hòa bình.
“Chúng tôi sẽ tiếp tục đóng vai trò mang tính xây dựng trong việc sớm kết thúc chiến tranh và tái lập hòa bình”, ông Vương nói với Kuleba.
“Ngay cả khi chỉ còn một tia hy vọng hòa bình, Trung Quốc sẽ không từ bỏ nỗ lực của mình”.
10. Lula của Brazil lên tiếng bênh vực cho Putin về trường hợp của Navalny.
Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva hôm Chúa Nhật cho biết cần tiến hành một cuộc điều tra kỹ lưỡng về cái chết của nhà phê bình nổi tiếng Điện Cẩm Linh Alexei Navalny trước khi đưa ra bất kỳ cáo buộc nào.
Nhận xét của ông trái ngược hẳn với những lời chỉ trích mạnh mẽ và nhanh chóng của các nhà lãnh đạo phương Tây đối với Nga về cái chết của Navalny khi bị giam trong một nhà tù cách Vòng Bắc Cực khoảng 40 dặm về phía bắc hôm thứ Sáu. Tổng thống Mỹ Joe Biden cho rằng Putin và đám “côn đồ của ông ta” phải chịu trách nhiệm.
Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov bác bỏ những cáo buộc như vậy là không thể chấp nhận được.
Phát biểu tại cuộc họp báo sau khi tham dự hội nghị thượng đỉnh Liên minh Phi Châu tại Addis Ababa ở Ethiopia, Lula cho biết việc kiềm chế đưa ra lập trường về cái chết vào thời điểm này là vấn đề “hợp lý”.
Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva nói rằng 'đưa ra lời buộc tội là tầm thường hóa' cái chết của nhà phê bình Điện Cẩm Linh Alexei Navalny.
“Một công dân đã chết trong tù, tôi không biết anh ta có bị bệnh hay có vấn đề gì không. Việc buộc tội là tầm thường hóa. Tôi hy vọng nhân viên điều tra sẽ đưa ra lời giải thích tại sao cá nhân đó lại chết, chỉ vậy thôi.”
Bình luận của Lula phản ánh việc các quốc gia ngoài phương Tây đã không tham gia cùng phương Tây trong nỗ lực cô lập sâu sắc Putin về cuộc xâm lược Ukraine và các vấn đề khác.
Lula đã nhiều lần kêu gọi hòa bình ở Ukraine và nói rằng lẽ ra Nga không nên xâm lược, nhưng ông cho rằng Mỹ đã kéo dài cuộc chiến một cách không cần thiết.
ĐHY Gerhard Müller Tuyên ngôn Fiducia chứa đựng những giáo huấn trái ngược với đức tin Công Giáo
VietCatholic Media
05:34 20/02/2024
1. Hy Lạp trở thành quốc gia Kitô giáo chính thống đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới
Hy Lạp đã trở thành quốc gia Chính thống giáo đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới sau khi quốc hội Athens thông qua cuộc cải cách mang tính bước ngoặt trong bối cảnh cả nước vừa hân hoan vừa giận dữ.
Trong một sự thể hiện sự đồng thuận hiếm hoi của quốc hội, 176 nghị sĩ từ khắp các phe phái khác nhau đã bỏ phiếu ủng hộ dự luật vào hôm thứ Năm. 76 người khác phản đối dự luật trong khi hai người bỏ phiếu trắng và 46 người không có mặt.
Cuộc bỏ phiếu diễn ra sau hai ngày tranh luận sôi nổi - và nhiều tuần công khai chỉ trích – dự luật được những người ủng hộ mô tả là “táo bạo” và “đã quá hạn lâu” và bị các đối thủ bao gồm cả Giáo Hội Chính thống chỉ trích là “phản xã hội” và “phản Kitô giáo”.
Mặc dù phải đối mặt với sự phản đối dữ dội từ nội bộ đảng Dân chủ Mới trung hữu của mình, thủ tướng Kyriakos Mitsotakis vẫn ủng hộ dự luật, nói rằng nó sẽ chấm dứt “sự bất bình đẳng nghiêm trọng đối với nền dân chủ của chúng ta”.
Trong một bài phát biểu đầy nhiệt huyết trước cuộc bỏ phiếu, nhà lãnh đạo 55 tuổi, thuộc phe tự do trong đảng của ông, cho biết biện pháp này sẽ gắn kết Hy Lạp với 36 quốc gia trên toàn cầu đã ban hành luật về vấn đề này. Ông cho rằng chủ nghĩa bảo thủ không nên bị nhầm lẫn với những quan điểm lạc hậu, không đồng bộ với xã hội hiện đại.
Mitsotakis nói: “Cuộc cải cách mà chúng tôi đang lập pháp ngày hôm nay… sẽ làm cho cuộc sống của một số đồng bào của chúng tôi trở nên tốt đẹp hơn nhiều mà không lấy đi bất cứ thứ gì khỏi cuộc sống của nhiều người,” Mitsotakis nói và nói thêm rằng luật sẽ mang lại đầy đủ quyền lợi cho họ. quyền của cha mẹ đối với các cặp đồng giới.
“Chúng tôi đang lấp đầy khoảng trống bằng cách cho phép mọi người, nếu họ muốn, gắn kết mối quan hệ của họ về mặt thể chế giống như các cặp đôi dị tính vẫn làm.”
Nhưng sự phản kháng đã rất mạnh mẽ từ các nghị sĩ Đảng Dân chủ Mới.
Cựu thủ tướng Antonis Samaras đã nói với quốc hội trước đó vào thứ Năm rằng hôn nhân đồng giới không phải là nhân quyền và luật “nguy hiểm” đáng lẽ không nên được đưa ra.
Nếu không có sự hậu thuẫn của Syriza, đảng cánh tả đối lập chính do Stefanos Kasselakis, nhà lãnh đạo chính trị đồng tính đầu tiên của Hy Lạp lãnh đạo, và các nhóm nhỏ khác, dự luật có lẽ không thể được thông qua.
Source:The Guardian
2. Cựu Tư lệnh quân đội Ý được bổ nhiệm làm Giám đốc Cơ sở hạ tầng và Dịch vụ tại Vatican
Cho đến tháng 2 hai năm trước, Tướng Salvatore Farina là Tham mưu trưởng Quân đội Ý và thậm chí trước đó là tư lệnh NATO ở Hà Lan và Kosovo. Hiện ông đã nghỉ hưu và giảng dạy về gìn giữ hòa bình và chuyển đổi xung đột tại Đại học Latêranô.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã triệu ông đến Vatican và bổ nhiệm ông làm Giám đốc Tổng cục Cơ sở hạ tầng và Dịch vụ của Chính quyền, thực tế là tất cả các quyết định tổ chức của các dịch vụ kỹ thuật bao gồm việc xây dựng, phòng thí nghiệm, người bán hoa, xe máy và việc chăm sóc các khu vườn ở Vatican - tất nhiên bao gồm cả các hợp đồng, phải được thông qua bàn của anh ta. Đương nhiên, Farina cũng sẽ phải chuẩn bị cho Năm Thánh và do đó sẽ là người đối thoại có giá trị đối với Nhà nước Ý.
Farina, người gốc Gallipoli, nơi ông sinh năm 1957, là một chuyên gia quân sự thường được phỏng vấn về các kịch bản chiến tranh. Chương trình giảng dạy của ông phản ánh một cuộc đời binh nghiệp rực rỡ. Ông có ba bằng thạc sĩ - về kỹ thuật điện, khoa học chiến lược, khoa học quốc tế và ngoại giao - và bằng thạc sĩ cấp hai về “quản lý tài nguyên quốc phòng” tại Viện Quốc phòng Hoa Kỳ ở Monterey, California.
Tại Vatican, việc bổ nhiệm ông đã gây ra nhiều sự tò mò cũng bởi vì vị tướng này chưa chính thức được giao nhiệm vụ giám sát bất cứ điều gì liên quan đến an ninh hoặc viễn thông. Ông thay thế linh mục Rafael García de la Serrana Villalobos, thuộc Giáo hạt Opus Dei, người vừa rời chức vụ này.
Luật mua sắm mới được Đức Giáo Hoàng cập nhật vào Tháng Giêng quy định rằng chính Giám đốc Tổng cục Cơ sở hạ tầng và Dịch vụ là người chỉ định tên của các nhân viên thuộc Văn phòng Dự án sẽ được ghi danh vào Danh sách cụ thể của các nhà thiết kế. Nó cũng sẽ cho phép đơn giản hóa hơn nữa các thủ tục mua sắm. Văn bản, bao gồm 86 điều khoản, cũng bảo đảm, “việc tối ưu hóa các hoạt động mua sắm mang tính chức năng để những người và chính quyền liên quan có thể hoạt động dễ dàng”. Trong bối cảnh này, các biện pháp kiểm soát ghi danh hoạt động kinh tế trong Sổ ghi danh cũng đã được cập nhật, đơn giản hóa thủ tục xác minh.
Source:ilmessaggero.it
3. Đức Hồng Y Gerhard Müller nhận định: Tuyên ngôn Fiducia Supplicans có vấn đề về giáo lý
Đức Hồng Y Gerhard Müller, nguyên tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin vừa có bài viết nhan đề “Does Fiducia Supplicans Affirm Heresy?”, nghĩa là “Fiducia Supplicans có xác nhận dị giáo không?”
Tuyên bố gần đây của Vatican Fiducia Supplicans có chứa đựng những giáo lý trái ngược với đức tin thiêng liêng và Công Giáo không? Bộ Giáo lý Đức tin đã trả lời câu hỏi này trong một thông cáo báo chí phát hành vào ngày 4 Tháng Giêng, nhằm đáp lại mối quan tâm của nhiều vị giám mục và nhiều Hội đồng Giám mục. Thông cáo báo chí bảo vệ tính chính thống của Fiducia Supplicans bằng cách trích dẫn nó, lập luận rằng Tuyên ngôn này không hề thay đổi giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về hôn nhân và tình dục và không nêu bất cứ điều gì là dị giáo. Thông cáo báo chí lập luận rằng Fiducia Supplicans không quan tâm đến vấn đề giáo lý mà chỉ quan tâm đến các vấn đề thực tế và đơn giản là nó cần được điều chỉnh cho phù hợp với các bối cảnh và mức độ nhạy cảm khác nhau.
Nhưng thực ra có đơn giản như vậy không? Trên thực tế, lời chỉ trích từ các giám mục không hề cho rằng Tuyên ngôn phủ nhận thẳng thừng giáo huấn của Giáo hội về hôn nhân và tính dục. Đúng hơn, các ngài chỉ trích rằng việc cho phép chúc lành cho các cặp quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, đặc biệt là các cặp đồng giới, là phủ nhận giáo huấn Công Giáo trên thực tế, nếu không muốn nói là bằng lời nói. Lời chỉ trích dựa trên một nguyên tắc truyền thống vững chắc: lex orandi, lex credendi— đó là nguyên tắc cho rằng cách Giáo hội cầu nguyện phản ánh những gì Giáo hội tin tưởng. Như Sách Giáo lý dạy: “Khi Giáo hội cử hành các bí tích, Giáo hội tuyên xưng đức tin đã nhận được từ các thánh tông đồ”.
Trên thực tế, có những thực hành Công Giáo không thể thay đổi nếu không bác bỏ giáo lý Công Giáo. Chẳng hạn, hãy nghĩ đến điều mà Công đồng Trentô gọi là bản chất của các bí tích, nghĩa là những yếu tố của các bí tích đã được chính Chúa Kitô thiết lập. Một sự thay đổi ảnh hưởng đến bản chất này, ngay cả khi đó là một sự thay đổi trên thực tế, sẽ là một sự bác bỏ giáo lý Công Giáo. Ví dụ, nếu ai đó một mặt khẳng định giáo huấn Công Giáo về phép rửa tội, nhưng mặt khác lại chấp nhận Bí tích Thánh Thể dành cho những người chưa được rửa tội, thì người đó, trên thực tế, đang bác bỏ giáo huấn Công Giáo. Thánh Thomas nói rằng những mâu thuẫn như vậy đã tạo ra “sự giả dối trong các dấu chỉ bí tích”.
Như thế, câu hỏi đặt ra là liệu việc chấp nhận các “phép lành” “mục vụ” và phi phụng vụ do Fiducia Supplicans đề xuất cho các cặp vợ chồng trong những hoàn cảnh trái luật có cấu thành việc phủ nhận giáo lý Công Giáo hay không – có thể không phải bằng sự phủ nhận rõ ràng, mà là trong thực tế. Thông cáo báo chí do Bộ Giáo Lý Đức Tin đưa ra KHÔNG đá động gì đến câu hỏi này. Vì vậy cần phải kiểm tra nó một cách chi tiết.
Trước hết, chúng ta phải xem xét sự khác biệt giữa các phép lành phụng vụ và các phép lành mục vụ thuần túy, vì Fiducia Supplicans dựa vào sự phân biệt này. Fiducia Supplicans lập luận rằng những “phép lành mục vụ” mới này dành cho các cặp vợ chồng trong những hoàn cảnh trái luật không phải là phụng vụ. Giờ đây, sự phân biệt giữa các phước lành này là một điều mới lạ mà Fiducia Supplicans giới thiệu, điều này không hề có cơ sở dù là nhỏ nhất trong Kinh thánh, trong các giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng, hoặc Huấn quyền. Fiducia Supplicans tuyên bố rằng “các phép lành mục vụ” không mang tính phụng vụ. Tuy nhiên, chúng có cấu trúc phụng vụ, theo ví dụ được đưa ra trong thông cáo báo chí của Bộ Giáo Lý Đức Tin (một lời cầu nguyện kèm theo dấu thánh giá). Và trong mọi trường hợp, phụng vụ trong Kitô giáo không được đo lường, như trong các tôn giáo khác, bằng đồ vật, lễ phục hoặc bàn thờ. Việc chính một linh mục, đại diện cho Chúa Kitô, là người ban “phước lành mục vụ” này khiến nó trở thành một hành vi phụng vụ trong đó thẩm quyền của Chúa Kitô và Giáo hội đang bị đe dọa. Công đồng Vatican II nhấn mạnh đến mối liên kết không thể tách rời giữa mọi hành động của linh mục và phụng vụ (xem Presbyterorum ordernis).
Hơn nữa, mọi phép lành, dù long trọng hay không, đều bao hàm sự tán thành điều được chúc phúc. Đây là điều mà truyền thống lâu dài của Giáo Hội, dựa trên Kinh Thánh, đã dạy. Trên thực tế, từ Hy Lạp được sử dụng trong Tân Ước để chỉ “phước lành” là eulogein, giống như từ benedicere trong tiếng Latinh, có nghĩa đen là “nói rằng điều gì đó là tốt”. Hơn nữa, trong Kinh thánh, chúc phúc cho một điều gì đó không chỉ là tuyên bố nó tốt, mà còn nói rằng nó tốt vì nó đến từ Đấng Tạo Hóa. Những lời chúc phúc được gửi đến sự sáng tạo của Thiên Chúa, điều mà Ngài thấy là rất tốt đẹp, để chính Thiên Chúa có thể làm cho nó trưởng thành và viên mãn. Vì lý do này, không thể cầu xin phép lành cho các mối quan hệ hoặc tình huống có tính chất mâu thuẫn hoặc bác bỏ trật tự của tạo vật, chẳng hạn như sự kết hợp dựa trên thực hành đồng tính luyến ái, mà Thánh Phaolô coi là hậu quả của việc phủ nhận kế hoạch của Đấng Tạo Hóa (Rôma 1:21–27). ). Nhu cầu này phải hài hòa với trật tự tạo dựng, áp dụng cho mọi loại phép lành, bất kể tính chất long trọng hay không của nó.
Chúng ta nên lưu ý rằng Bộ Giáo Lý Đức Tin ngầm thừa nhận rằng những phước lành này (bao gồm cả những phước lành mục vụ) chấp thuận những gì đang được ban phước. Đó là lý do tại sao thông cáo báo chí phải chịu khó phân biệt đâu là lời chúc đôi lứa và đâu là lời chúc cho sự kết hiệp. Nếu đúng là những phép lành mục vụ này không hợp pháp hóa bất cứ điều gì, thì sẽ không có vấn đề trong việc chúc lành mục vụ cho sự kết hợp. Nỗ lực của Bộ Giáo Lý Đức Tin nhằm làm sáng tỏ rằng sự kết hợp không hề được chúc phúc, đã bộc lộ rằng Bộ Giáo Lý Đức Tin coi “phép lành mục vụ” là một sự chấp thuận, và do đó phải nhấn mạnh rằng chính cặp vợ chồng chứ không phải sự kết hợp mới được chúc phúc.
Thành ra, vì không thể phân biệt giữa các phép lành phụng vụ và mục vụ, người ta phải kết luận rằng Fiducia Supplicans có vấn đề về mặt giáo lý, bất kể Tuyên ngôn này khẳng định giáo lý Công Giáo bằng ngôn từ đến mức nào. Vì vậy, không thể nói rằng vấn đề chỉ mang tính thực tiễn và tùy thuộc vào sự nhạy cảm của các vùng miền khác nhau. Chúng ta đang đề cập đến một vấn đề liên quan đến cả luật tự nhiên lẫn sự khẳng định của Phúc âm về sự thánh thiêng của thân xác, và những vấn đề này ở Malawi không khác gì ở Đức.
Nhưng Bộ Giáo Lý Đức Tin cũng đã sử dụng hai điểm khác biệt nữa để tránh thừa nhận rằng Fiducia Supplicans ngụ ý chấp thuận các kết hợp đồng tính luyến ái. Sự phân biệt đầu tiên là giữa lời chúc cho sự kết hợp và lời chúc phúc cho đôi lứa. Sự phân biệt này có thể thực hiện được không? Không, thật vậy, nếu người ta chúc phúc cho một cặp đôi như một cặp vợ chồng, nghĩa là được hợp nhất bằng một mối quan hệ tình dục khác ngoài hôn nhân, thì người ta chấp nhận sự kết hợp đó, vì chính sự kết hợp đó đã tạo nên họ như một cặp vợ chồng. Sẽ là một vấn đề khác nếu cặp đôi được chúc phúc không phải với tư cách là một cặp đồng tính, mà chẳng hạn như một cặp khách hành hương đến gần một đền thờ. Nhưng đây không phải là ý của Fiducia Supplicans, và đó là lý do tại sao Tuyên ngôn này nói đến việc chúc phúc cho các cặp vợ chồng trong tình trạng bất hợp lệ, kể cả các cặp đồng giới.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét sự phân biệt thứ hai: Có thể cho rằng điều được chúc phúc không phải là một cặp đôi được hợp nhất bởi mối quan hệ tình dục, mà là một cặp đôi được hợp nhất bởi các khía cạnh khác của cuộc sống, chẳng hạn, qua sự giúp đỡ họ dành cho nhau trong quá trình làm việc, hay qua một căn bệnh, có thể nói như thế không? Sự phân biệt này không làm thay đổi sự thật rằng cặp đôi được chúc phúc như một cặp vợ chồng được kết hợp với nhau bằng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Vì điều tiếp tục cấu thành nên cặp đôi chính là mối quan hệ tình dục gắn kết họ. Các khía cạnh khác của cuộc sống vợ chồng của họ không phải là những gì tạo nên họ như một cặp vợ chồng, và tất cả những khía cạnh này cũng không thành công trong việc cải thiện lối sống tình dục khiến họ trở thành một cặp vợ chồng hợp luật, như Phản hồi năm 2021 của Bộ Giáo lý Đức tin đã khẳng định.
Khi Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, thảo luận về cách ban những phép lành này, ngài ngụ ý rằng vấn đề không phải là chúc phúc cho cặp đôi. Chẳng hạn, ngài gợi ý rằng nên làm dấu thánh giá cho mỗi người, chứ không phải cho cặp đôi. Tuy nhiên, Đức Hồng Y không muốn làm rõ rằng cặp vợ chồng không thể được chúc phúc, và tiếp tục chấp nhận những dấu chỉ – chẳng hạn như lời cầu nguyện chung cho hai người – là những dấu hiệu mang lại tính hợp pháp dưới mắt Giáo hội cho sự tồn tại của cặp vợ chồng như một điều tốt cho những con người trong kết hiệp ấy. Đức Hồng Y cũng đã từ chối lên án một số cử hành nhất định, chẳng hạn như phước lành mà Cha James Martin đã đưa ra một cách công khai, trong đó có nội dung rõ ràng gửi đến cặp đôi.
Gần đây, chúng ta nhận thấy một sự thay đổi ngữ nghĩa mới trong các giải thích chính thức của Fiducia Supplicans. Họ không còn nói đến việc chúc lành cho “các cặp vợ chồng” mà là cho “các cá nhân”, thêm vào đó là về những người “ở bên nhau”. Giờ đây, chúc phúc cho hai người đến với nhau chính vì mối quan hệ đồng giới đã gắn kết họ không khác gì chúc phúc cho sự kết hợp. Cho dù người ta có nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần rằng người ta không chúc phúc cho sự kết hợp, thì đó chính xác là điều người ta đang làm, bởi chính tính khách quan của nghi thức đang được thực hiện.
Sau khi xác định rằng vấn đề cơ bản mang tính giáo lý, chúng ta nên mô tả lỗi lầm của Fiducia Supplicans như thế nào? Đây có phải là dị giáo không?
Hãy xem xét giáo huấn cổ điển về các đối tượng khác nhau của giáo huấn - huấn quyền và việc tín hữu tuân theo các giáo huấn đó. Học thuyết này được chứa đựng trong tự sắc “Ad tuendam Fidem” hay “Để bảo vệ đức tin” của Đức Gioan Phaolô II, trong đó trình bày ba “đoạn” Tuyên xưng Đức tin được thực hiện khi đảm nhận các chức vụ khác nhau trong giáo hội. Đoạn đầu tiên đề cập đến những chân lý chứa đựng trong mặc khải; việc phủ nhận những sự thật này cấu thành tà giáo. Đoạn thứ hai đề cập đến những sự thật, mặc dù không có trong mặc khải, nhưng có liên quan mật thiết với mặc khải và cần thiết cho việc bảo tồn kho tàng được tiết lộ. Đây là những sự thật mà, vì mối liên hệ lịch sử hoặc hợp lý của chúng với những sự thật được mặc khải, nên phải được chấp nhận và giữ vững một cách chắc chắn và dứt khoát. Những người phủ nhận những sự thật như vậy là đi ngược lại giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, ngay cả khi bản thân những khẳng định của họ không thể bị coi là dị giáo. Đoạn thứ ba của lời tuyên xưng đức tin đề cập đến những chân lý được Huấn quyền thông thường dạy, phù hợp với tâm trí và ý chí tôn giáo.
Làm thế nào điều này áp dụng cho trường hợp của chúng ta? Lời khẳng định rằng các hành vi đồng tính luyến ái trái với luật Chúa là một sự thật được mặc khải; phủ nhận nó sẽ vi phạm đoạn đầu tiên của Tuyên xưng Đức tin và sẽ là dị giáo. Sự từ chối này không được tìm thấy ở Fiducia Supplicans. Việc chấp nhận lời chúc phúc hôn nhân cho các cặp đồng giới cũng là điều dị giáo. Điều này cũng không được tìm thấy trong Fiducia Supplicans. Vì vậy, Fiducia Supplicans dường như không vi phạm đoạn đầu tiên. Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể phân loại lời khẳng định của Tuyên ngôn này rằng sự kết hợp tình dục ngoài hôn nhân có thể được ban một thứ phước lành ngoài hôn nhân? Ngay cả khi người ta lập luận rằng lời khẳng định này không bị bác bỏ một cách rõ ràng trong mạc khải, thì lời khẳng định này ít nhất vi phạm đoạn thứ hai của Tuyên xưng Đức tin, vì, như chúng ta đã thấy, ban phước cho những người này như những cặp đồng giới là chấp thuận sự kết hợp của họ, ngay cả khi sự kết hiệp ấy không được coi là hôn nhân. Do đó, đây là một học thuyết trái ngược với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, vì việc chấp nhận nó, ngay cả khi không trực tiếp là dị giáo, một cách hợp lý cũng dẫn đến dị giáo.
Vì tất cả những lý do này, Fiducia Supplicans phải được coi là có vấn đề về mặt giáo lý, vì nó chứa đựng sự phủ nhận giáo lý Công Giáo. Vì lý do này, Tuyên ngôn này cũng có vấn đề xét theo quan điểm mục vụ. Thật vậy, một mục tử tốt lành tiếp cận mọi người đang gặp khó khăn với tư cách là thầy dạy các giới răn của Chúa, khuyên họ cầu nguyện với Chúa, và, trong trường hợp phạm tội nặng, dẫn họ đến việc ăn năn, xưng tội và đổi mới cuộc sống nhờ sự tha thứ qua Bí tích Giải tội. Điều ngài sẽ không bao giờ làm trong việc chăm sóc mục vụ cho người Công Giáo trong các mối quan hệ tình dục bất thường là đưa ra những so sánh giữa phép lành của Thiên Chúa dành cho hôn nhân giữa người nam và người nữ và cái gọi là phép lành ngoài phụng vụ dành cho những người có mối quan hệ tội lỗi. Trong trường hợp hai người sống trong một hoàn cảnh bất hợp lệ, có lý do mục vụ nào để chúc phúc cho những người đó cùng nhau chứ không phải với tư cách cá nhân? Tại sao những người này lại muốn được chúc phúc cùng nhau, nếu không phải vì họ muốn được Chúa chấp thuận cho sự kết hợp của họ? Do đó, chúc phúc cho họ cùng nhau có nghĩa là chấp nhận tội lỗi của họ và khiến họ xa lánh Thiên Chúa.
Nguyên tắc tất cả chúng ta đều là tội nhân và do đó không thể phân biệt giữa các tội nhân với những người khác cũng không phù hợp với một mục tử tốt lành. Kinh Thánh phân biệt các loại tội lỗi, như chúng ta đọc trong Tin Mừng Gioan: “Mọi hành vi sai trái đều là tội lỗi, nhưng có tội không đến nỗi chết người” (1 Gioan 5:17). Giáo huấn của Giáo hội, dựa trên Kinh thánh, phân biệt giữa tội nhẹ (không nhất thiết đòi hỏi sự xá tội để được tha) và tội trọng đòi phải nhận được ơn xá giải. Giáo Hội cũng phân biệt những tội lỗi công khai với những tội lỗi không công khai, cũng như phân biệt những tội nhân sẵn sàng ăn năn với những tội nhân ngoan cố là những người cố chấp trong tội lỗi của mình. Những sự khác biệt này rất quan trọng, không phải để đánh giá con người mà để giúp họ chữa lành. Tương tự như vậy, một bác sĩ giỏi cần đưa ra những chẩn đoán khác nhau cho những trường hợp khác nhau, vì không phải mọi căn bệnh đều có thể được điều trị theo cùng một cách.
Tóm lại, chừng nào Bộ Giáo Lý Đức Tin vẫn tiếp tục không sửa lỗi Fiducia Supplicans bằng cách làm rõ rằng không thể ban phước lành cho cặp đôi mà chỉ có thể cho từng cá nhân, thì Bộ Giáo Lý Đức Tin đang chấp thuận những tuyên bố trái ngược với ít nhất đoạn thứ hai của Lời tuyên xưng đức tin. —nghĩa là, nó chấp nhận những tuyên bố trái ngược với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, những giáo huấn mà bản thân chúng không mang tính dị giáo nhưng tất yếu sẽ dẫn đến dị giáo. Điều này có nghĩa là các phép lành mục vụ dành cho các cuộc kết hợp bất thường này không thể được các tín hữu Công Giáo chấp nhận, và đặc biệt là những người, khi đảm nhận một chức vụ trong giáo hội, đã tuyên xưng đức tin và đưa ra lời thề trung thành, trong đó trước hết đòi hỏi phải bảo tồn toàn bộ kho tàng đức tin.
Việc từ chối chấp nhận Fiducia Supplicans, có thể được bày tỏ công khai trong chừng mực liên quan đến lợi ích chung của Giáo hội. Việc từ chối như vậy không hàm ý bất kỳ sự thiếu tôn trọng nào đối với Đức Thánh Cha, là người đã ký văn bản Fiducia Supplicans; nhưng ngược lại. Vì việc phục vụ Đức Thánh Cha là do ngài thực hiện chính xác trong chừng mực ngài là người bảo đảm cho tính liên tục của tín lý Công Giáo, và việc phục vụ này được vinh danh chủ yếu bằng cách vạch trần những khiếm khuyết nghiêm trọng của Fiducia Supplicans.
Tóm lại, việc thi hành Huấn quyền không thể chỉ giới hạn ở việc cung cấp thông tin chính xác về mặt giáo lý về “sự thật của Tin Mừng” (Gal. 2:14). Thánh Phaolô công khai và không ngần ngại phản đối việc Phêrô, anh trai ngài thực thi quyền tối thượng một cách mơ hồ trong hoạt động tông đồ, bởi vì Phêrô, qua hành vi sai lầm của mình, đã gây nguy hiểm cho đức tin chân chính và ơn cứu rỗi của các tín hữu, không phải là nguy hiểm cho đức tin được các tín hữu tuyên xưng, nhưng liên quan đến việc thực hành đời sống Kitô giáo.
Source:First Things
Phi công Nga đào thoát bị Putin truy sát ở Tây Ban Nha. TT Biden sẵn sàng gởi ATACMS tầm xa cho Kyiv
VietCatholic Media
16:21 20/02/2024
1. Cơ quan an ninh Ukraine cho biết phi công Nga đào thoát được tìm thấy đã bị hạ sát ở Tây Ban Nha
Maksim Kuzminov, người đổi phe trong hoạt động bí mật, bị giết sau khi được cho là đã chuyển đến Alicante, các báo cáo cho biết.
Cơ quan tình báo quân sự chính ở Kyiv cho biết một phi công trực thăng Nga đào tẩu sang Ukraine vào năm ngoái trong một chiến dịch bí mật được tìm thấy đã chết ở Tây Ban Nha.
Các báo cáo trên phương tiện truyền thông Nga và Tây Ban Nha hôm thứ Hai cho biết Maksim Kuzminov được phát hiện đã chết sau khi được cho là đã di chuyển đến thị trấn Villajoyosa ở Alicante trên bờ biển Địa Trung Hải, trong một khu vực nổi tiếng với khách du lịch. Người ta nói rằng thi thể của anh ta được phát hiện vào thứ Ba tuần trước trên đoạn đường đỗ xe bên dưới một khu chung cư.
Các báo cáo cho biết anh ta đã bị sát hại bởi những tay súng không rõ danh tính, những kẻ đã bắn 12 phát súng. Một chiếc xe hơi bị cháy được phát hiện gần đó ở thị trấn El Campello của Costa Blanca. Cảnh sát Tây Ban Nha ban đầu nghĩ rằng vụ nổ súng có liên quan đến băng đảng trước khi biết được câu chuyện đặc biệt của nạn nhân cũng như vai trò trước đây của anh ta trong cuộc chiến xâm lược của Nga.
Kuzminov đã vượt qua tiền tuyến vào tháng 8 năm ngoái khi đang thực hiện chuyến bay giữa hai căn cứ không quân của Nga. Anh ta có nhiệm vụ vận chuyển các bộ phận của chiến đấu cơ SU-27 và Su-30. Thay vào đó, anh đã hạ cánh chiếc trực thăng Mi-8 AMTSh hai động cơ của mình xuống lãnh thổ Ukraine.
Hai phi công đồng nghiệp của anh đã thiệt mạng. Kyrylo Budanov, nhà lãnh đạo cơ quan tình báo GUR của Ukraine, cho biết các sĩ quan của ông đã thuyết phục Kuzminov đào tẩu trong một chiến dịch phức tạp kéo dài sáu tháng. Trước đó, gia đình phi công đã được đưa khỏi Nga, Budanov cho biết.
Báo Ukrainskaya Pravda dẫn nguồn tin từ GUR cho biết bạn gái cũ của phi công đã tìm thấy thi thể của Kuzminov. “Anh ta quyết định chuyển đến Tây Ban Nha thay vì ở Ukraine. Theo những gì chúng tôi biết: anh ta đã mời người yêu cũ đến chỗ ở của mình và người ta phát hiện anh ta bị bắn chết”, nguồn tin cho biết.
Andrii Yusov, phát ngôn nhân báo chí của cơ quan tình báo, chỉ nói: “Chúng tôi xác nhận sự thật về cái chết.”
Yusov từ chối cho biết liệu phi công có bị sát hại hay không, hoặc - nếu có - ai có thể phải chịu trách nhiệm. Cảnh sát quốc gia Tây Ban Nha không có bình luận ngay lập tức.
Một số nhà bình luận Nga thân cận với Bộ Quốc phòng Nga khẳng định các báo cáo về cái chết của Kuzminov là do cơ quan tình báo Ukraine dàn dựng để làm giả cái chết của phi công.
Vladimir Rogov, một quan chức do Nga bổ nhiệm ở miền nam Ukraine, cho biết: “Đừng quá phấn khích”. “Họ muốn tạo ra một cuốn tiểu sử mới với một danh mục rõ ràng và một cái tên mới cho kẻ phản bội.”
Nếu cái chết của Kuzminov được xác nhận, nguyên nhân có thể là do Điện Cẩm Linh. Trong quá khứ, những kẻ ám sát của Điện Cẩm Linh đã thực hiện hàng loạt vụ giết người trên khắp Âu Châu. Hôm thứ Hai, Yulia Navalnaya, đã cáo buộc Vladimir Putin giết chồng cô, Alexei Navalny. Lãnh đạo phe đối lập Nga qua đời hôm thứ Sáu trong một trại tù xa xôi ở Bắc Cực.
Năm 2006, hai kẻ sát nhân làm việc cho cơ quan an ninh liên bang Mạc Tư Khoa, FSB, đã đầu độc nhà bất đồng chính kiến người Nga Alexander Litvinenko bằng một tách trà chứa chất phóng xạ. Một cuộc điều tra công khai sau đó kết luận rằng Putin “có thể” đã đích thân chỉ đạo FSB dàn xếp vụ giết người.
Năm 2018, hai sĩ quan thuộc cơ quan tình báo quân sự GUR của Nga được cho là đã cố gắng giết điệp viên hai mang người Nga Sergei Skripal.
Kuzminov xuất hiện vào tháng 9 năm ngoái tại một cuộc họp báo cao cấp ở Kyiv cùng với hai quân nhân Ukraine mặc đồng phục. Anh cho biết anh đã cố gắng trấn an hai phi công đồng nghiệp của mình rằng họ sẽ được đối xử tốt ở Ukraine. “Nhưng họ sợ hãi, bắt đầu hành xử hung hãn và cuối cùng lao ra khỏi trực thăng”.
Anh ta cho biết anh ta cất cánh lúc 4h30 chiều giờ địa phương ngày 23 tháng 8 năm 2023 từ phi trường Kursk ở Nga. Gần Ukraine, anh ta bay ở độ cao cực thấp và trong điều kiện vô tuyến im lặng. Lính Nga nổ súng khi anh ta vượt qua biên giới.
“ Tôi không thể nói chắc chắn ai đã bắt đầu nhưng tôi cho rằng đó là phía Nga. Tôi bị bắn vào chân. Sau đó tôi bay khoảng 20km và hạ cánh tại địa điểm được chỉ định”, Kuzminov nói. Anh ta khẳng định mình chỉ thực hiện các hoạt động vận tải để di chuyển quân nhân hoặc hàng hóa chứ không ném bom Ukraine.
Các báo cáo hồi tháng 9 năm ngoái cho biết anh đang cân nhắc việc gia nhập lực lượng không quân Ukraine. Không rõ liệu anh ta có thay đổi quyết định hay không và tại sao anh ta quyết định rời Ukraine tương đối an toàn để đến Tây Ban Nha.
2. Đức đề xuất các biện pháp trừng phạt mới chống lại Nga sau cái chết của Alexei Navalny
Đức cho biết họ đang đề xuất một loạt biện pháp trừng phạt mới chống lại Nga liên quan đến cái chết của Alexei Navalny khi các bộ trưởng Liên Hiệp Âu Châu gặp người vợ góa của ông, Yulia Navalnaya, tại Brussels.
Ngoại trưởng Đức Annalena Baerbock hôm thứ Hai cho biết: “Chúng tôi đã chứng kiến sức mạnh tàn bạo mà Tổng thống Nga dùng để đàn áp những công dân của mình xuống đường biểu tình đòi tự do hoặc viết về nó trên báo chí”. “Chúng tôi sẽ đề xuất các biện pháp trừng phạt mới sau cái chết của Alexei Navalny.”
Các biện pháp trừng phạt có thể bao gồm việc sử dụng tài sản bị đóng băng của Nga, một động thái bổ sung cho khoản thuế mà Bỉ phải thu từ lãi suất dự trữ tiền mặt cố định.
Sau khi Hung Gia Lợi từ bỏ sự phản đối, các ngoại trưởng Liên Hiệp Âu Châu đã đồng ý áp dụng vòng trừng phạt thứ 13 đối với Nga vào hôm thứ Hai. Khối này hiện sẽ bắt đầu nghiên cứu các cách đáp trả Putin ở vòng 14 trong những tuần tới.
Cái chết của thủ lĩnh phe đối lập Nga tại một nhà tù hình sự đã phủ bóng đen lên cuộc họp ở Brussels, khi nhà ngoại giao trưởng của Liên Hiệp Âu Châu, Josep Borrell, đề xuất đổi tên Ủy ban nhân quyền toàn cầu của Liên Hiệp Âu Châu.
“Tôi đang đề xuất với các quốc gia thành viên Liên Hiệp Âu Châu đổi tên Ủy ban nhân quyền toàn cầu của chúng tôi thành ' Ủy ban Navalny'. Để tôn vinh trí nhớ của ông, để tên ông được ghi trên công việc của Liên Hiệp Âu Châu trong việc bảo vệ nhân quyền trên toàn thế giới,” Borrell nói.
Thông điệp của ông được đưa ra khi vợ của Navalnaya tung ra một đoạn video mạnh mẽ nói rằng cô sẽ tiếp tục công việc của người chồng quá cố và chiến đấu vì nước Nga.
3. Nga đang chụp 'cơ hội' viện trợ bị trì hoãn để phát động các cuộc tấn công trên 3 mặt trận
Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “'Opportunistic' Russia Launching Offensives on 3 Fronts Amid Aid Delays—ISW”, nghĩa là “ISW nhận định Nga chụp 'cơ hội' phát động các cuộc tấn công trên 3 mặt trận trong bối cảnh viện trợ bị trì hoãn Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Viện Nghiên cứu Chiến tranh cho biết quân đội Ukraine đã không thể phòng thủ hiệu quả trước lực lượng Nga do sự chậm trễ trong hỗ trợ của phương Tây.
Đánh giá của cơ quan nghiên cứu Washington, DC được đưa ra trong bối cảnh các đồng minh của Ukraine đang tranh luận về việc tiếp tục viện trợ cho Kyiv chống lại sự gây hấn của Vladimir Putin, sau khi Nga chiếm Avdiivka ở tỉnh Donetsk hôm thứ Bảy.
Tổng tư lệnh Ukraine Oleksandr Syrskyi tuyên bố rút quân “để tránh bị bao vây và bảo toàn tính mạng” cho quân của ông nhưng có thông tin cho rằng cuộc rút lui không diễn ra suôn sẻ.
Phó chỉ huy đơn vị Maksym Zhorin cho biết hôm thứ Hai rằng các đơn vị của Lữ đoàn 3 Biệt Động Quân của Ukraine đã bị “bao vây hoàn toàn” trong thị trấn, nơi giao tranh ác liệt trong nhiều tháng, nhưng tất cả đều trốn thoát trước khi Nga chiếm được thành phố.
Sự bế tắc của Quốc hội Mỹ về thỏa thuận viện trợ trị giá 60 tỷ Mỹ Kim cho Kyiv cùng với sự chậm trễ từ các đồng minh Âu Châu của Ukraine đã làm tăng thêm lo ngại rằng tình trạng thiếu thiết bị và đạn dược mà quân đội Kyiv phải đối mặt sẽ mang lại lợi thế cho Mạc Tư Khoa.
Tổ chức nghiên cứu này hôm Chúa Nhật cho biết những sự chậm trễ này “có thể giúp Nga tiến hành các hoạt động tấn công cơ hội dọc theo một số khu vực của tiền tuyến” nhằm gây áp lực lên các lực lượng Ukraine trên các trục khác nhau.
Cũng như trong và xung quanh Avdiivka, các lực lượng Nga đang tiến hành các nỗ lực tấn công dọc theo biên giới tỉnh Kharkiv-Luhansk và gần Robotyne ở phía tây tỉnh Zaporizhzhia.
Viện nghiên cứu cho biết: “Sự thiếu hụt trầm trọng của Ukraine về thiết bị do phương Tây cung cấp và lo ngại về việc Mỹ ngừng hoàn toàn viện trợ quân sự đã buộc quân đội Ukraine phải tập trung trang thiết bị dọc toàn bộ mặt trận”. Điều này có thể đã “khuyến khích các lực lượng Nga khai thác tình hình và tiến hành các hoạt động tấn công hạn chế”.
Những nỗ lực tấn công này của Nga có thể sẽ cản trở lực lượng Ukraine chuẩn bị quân đội và trang thiết bị cho các cuộc phản công tiếp theo và cho thấy Kyiv phải đối mặt với những bất lợi trong hoạt động như thế nào nếu họ chỉ cố gắng phòng thủ trong thời gian còn lại của năm như một số đồng minh và nhà phân tích đã đề xuất.
Leon Hartwell, cộng sự cao cấp tại Trường Kinh tế Luân Đôn, tổ chức tư vấn LSE Ideas, nói rằng điều đáng chú ý là phần lớn tài trợ của Liên Hiệp Âu Châu và Mỹ dành cho Kyiv được phân bổ cho các chi phí phi quân sự khiến Ukraine “không được trang bị đầy đủ để đẩy lùi các bước tiến của Nga. “
“Các chính phủ phương Tây phải đối mặt với câu hỏi – chúng ta cam kết hỗ trợ Ukraine giành chiến thắng như thế nào”. “Nếu các thành viên NATO tăng cường hỗ trợ cho Ukraine lên 2% GDP của mỗi thành viên, thì hỗ trợ cho nước này sẽ đạt gần 500 tỷ Mỹ Kim mỗi năm, điều đó có nghĩa là Ukraine sẽ chi tiêu nhiều hơn Nga và chiến tranh có thể kết thúc trước cuối năm 2025.”
Việc tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Kyiv và mối đe dọa mà Nga đặt ra cho NATO là chủ đề chính tại hội nghị an ninh Munich trong vài ngày qua, trong đó Đức cảnh báo rằng liên minh này sẽ phải đối mặt với mối đe dọa trong những năm tới khi nước này kêu gọi các đồng minh Âu Châu giúp đỡ Ukraine.
Tòa Bạch Ốc chuẩn bị gửi Hệ thống hỏa tiễn chiến thuật quân đội tầm xa, gọi tắt là ATACMS, cho Ukraine nếu Quốc hội phê chuẩn gói tài trợ mới hiện đang bị đình trệ, NBC News dẫn lời các quan chức Mỹ giấu tên.
Mỹ giao ATACMS cho Ukraine vào tháng 10 năm 2023, nhưng chúng là mẫu cũ hơn với tầm bắn nhỏ hơn các biến thể mới. Trong khi đó, Kyiv có thể nhận được chiến đấu cơ F-16 đầu tiên vào tháng 6 này, tạp chí Chính sách đối ngoại đưa tin, dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Lithuania Arvydas Anusauskas và một quan chức Âu Châu giấu tên.
4. Thị trấn Avdiivka thất thủ gây ra một cảm giác cấp bách tại Liên Hiệp Âu Châu
Cú sốc về sự sụp đổ của thị trấn Avdiivka đã mang đến cho hội nghị thượng đỉnh hôm thứ Hai một cảm giác lo lắng mới, gần như hoảng loạn về cuộc chiến ở Ukraine, khi các nước láng giềng của nước này chỉ trích điều mà họ cho là Âu Châu thiếu khẩn cấp trong việc hỗ trợ quân sự.
Ngoại trưởng Lithuania, Gabrielius Landsbergis, đã phát động một cuộc tấn công gay gắt vào các nhà lãnh đạo đồng nghiệp, cầu xin họ giải quyết tình hình một cách mạnh mẽ hơn.
Ông nói: “Chúng ta đã dành hai năm để thảo luận, cố gắng tìm ra cách có thể giúp đỡ Ukraine từng chút một”. “Nhưng thật không may, vì chúng ta không xây dựng mục tiêu chiến lược cho những gì chúng ta đang cố gắng đạt được nên chúng ta không thể tuyên bố rằng chúng ta tham gia vào chiến thắng của Ukraine.”
Landsbergis nói thêm, trong khi các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu đang tranh cãi về tiền bạc, Nga đã tích lũy hỏa lực với lợi thế 6:1 trước Ukraine. Ông kêu gọi Liên Hiệp Âu Châu ngừng lưỡng lự về quỹ quân sự. Ông cho biết, Đức đã thực hiện những công việc nặng nhọc với khoản đóng góp 17 tỷ euro cho đến nay, trong khi Âu Châu vẫn đang tranh luận về quỹ 5 tỷ euro mỗi năm.
“Âu Châu có thể thành lập một quỹ trị giá 5 tỷ euro khi bạn biết đấy, chỉ riêng Đức đang xem xét gửi 7 tỷ euro. Vì vậy, đối với 27 quốc gia Âu Châu, 5 tỷ euro sẽ là công việc của một ngày, một giờ làm việc,” Landsbergis nói.
“Chúng ta phải hỗ trợ Ukraine bằng con đường quân sự và chính trị. Chúng ta phải cung cấp cho Ukraine 1 triệu viên đạn mà Liên Hiệp Âu Châu thực sự đã hứa cách đây một năm cho tháng 3 này.”
Các nhà ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu thừa nhận Liên Hiệp Âu Châu đã không đạt được mục tiêu số đạn này, thừa nhận gần đây họ chỉ sản xuất 500.000 viên đạn và mục tiêu này sẽ không đạt được cho đến cuối năm nay.
Ngoại trưởng Bỉ, Hadja Lahbib, kêu gọi các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu xem xét việc phát triển quân đội Âu Châu, điều được Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đưa ra lần đầu tiên vào năm 2018.
“Nếu Nga tìm cách mở rộng, thì chế độ độc tài này tiến gần hơn một chút đến Liên minh Âu Châu. Ở đây, điều cần thiết là chúng ta phải đoàn kết, cùng nhau phát triển năng lực phòng thủ, chúng ta cũng phát triển quân đội, không chỉ để bảo vệ lãnh thổ mà còn bảo vệ các giá trị của chúng ta”, Lahbib nói.
Borrell nói với các phóng viên rằng Liên Hiệp Âu Châu sẽ tăng cường nỗ lực để cắt nguồn tài trợ cho bộ máy quân sự của Điện Cẩm Linh. Các bộ trưởng ngoại giao đang xem xét vòng trừng phạt thứ 13, danh sách lớn nhất kể từ vòng đầu tiên sau khi chiến tranh bùng nổ hai năm trước.
Borrell cho biết các quốc gia thành viên sẽ đề xuất các biện pháp trừng phạt “chắc chắn chống lại những người có trách nhiệm”, đồng thời nói rõ rằng ông coi trách nhiệm trực tiếp là nói dối Putin.
“ Chúng ta có thể xem xét cơ cấu thể chế của hệ thống nhà tù ở Nga,” Borrell nói, đồng thời chỉ ra ai mà khối sẽ bổ sung vào danh sách những người bị phong tỏa tài sản và cấm đi lại. “Nhưng đừng quên ai thực sự chịu trách nhiệm về cái chết của Navalny.”
5. Tổn thất của Nga ở Avdiivka cao hơn nhiều so với toàn bộ cuộc chiến tranh Liên Xô-Afghanistan
Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Russia's Avdiivka Losses Higher Than Entire Soviet-Afghan War”, nghĩa là “Tổn thất của Nga ở Avdiivka cao hơn nhiều so với toàn bộ cuộc chiến tranh Liên Xô-Afghanistan.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Các số liệu mới cho thấy cuộc tấn công kéo dài 4 tháng của Nga vào thị trấn Avdiivka bị phá hủy ở Donetsk, miền đông Ukraine, đã cướp đi nhiều sinh mạng hơn cả 10 năm chiến tranh mà Mạc Tư Khoa tiến hành dưới thời Liên Xô ở Afghanistan.
Hôm Chúa Nhật, chỉ huy nhóm Tavria, Chuẩn tướng Oleksandr Tarnavskyi, cho biết Nga đã mất hơn 47.000 quân trong cuộc chiến giành thành phố.
Các nhà phân tích phương Tây cho biết thương vong của Nga trong cuộc chiến kéo dài gần 2 năm đã tăng lên sau khi Mạc Tư Khoa tiến hành bao vây Avdiivka.
Nếu số liệu của Kyiv là chính xác thì điều này có nghĩa là chỉ trong 4 tháng qua, có nhiều binh sĩ Nga thiệt mạng trong và xung quanh Avdiivka hơn cả một thập kỷ Liên Xô tham chiến ở Afghanistan. Liên Xô đã gửi hàng ngàn binh sĩ của mình đến Afghanistan vào cuối tháng 12 năm 1979. Cuộc xung đột kéo dài gần một thập kỷ và ước tính số người chết của Liên Xô là khoảng 15.000 quân.
Vào cuối tháng 5 năm 2022, Bộ Quốc phòng Anh cho biết trong vòng ba tháng kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược, tính từ ngày 24 tháng 2 năm 2022, Nga đã mất số quân tương đương với Liên Xô đã mất trong hơn 9 năm ở Afghanistan.
Nhà nghiên cứu về chiến tranh trên bộ tại Viện nghiên cứu Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia ở Luân Đôn cho biết, mặc dù hai cuộc chiến không hoàn toàn giống nhau, nhưng đây là một “so sánh hợp lý” cho thấy số người chết cao trong cuộc chiến tranh trên bộ lớn nhất ở Âu Châu kể từ Thế chiến thứ hai.. Ông nói với Newsweek rằng trong cả hai trường hợp, Mạc Tư Khoa đều đang dành một lượng lớn nguồn lực cho quân đội của mình.
Thương vong nổi tiếng là khó xác định trong các cuộc chiến đang diễn ra, và Mạc Tư Khoa và Kyiv rất kín tiếng về tổn thất, hiếm khi gật đầu về con số thương vong của chính họ hoặc bao nhiêu thiết bị đã bị phá hủy. Nga đã không công bố bất kỳ dữ liệu nào về tổn thất được báo cáo của chính mình kể từ tháng 9 năm 2022. Vào thời điểm đó, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu cho biết Nga đã mất 5.937 quân kể từ cuộc xâm lược của Mạc Tư Khoa vào ngày 24 tháng 2 năm 2022.
Marina Miron, nhà nghiên cứu sau tiến sĩ tại Khoa Nghiên cứu Chiến tranh tại King's College Luân Đôn, Vương quốc Anh, cho biết: “Rất khó để xác định thương vong trong một cuộc xung đột đang diễn ra vì cả hai bên sẽ cố gắng giữ bí mật dữ liệu và làm tăng số lượng thương vong của đối phương”.
Tính đến thứ Hai, quân đội Ukraine đưa ra con số binh sĩ Nga bị loại khỏi vòng chiến kể từ tháng 2 năm 2022 là 403.720 người. Ước tính của phương Tây nói chung đồng ý rằng thương vong của Nga là hơn 300.000.
Vào cuối Tháng Giêng, Bộ trưởng lực lượng vũ trang Anh, James Heappey, nói với các nhà lập pháp Anh rằng khoảng 350.000 quân nhân Nga đã thiệt mạng hoặc bị thương ở Ukraine. Heappey cho biết hàng chục ngàn lính đánh thuê phục vụ trong Tập đoàn Wagner, lực lượng có ảnh hưởng trong các chiến dịch chiếm thành phố Bakhmut của Donetsk vào tháng 5 năm 2023, cũng thiệt mạng và bị thương.
Nhưng con số thống kê của Ukraine đưa ra một số dấu hiệu về cái giá mà Nga phải trả để chiếm được thành trì Avdiivka của Ukraine, một thành phố có tầm quan trọng chiến lược gần thủ phủ khu vực, Thành phố Donetsk, nơi đã vượt qua một thập kỷ trên chiến tuyến giao tranh giữa Kyiv và các lực lượng được Nga hậu thuẫn..
Ukraine đã tỉ mỉ xây dựng hệ thống phòng thủ xung quanh Avdiivka, và Nga bắt đầu tấn công thành trì này trong một cuộc tấn công phối hợp vào ngày 10 tháng 10. Trận chiến sau đó nhanh chóng bị gắn mác “máy xay thịt”, một thuật ngữ dùng để mô tả những trận chiến kéo dài có số thương vong cao và hấp thụ các nguồn tài nguyên đáng kể.
Hôm Chúa Nhật, Nga cho biết họ đã “giải phóng hoàn toàn” Avdiivka vào ngày hôm trước, sau khi Ukraine hôm thứ Bảy cho biết họ sẽ rút lực lượng khỏi thành phố.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy nói trong bài phát biểu tại Hội nghị An ninh Munich ở Đức cuối tuần qua: “Chúng tôi đang bảo vệ người dân của mình, các chiến binh của chúng tôi, bởi vì đây chính là mục đích của phòng thủ”. Zelenskiy gần đây nói rằng tổn thất của Nga ở Avdiivka cao gấp 7 lần số thương vong mà Ukraine phải gánh chịu khi bảo vệ thành phố.
Nga đã dần dần tiến quân xung quanh thành phố nhỏ này kể từ tháng 10, nhưng Ukraine đã cố gắng duy trì tuyến đường tiếp tế quan trọng từ phía tây Avdiivka.
Bộ Quốc phòng Nga hôm thứ Hai cho biết lực lượng của họ đã giành quyền kiểm soát hoàn toàn Nhà máy hóa chất và than cốc Avdiivka ở phía tây bắc thành phố. Mạc Tư Khoa cho biết quân đội của họ đã treo cờ Nga trong các tòa nhà hành chính của cơ sở này.
Trong một bản cập nhật riêng, Điện Cẩm Linh cho biết quân đội Nga hiện đang rà phá bom mìn trên khắp Avdiivka.
6. Chính quyền Tổng thống Biden xem xét cung cấp hỏa tiễn tầm xa cho Ukraine - báo cáo
NBC News đưa tin Tòa Bạch Ốc có thể chuẩn bị gửi hệ thống hỏa tiễn chiến thuật lục quân, gọi tắt là ATACMS, cho Ukraine nếu Quốc hội thông qua gói tài trợ mới.
Cơ quan truyền thông Hoa Kỳ đưa tin:
Theo hai quan chức Mỹ, sau nhiều tháng yêu cầu từ các quan chức Ukraine, chính quyền Tổng thống Biden đang nỗ lực cung cấp cho Ukraine các hỏa tiễn đạn đạo tầm xa mới mạnh mẽ.
Cuối năm ngoái, Mỹ bắt đầu cung cấp cho Ukraine Hệ thống hỏa tiễn chiến thuật quân đội, được gọi là Atacms, nhưng cho đến nay họ chỉ cung cấp các Atacms tầm trung cũ hơn. Các quan chức cho biết hiện nay, Mỹ đang nghiêng về việc gửi phiên bản hỏa tiễn tầm xa hơn, điều này sẽ cho phép Ukraine tấn công xa hơn bên trong Bán đảo Crimea do Nga nắm giữ.
Tuần trước Thượng viện đã thông qua gói viện trợ nước ngoài trị giá 95 tỷ Mỹ Kim cho Ukraine, Israel và Đài Loan. Nhưng không rõ liệu Hạ viện có bỏ phiếu về biện pháp này hay không và liệu nó có tồn tại trong cuộc bỏ phiếu hay không…
Các quan chức quốc phòng nói với NBC News rằng Mỹ có số lượng Atacms tồn kho hạn chế và nước này sẽ không gửi chúng tới Ukraine nếu không có tiền để bổ sung vào kho dự trữ của Mỹ.
Theo hai quan chức Mỹ, nếu Quốc hội chấp thuận cấp thêm tài trợ cho Ukraine, Mỹ có thể đưa Atacms tầm xa vào một trong những gói viện trợ quân sự đầu tiên được thanh toán bằng số tiền đó.
Các quan chức cho biết thêm, Mỹ cũng có sẵn đạn dược và pháo binh để gửi tới Ukraine ngay lập tức nếu nguồn tài trợ được phê duyệt.
7. Đức đưa ra cảnh báo đáng lo ngại về cuộc tấn công vào quốc gia NATO
Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Germany Issues Ominous Warning About Attack on NATO Country”, nghĩa là ““ Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Bộ trưởng Quốc phòng Đức Boris Pistorius đã kêu gọi NATO chuẩn bị cho “tình huống xấu nhất” khi ông đưa ra cảnh báo rằng liên minh này có thể bị tấn công trong vòng thập kỷ tới.
Điện Cẩm Linh đã coi cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine như một cuộc chiến ủy nhiệm giữa Mạc Tư Khoa và NATO và Tổng thống Joe Biden đã nói rằng Vladimir Putin cuối cùng có thể tấn công liên minh này, mặc dù Tổng thống Nga đã bác bỏ điều đó.
Nhưng Pistorius nêu lên bóng ma về việc liên minh đang bị đe dọa tại Hội nghị An ninh Munich. Ông nói với các đại biểu rằng cam kết của các thành viên NATO chi ít nhất 2% GDP cho quốc phòng chỉ là “điểm khởi đầu”.
Pistorius cũng cho rằng việc Quốc hội Mỹ không phê duyệt viện trợ quân sự cho Ukraine có thể gây tổn hại đến hợp tác an ninh, gây tổn hại cho các nhà thầu quốc phòng Mỹ và làm suy yếu Âu Châu. Tổng thống Joe Biden đã đổ lỗi cho sự sụp đổ của thành phố Avdiivka ở Donetsk hôm thứ Bảy là do gói viện trợ trị giá 60 tỷ Mỹ Kim dành cho Kyiv bị đình trệ.
Nhưng Pistorius cũng đã đưa ra một cảnh báo đáng lo ngại về những gì Vladimir Putin có thể làm không chỉ ở Ukraine mà còn sau đó.
Ông nói với Bloomberg trong một cuộc phỏng vấn: “Âu Châu cách xa Iowa hay Wisconsin, nhưng vẫn rất gần nhau về mặt chính sách an ninh”.
Ông nói: “An ninh kém hơn ở Âu Châu có nghĩa là an ninh kém hơn đối với Hoa Kỳ”. “Tôi không thể dự đoán liệu và khi nào một cuộc tấn công vào lãnh thổ NATO có thể xảy ra. Nhưng điều đó có thể xảy ra sau 5 đến 8 năm nữa.”
Ban đầu bị chỉ trích vì chậm cung cấp viện trợ cho Ukraine, Berlin đã thúc đẩy các nước Âu Châu cung cấp thêm vũ khí cho Kyiv và Pistorius ca ngợi sự đóng góp của Anh và Pháp.
Berlin đã công bố gói hệ thống phòng không và pháo binh trị giá 1,1 tỷ euro (1,2 tỷ Mỹ Kim), như một phần trong tổng cam kết trị giá 28 tỷ euro (30,1 tỷ Mỹ Kim) của Đức.
Đức cũng đang tăng chi tiêu quốc phòng, bao gồm 30 tỷ euro (32 tỷ Mỹ Kim) cho 35 chiến đấu cơ F-35A Lightning của Lockheed Martin và 60 máy bay trực thăng Chinook của Boeing với giá khoảng 8 tỷ euro (8,6 tỷ Mỹ Kim).
Điện Cẩm Linh và các nhà tuyên truyền của họ đã coi cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine là một cuộc chiến ủy nhiệm giữa Mạc Tư Khoa và NATO. Trong danh sách mới nhất trong danh sách dài các mối đe dọa trong suốt cuộc chiến, cựu Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân đối với Mỹ.
“Sự sụp đổ của Nga sẽ gây ra những hậu quả khủng khiếp hơn nhiều so với kết quả của một cuộc chiến thông thường, thậm chí là kéo dài nhất”, Medvedev cho biết, đồng thời đe dọa “một cuộc chiến tranh toàn cầu với các nước phương Tây sử dụng tất cả kho vũ khí chiến lược của nhà nước chúng tôi”.
8. Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk cho biết Warsaw hoàn toàn ủng hộ việc Thụy Điển gia nhập NATO và sẽ là sai lầm nếu bất kỳ quốc gia nào ngăn cản việc này.
“Sẽ là một sai lầm nếu một quốc gia NATO ngăn cản một quốc gia khác gia nhập NATO”, ông Tusk nói trong cuộc họp báo chung với người Thủ tướng Thụy Điển. Ông nói thêm: “Ba Lan và cá nhân tôi sẽ sẵn sàng hỗ trợ hết mình trong vấn đề này”.
Thủ tướng Thụy Điển, Ulf Kristersson, cho biết hôm thứ Hai rằng ông mong được gặp Thủ tướng Hung Gia Lợi, Viktor Orbán.
Cuối tuần qua Orbán cho biết quốc hội Hung Gia Lợi có thể phê chuẩn tư cách thành viên NATO của Thụy Điển khi nước này triệu tập phiên họp mùa xuân mới vào ngày 26 tháng 2.
Trong nhiều tháng kể từ khi Thụy Điển ghi danh làm thành viên vào tháng 5 năm 2022, các quan chức phương Tây cho biết Hung Gia Lợi không đưa ra bất kỳ phản đối hoặc yêu cầu chính thức nào liên quan đến đơn xin gia nhập của Thụy Điển – nhưng vẫn tiếp tục trì hoãn việc phê chuẩn.
Hung Gia Lợi là quốc gia NATO duy nhất chưa phê chuẩn đơn ghi danh của Thụy Điển, một quá trình đòi hỏi sự ủng hộ của tất cả các thành viên liên minh.
Đảng Fidesz cầm quyền của Orbán đã trích dẫn cái mà họ gọi là những cáo buộc vô căn cứ của Thụy Điển rằng họ đã làm xói mòn nền dân chủ ở Hung Gia Lợi là lý do tại sao đơn xin gia nhập của Thụy Điển bị hoãn lại.
Căng thẳng Israel-Vatican. Mexico: Tổng thống quá bết, các Giám Mục phải đàm phán với băng đảng
VietCatholic Media
16:40 20/02/2024
1. 40 bài Suy Niệm Mùa Chay 2024 - Thứ Tư tuần 1 Mùa Chay
THỨ TƯ 21/2/2024
Giôna 3:1-10
Thánh Vịnh 50(51):3-4, 12-13, 18-19
Lc 11:29-32
Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê Tv 51:19
Đối với tôi, dường như luôn có một bộ phim siêu anh hùng khác sắp ra mắt, đặc biệt là trước sự thèm muốn của khán thính giả muốn có các bản làm lại, phần tiền truyện và phần tiếp theo. Dựa trên các bài đọc hôm nay và được chứng minh qua Kinh thánh, tôi có thể gợi ý rằng có thể bạn và tôi cũng có siêu năng lực.
Sức mạnh siêu nhiên của sự ăn năn!
Một câu chuyện đáng kinh ngạc được trình bày trong bài đọc thứ nhất hôm nay, một câu chuyện mạnh mẽ đến nỗi chính Chúa Giêsu đề cập đến người dân thành Ninivê, và đặc biệt là sự ăn năn của họ.
Khi nghe lời rao giảng của Giôna và thực tế tội lỗi của họ, họ có thể chọn cách giận dữ chỉ trích nhà tiên tri.
Nhưng không, họ đã làm một điều không bình thường vào thời đó và bây giờ: họ chọn ăn năn, tuyên bố kiêng ăn, mặc bao tải - từ người lớn nhất đến người thấp kém nhất.
Wow, thật đầy ấn tượng! Giô-na đã không mong đợi điều đó, và trên thực tế, đang tận hưởng cơn thịnh nộ đang đến.
Và rồi, luôn tìm kiếm sự khiêm nhường ăn năn, trái tim của Người Cha yêu thương tan chảy và Người mủi lòng. Chúng ta thấy điều này nhiều lần, có lẽ không hình ảnh nào mạnh mẽ cho bằng hình ảnh tình yêu và lòng thương xót được Chúa Giêsu chia sẻ trong câu chuyện về người cha tha thứ, khi thấy đứa con hoang đàng trở về, đã chạy đến gặp nó. Đây là Chúa của chúng ta! Do đó, thật thích hợp khi chúng ta lặp lại câu này: “một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê”
Nhiều lần khi chúng ta đọc thánh vịnh hôm nay, Thánh Gioan Phaolô II mô tả việc Xưng tội là “Một hành vi trung thực và can đảm – một hành vi phó thác bản thân, vượt khỏi tội lỗi, ngả vào lòng thương xót của Thiên Chúa yêu thương và tha thứ”. Khi sự ăn năn khiêm tốn của chúng ta được nhận vào sức mạnh và ân sủng của bí tích này, thì chúng ta thực sự có được một sức mạnh siêu nhiên, một sức mạnh mang lại sự sống mới-sự sống vĩnh cửu! Bạn đã sẵn sàng sử dụng siêu năng lực ăn năn chưa? Hãy lãnh nhận Bí tích Hòa giải.
Lạy Chúa, xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng con và chuẩn bị tâm hồn chúng con khiêm tốn thống hối trong Bí tích Hòa Giải.
2. Đại sứ quán Israel phản đối sau khi Vatican tố cáo 'cuộc tàn sát' ở Gaza
Israel đã phản đối Vatican sau khi Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh xác định những gì đang xảy ra ở Gaza là “cuộc tàn sát” do phản ứng quân sự không cân xứng của Israel đối với Hamas.
“Đó là một tuyên bố đáng trách. Đánh giá tính hợp pháp của một cuộc chiến mà không tính đến tất cả các hoàn cảnh và dữ liệu liên quan chắc chắn sẽ dẫn đến kết luận sai lầm”, đại sứ quán Israel tại Tòa thánh cho biết trong một tuyên bố.
Một ngày trước đó, Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Pietro Parolin đã nhắc lại “yêu cầu rằng quyền phòng thủ của Israel, vốn được viện dẫn để biện minh cho hoạt động này, phải tương xứng, và chắc chắn với 30.000 người chết thì không phải vậy”.
“Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều phẫn nộ trước những gì đang xảy ra, bởi cuộc tàn sát này, nhưng chúng ta phải có can đảm để tiến về phía trước và không mất hy vọng”, Đức Hồng Y Parolin nói và nói thêm rằng “chúng ta phải tìm những cách khác để giải quyết vấn đề Gaza, vấn đề quyền sống của Palestine.”
Một bài xã luận hôm thứ Tư trên tờ báo chính thức của Vatican, tờ Quan Sát Viên Rôma, đã củng cố thông điệp này.
“Không ai có thể định nghĩa những gì đang xảy ra ở Dải Gaza là 'thiệt hại không thể tránh khỏi ' trong cuộc chiến chống khủng bố. Quyền tự vệ, và quyền của Israel đưa thủ phạm của vụ thảm sát tháng 10 ra trước công lý, không thể biện minh cho cuộc tàn sát này”, tuyên bố viết.
Ít nhất 1.200 người Israel đã thiệt mạng và khoảng 250 người bị bắt làm con tin trong cuộc đột kích của phiến quân Hamas vào miền nam Israel vào ngày 7/10, khiến Israel phải trả đũa. Bộ Y tế Gaza cho biết hôm thứ Tư rằng ít nhất 28.576 người Palestine đã thiệt mạng trong các cuộc tấn công của Israel.
Lưu ý rằng Hamas sử dụng bệnh viện và trường học làm lá chắn, đồng thời gợi ý rằng phần lớn người dân Gaza “tích cực” ủng hộ nhóm này, đại sứ quán Israel khẳng định Hamas phải chịu mọi trách nhiệm về cái chết và sự tàn phá ở vùng đất Palestine.
Đức Thánh Cha, người đã đưa ra nhiều lời cầu xin hòa bình ở Trung Đông và các nơi khác, đã phải đối mặt với những lời chỉ trích trước đây từ các nhóm Do Thái về quan điểm của Vatican trong cuộc xung đột Israel-Gaza.
Vào tháng 11, một cuộc tranh cãi đã nổ ra về việc liệu Đức Phanxicô có dùng từ “diệt chủng” để mô tả các sự kiện ở Gaza hay không, với những người Palestine đã gặp ngài khẳng định rằng ngài làm vậy, còn Vatican nói rằng ngài không làm vậy.
Source:Reuters
3. Các tín hữu Công Giáo Đức xin các giám mục xét lại Tiến trình Công nghị
Hôm 15 tháng Hai vừa qua, một số giáo dân Công Giáo ở Đức thuộc phong trào “Neuer Anfang”, Bắt đầu lại, đã lên tiếng xin các giám mục nước này xét lại và đừng đi xa rời dân Chúa trên Tiến trình Công nghị, với kế hoạch thiết lập Hội đồng Tiến trình Công nghị, bất chấp sự cảnh giác của Đức Thánh Cha và Tòa Thánh.
Phong trào “Bắt đầu lại” bày tỏ lập trường trên đây, nhân dịp Hội đồng Giám mục Đức, gồm gần 69 giám mục của 27 giáo phận, sắp nhóm Đại hội mùa xuân, từ ngày 19 đến ngày 22 tháng Hai tới đây, tại thành phố Augsburg nam Đức, trong đó các vị sẽ thảo luận và có thể bỏ phiếu về quy chế của Ủy ban Tiến trình Công nghị các giám mục giáo phận, 27 đại biểu của Ủy ban trung ương giáo dân Công Giáo Đức, gọi tắt là ZDK, và 20 người do Tiến trình Công nghị bầu lên. Ủy ban cho nhiệm vụ chuẩn bị cho Hội đồng Công nghị, một cơ quan có tính cách trường kỳ, gồm cả giám mục và giáo dân cùng cai quản và điều hành Giáo Hội Công Giáo tại Đức, bắt đầu từ năm 2026 tới đây và điều này trái ngược với cơ cấu bí tích và cả đạo lý của Giáo hội, vì Giáo hội được xây dựng trên 12 tông đồ và các đấng kế vị, như Tòa Thánh đã cảnh giác. Có bốn giám mục giáo phận tuyên bố không tham gia Ủy ban Công nghị.
Trong thư ngỏ, các tín hữu giáo dân nhắc nhở rằng các giám mục rằng nguyên việc tiến hành Tiến trình Công nghị là điều được “xây dựng trên cát”. Con đường này đã được một số giám mục và giáo dân Công Giáo Đức đề ra như một phương thế để bài trừ những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên trong Công Giáo. Nhưng những điều tra gần đây trong các Giáo hội Tin lành Đức cho thấy tệ nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên còn trầm trọng hơn. Vì thế, các giám mục cần đương đầu với những thách đố thực sự mà Giáo hội tại Đức đang gặp phải.
Thư ngỏ của Phong trào “Bắt đầu lại” có đoạn viết: “Là những mục tử can đảm và là những nhà lãnh đạo táo bạo, các Đức Cha có thấy rằng mình có những nhu cầu khẩn cấp khác hay không? Đất nước Đức đang phải đương đầu với thảm họa về dân số, kinh tế và xã hội suy giảm. Hơn nữa, Giáo Hội Công Giáo tại Đức đã đánh mất bản chất thiêng liêng, tầm quan trọng về trí thức và sự sáng suốt ngôn sứ”.
Lá thư ngỏ mang tên ba người đại diện, là ông Bernhard Meuser, bà Dorothea Schmidt, từng tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI ở Vatican hồi tháng Mười năm ngoái, và nhà thần học Martin Blueske. Thư cảnh giác các giám mục Đức đang phí phạm nghị lực trong cuộc tranh luận không xứng đáng với những người đồng tổ chức Tiến trình Công nghị là Ủy ban trung ương giáo dân Công Giáo Đức, từ khi bắt đầu con đường này cách đây 5 năm, hồi 2019.
Trong khóa họp hồi tháng Mười Một năm ngoái, Ủy ban giáo dân này đã phê chuẩn quy chế của Ủy ban Tiến trình Công nghị.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã trực tiếp phê bình ủy ban chuẩn bị này. Trong một thư riêng, ngài nhận xét rằng Ủy ban này là một trong nhiều bước tiến đã được đề ra do một số đáng kể các thành phần của Giáo hội tại Đức, có nguy cơ dẫn đưa Giáo hội tại đây xa lìa con đường chung của Giáo hội hoàn vũ.
Trước đó, trong thư hồi tháng Giêng năm ngoái (2023), được Đức Thánh Cha phê chuẩn, ba vị Hồng Y lãnh đạo tại Tòa Thánh, là Đức Hồng Y Quốc vụ Khanh, Đức Tổng trưởng Bộ Giám mục, và Đức Hồng Y Bộ giáo luật, đã khẳng định rằng Tiến trình Công nghị, cũng như Hội đồng Giám mục đều không có thẩm quyền thiết lập Hội đồng Công nghị trên bình diện quốc gia, giáo phận hoặc giáo xứ.
4. Các giám mục Công Giáo ở Mễ Tây Cơ cho biết các ngài đã đàm phán để có được hiệp định hòa bình với các thủ lĩnh băng đảng ma túy
Bốn giám mục Công Giáo Rôma đã gặp các ông trùm băng đảng ma túy Mễ Tây Cơ trong nỗ lực đàm phán một hiệp định hòa bình có thể có, một trong các giám mục cho biết, và Tổng thống Andrés Manuel López Obrador cho biết hôm thứ Năm rằng ông chấp thuận các cuộc đàm phán như vậy.
Tiết lộ của Giám mục Chilpancingo-Chilapa, José de Jesús González Hernández, trong nhận xét khi xuất hiện trước công chúng, minh họa mức độ mà chính sách không đối đầu với các băng đảng của chính phủ đã khiến những người dân bình thường phải tự mình thực hiện các thỏa thuận hòa bình riêng với các băng nhóm.
López Obrador thừa nhận đây không phải là lần đầu tiên các nhà lãnh đạo giáo hội tổ chức những buổi nói chuyện như vậy và họ đã từng làm như vậy trước đây ở bang lân cận Michoacan và các bang khác.
“Các linh mục, mục sư và thành viên của tất cả các giáo hội đã tham gia, giúp đỡ trong việc bình định đất nước. Tôi nghĩ điều đó rất tốt”, López Obrador nói một ngày sau khi sự tồn tại của các cuộc đàm phán được tiết lộ.
Ông cho biết các cuộc đàm phán như vậy đã được tổ chức ở bang lân cận Michoacan và ở những nơi khác ở Mễ Tây Cơ. “Giáo Hội làm điều đó, tôi có thể bảo đảm điều này, ở Michoacán, và họ làm điều đó ở những nơi khác.”
López Obrador nói rằng mặc dù ông không gặp vấn đề gì với các cuộc đàm phán, nhưng ông sẽ không chấp thuận “bất kỳ thỏa thuận nào có nghĩa là cấp quyền miễn trừ, đặc quyền hoặc giấy phép để ăn cướp”.
Đức Cha González Hernández cho biết điều đó thật quan trọng đối với các linh mục quản xứ có thị trấn ở Michoacan đã bị thống trị bởi băng đảng này hay băng đảng khác trong nhiều năm. Vị linh mục không thể nêu tên vì lý do an ninh cho biết: “Đó là một sự thừa nhận ngầm rằng chính phủ không thể cung cấp các điều kiện an toàn”.
Vị Giám Mục nói: “Chắc chắn, chúng tôi phải nói chuyện với một số người, nhất là khi nói đến sự an toàn của mọi người, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi đồng ý với điều đó”. Chẳng hạn, ngài cho biết, người dân địa phương đã yêu cầu ngài hỏi các ông trùm băng đảng về số phận của những người thân mất tích.
Nhiều người dân Mễ Tây Cơ bình thường đã âm thầm đồng ý trả tiền bảo vệ cho các tập đoàn ma túy vì sợ bị tấn công hoặc nhà cửa hoặc cơ sở kinh doanh của họ bị đốt cháy. Nhà thờ cũng phải chịu đựng - các linh mục cũng bị các băng đảng giết hại - nhưng một số thủ lĩnh băng đảng đã nói chuyện với các thủ lĩnh Giáo Hội.
Vị giám mục cho biết các cuộc đàm phán gần đây nhất đã thất bại vì các băng đảng ma túy không muốn ngừng tranh giành lãnh thổ ở bang Guerrero ven biển Thái Bình Dương. Những trận chiến đó đã làm tê liệt hệ thống giao thông vận tải và dẫn đến hàng chục vụ giết người trong những tháng gần đây.
Đức Cha González Hernández nói về cuộc đàm phán được tổ chức vài tuần trước: “Họ yêu cầu đình chiến nhưng có điều kiện. “Nhưng những điều kiện này không được một trong những người tham gia đồng ý.”
Khi được các phóng viên địa phương hỏi những điều kiện đó là gì, vị giám mục trả lời “các lãnh thổ”.
Các tập đoàn và băng đảng ma túy ở Mễ Tây Cơ không chỉ bán hoặc buôn lậu ma túy; họ moi tiền từ hầu hết mọi ngành nghề kinh doanh trong lãnh thổ mà họ kiểm soát.
Theo chính sách “vòng tay ôm chứ không phải súng đạn” của López Obrador, chính phủ đã tránh đối đầu trực tiếp với các tập đoàn, cho phép họ về cơ bản kiểm soát hàng chục thành phố cỡ trung bình trở lên, nơi giá của hầu hết các sản phẩm đều cao hơn vì chúng bao gồm một thứ ' thuế' do các thủ lĩnh băng đảng áp đặt.
Giám mục đã nghỉ hưu Salvador Rangel, nhà lãnh đạo giáo phận này cho đến năm 2022, nói với hãng tin AP rằng ông đã được những người có mặt ở đó thông báo về các cuộc đàm phán.
Ngài không xác định được băng nhóm nào đã tham gia, nhưng có ít nhất hàng chục băng đảng như vậy đang tranh giành quyền kiểm soát các khu vực khác nhau ở bang Guerrero, nơi có khu nghỉ dưỡng Acapulco, ven biển Thái Bình Dương.
Đức Cha Rangel khẳng định cuộc đàm phán thất bại vì các băng đảng “không muốn nhượng bộ bất cứ điều gì”.
Tuy nhiên, ngài bảo vệ các cuộc đàm phán. Trong thời gian phục vụ với tư cách là giám mục, trước đây ông đã nói chuyện cởi mở về việc gặp gỡ các thủ lĩnh băng đảng để theo đuổi hòa bình. Ngài nói: “Tôi nghĩ rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm đạt được hòa bình và hòa hợp đều có giá trị”.
Đức Cha González Hernández cho rằng đường lối này ít nhất đã được Đức Thánh Cha Phanxicô ngầm chấp thuận trong cuộc họp với các giám mục năm ngoái.
Một phát ngôn viên của Vatican đã không trả lời ngay lập tức khi được hỏi về nhận xét của vị giám mục. Vatican hiếm khi bình luận về những buổi tiếp kiến riêng của Đức Giáo Hoàng.
Điều đó nói lên rằng, quan điểm được vị giám mục đưa ra phù hợp với xu hướng của Đức Phanxicô là chiều theo ý kiến chuyên môn của các giám mục tại chỗ, và niềm tin mạnh mẽ của ngài vào sự cần thiết phải đối thoại bằng mọi giá.
Chẳng hạn, Đức Phanxicô thường xuyên được hỏi về việc ngài có sẵn sàng cử một phái viên đến Mạc Tư Khoa để cố gắng đàm phán với Điện Cẩm Linh hay không. Trong khi Đức Phanxicô nói rằng bạn “không bao giờ nên đối thoại với ma quỷ”, ngài nhấn mạnh rằng trong các vấn đề chiến tranh và hòa bình trên thế giới thực, đối thoại với kẻ xâm lược là cách duy nhất để tìm ra con đường hòa bình, “ngay cả khi nó bốc mùi hôi thối”.
Rõ ràng, đó không phải là một vai trò mà Giáo Hội ưa thích. Như vị Giám Mục đã lưu ý, “chúng tôi sẽ không phải làm điều này nếu chính phủ thực hiện đúng công việc của mình”.
Source:AP
Thánh Ca
Album Thánh Ca Mùa Chay 2024 - Kim Thúy - Chủ Đề : Trở Về
Kim Thúy
22:51 20/02/2024