Phụng Vụ - Mục Vụ
Suy niệm Chúa Nhật Tuần 7A thường niên
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
09:17 18/02/2020
(Mt. 5, 38-48)
YÊU THƯƠNG
Chúng ta hãy nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành. Ngày xưa người ta đối xử với nhau một cách sòng phẳng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Họ chưa có quan niệm về lòng từ bi hỉ xả. Họ chưa học biết sự yêu thương tha thứ. Có lẽ cách đối xử, ăn miếng trả miếng như thế được coi là sự công bằng. Công bằng nhưng thiếu đức bác ái, thiếu lòng nhân thì công bằng trở nên què cụt. Đây chỉ là thực hiện những hành vi tiêu cực.
Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy bảo chúng ta những điều tích cực hơn. Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương mọi người, yêu cả kẻ thù và còn cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống và ghen ghét chúng con. Những điều Chúa dạy thật cao cả và khó tưởng tượng. Tình yêu không có biên giới. Sự tha thứ không có tính toán. Đôi khi thực hành điều Chúa dậy, chúng ta cảm thấy như mất mát, thua thiệt và chịu nhục nhã.
Chúa muốn chúng ta bước lên cao hơn một bước mà mọi người bình thường cư xử với nhau. Thói thường thì chúng ta nghĩ ai làm hại tôi, tôi trả lại họ như thế; ai nói hành tôi, tôi nói lại và ai lừa dối tôi, tôi lừa lại. Như thế chúng ta nghĩ rằng có qua có lại mới toại lòng nhau. Ở đời, chúng ta thường xử với nhau như thế và cho đó là có tình có nghĩa và công bằng.
Chúa dạy chúng ta hãy có thái độ cao thượng hơn. Hãy đem yêu thương vào nơi thù ghét và đem tha thứ vào chỗ lỗi lầm. Cầu nguyện và yêu thương kẻ xỉ vả, lăng nhục và nói gian nói dối về chúng ta. Chúa dạy chúng ta và chính Chúa đã hành động trước. Chúa tha thứ cho những kẻ bách hại, đánh đập và vu khống cho Chúa. Trên thập giá, Chúa cầu nguyện xin Cha tha thứ cho họ.
Thực hành đức công bằng luôn đi kèm theo đức bác ái. Trong hoàn cảnh cuộc sống hiện nay, chúng ta không bao giờ có sự công bằng đích thực, nhưng chúng ta có đức bác ái đích thực. Đức ái đó là sự yêu thương tha thứ. Tha thứ dẫn chúng ta đến sự hòa giải. Sự hòa giải dẫn đưa chúng ta đến niềm vui và hạnh phúc.
Chỉ có tình yêu mới có thể xóa đi hận thù và chúng ta có thể hưởng phúc bình an. Chúa chính là nguồn tình yêu. Xin tình yêu Chúa bao trùm cuộc sống để mỗi hành động chúng ta thực hiện trong tình yêu. Lạy Chúa, xin nâng đỡ chúng con mọi nơi và mọi lúc để chúng con sống xứng đáng là môn đệ Chúa.
TUẦN 7 MÙA THƯỜNG NIÊN
THỨ HAI
Mc. 9: 14-29
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ xuống núi, có một người đem đứa con bị qủy câm ám và xin Chúa chữa. Ông nói: Qủy nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật ngã nó xuống đất, và sủi bọt mép, nghiến răng và cứng đờ. Thật dễ sợ. Ma qủy hành hạ con người bằng mọi cách. Không phải lỗi của riêng ai, qủy muốn hại ai là người đó bị. Những người bị qủy ám chỉ lăn lộn với đau khổ của thế xác và linh hồn.
Họ cũng là con cháu của Abraham tổ phụ. Họ cũng là con dân Chúa chọn. Tại sao ma qủy lại chọn người này mà không chọn người khác để làm hại, Qủy có lợi lộc gì khi ám vào con người? Qủy dữ muốn trả thù và muốn lôi kéo con người để quy phục nó. Nếu người ta tôn thờ và kính yêu ma qủy, nó sẽ thỏa mãn một vài nguyện ước.
Thời đại chúng ta hiện nay, có biết bao nhiêu nhóm đang thờ qủy Satan. Họ tụ họp cùng nhau và đặt bàn thờ hiến tế. Họ sống trong thác loạn. Thỏa mãn mọi thú vui nhục dục và hiến thân xác thịt cho ma qủy. Họ tụ họp ở những nơi thần bí và trong đêm tối. Càng ngày càng có nhiều người chạy theo phong trào thờ qủy để được tận hưởng tất cả những khoái lạc của con người tại thế.
Họ là những người bị thần ô uế ám. Họ đang lăn lộn với bản năng thấp hèn. Lậy Chúa, xin cứu giúp họ và cứu chúng con.
THỨ BA
Mc. 9: 30-37
Chúa Giêsu ngồi xuống gọi Nhóm mười hai và nói với các ông: Ai muốn làm người đứng đầu, thì hãy làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người. Đường lối của Chúa đi ngược lại với các xử trí của người đời. Con đường của Chúa đi hoàn toàn là con đường mới, con đường của trời cao. Con người không thể nhận biết nếu Chúa không chỉ dậy.
Chúa từ trời cao đi xuống, Chúa chỉ dậy chúng ta con đường đi lên. Đi lên từng bước để tới ngọn nguồn. Con đường đi lên luôn phải phấn đấu và kiên trì. Đi lên như khi chúng ta chèo thuyền ngược dòng, cứ buông mái chèo, thuyền lại bị trôi theo dòng. Theo con đường của Chúa là đi ngược lên thượng nguồn Chân Thiện Mỹ và là nên tốt lành như Cha ở trên là Đấng Nhân Lành.
Con đường đi lên là con đường phục vụ, con đường yêu thương và tha thứ. Con đường đi lên là con đường khổ giá. Con đường đi lên là con đường hoàn thiện. Con đường đi lên là con đường từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa. Đây là con đường hẹp. Đây là cách sống đạo của Tin mừng. Ai muốn làm lớn phải phục vụ mọi người.
Chúa Giêsu mở đường mời gọi chúng ta đi lên qua cách phục vụ khiêm tốn. Càng theo Chúa đi lên, chúng ta càng gần gũi Chúa. Con đường đi lên với Chúa sẽ dẫn chúng ta đến vinh quang bất diệt muôn đời.
THỨ TƯ LỄ TRO
Mt. 6: 1-6; 16-18
Chúng ta bước vào mùa tập luyện và thanh luyện tâm hồn. Chúa Giêsu dạy chúng ta về cách thức cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Tất cả các thực hành phải đi từ tâm hồn. Chúa Giêsu bác bỏ những thực hành bề ngoài chỉ có ý khoe khoang cho người ta thấy mà khen.
Chúa dạy khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa cầu nguyện cùng Cha, Ngài thấu tỏ mọi bí ẩn, sẽ lắng nghe và ban phúc cho. Cầu nguyện là kết hợp và tâm sự với Chúa chứ không phải lớn tiếng kể lể với người khác.
Khi ăn chay đừng làm ra mặt thiểu não và ủ dột. Ăn chay không cần tỏ lộ ra bề ngoài cho người ta thấy để nhận tiếng khen. Ăn chay là tiết chế, là hãm mình và hy sinh trút bỏ một điều gì để giúp mình thanh thoát hơn.
Khi làm phúc bố thí, hãy làm cách kín đáo. Đừng khoe khoang công đức trước mắt người đời để được khen ngợi, làm như thế là họ đã được thưởng công rồi.
Cầu nguyện, ăn chay và bố thí, cả ba việc cần được thực hiện với ý hướng nội tâm và tránh mọi hình thức biểu dương để được người đời khen ngợi. Chúng ta hãy cố gắng thực hiện các việc lành cách kín đáo, Cha chúng ta ở trên trời sẽ thấu tỏ tấm lòng của chúng ta và sẽ ban ơn cho chúng ta.
THỨ NĂM SAU LỄ TRO
Luca 9: 22-25
Chúa Giêsu nói với mọi người rằng: Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Mới vào nhập môn theo Chúa, chúng ta đã thấy có những gánh nặng phải mang vác. Chúa Giêsu vạch rõ con đường theo Chúa là con đường thánh giá. Con đường theo Chúa là con đường hẹp và nhiều chông gai.
Chúa mời gọi chúng ta theo Chúa, trước hết hãy từ bỏ chính mình. Nói thì đơn giản nhưng thực hành thật là khó khăn. Từ bỏ chính mình là từ bỏ ý riêng, từ bỏ những ước muốn dục vọng và từ bỏ những khoái thích của cuộc sống. Thân xác nặng nề và yếu đuối cứ kéo ghì chúng ta xuống và ước muốn buông xuôi thì nhẹ nhàng hơn. Từ bỏ mình là một sự phấn đấu không ngừng.
Từ bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày. Ai trong chúng ta cũng có những thập giá phải vác phải mang. Có những thánh giá nặng nề lê thê, có những thánh giá xần sùi ghê rợn, có những thánh giá cộc cằn khô cứng, hãy vác mà đi theo Chúa. Từ bỏ mình đã khó, vác thánh giá còn khó hơn. Chúa khuyến khích chúng ta vác thánh giá đi theo Chúa chứ không phải vác đi một mình. Chúa vác thánh giá đi trước, chúng ta theo sau. Hãy nhìn thánh giá của Chúa và nhìn lại thánh giá của chúng ta. Muốn có sức mạnh để tiếp tục vác thánh giá, chỉ có một cách duy nhất là Vác Thánh Giá Theo Chúa.
THỨ SÁU SAU LỄ TRO
Mt. 9: 14-15
Môn đệ của thánh Gioan ăn chay thường, còn các môn đệ của Chúa Giêsu lại không. Các môn đệ của thánh Gioan giữ các luật buộc về an chay giống như các người biệt phái. Mỗi tuần phải ăn chay vài lần để tu luyện. Ăn chay thì tốt nhưng cũng cần có ý hướng tốt.
Thường khi các nhóm hay so sánh và bắt bẻ nhau về cách sống đạo. Họ tranh luận hơn thiệt về cách thực hành các điều luật dạy. Họ suy nghĩ rằng người nào càng chu toàn luật, càng tỏ ra là người thánh thiện và hoàn hảo. Qua câu truyện, Chúa Giêsu muốn đi vào ý nghĩa thật của việc ăn chay. Chúa cũng có ý bênh đỡ các môn đệ của Ngài. Chúa phán rằng: Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi chàng rể đang ở với họ? Đúng thế, họ không thể ăn chay và mặt mày buồn thảm khi tân lang còn đang hiện diện bên cạnh.
Chúa Giêsu có ý ám chỉ về chính Ngài. Ngài là tân lang của Giáo Hội. Ngài đến thiết lập một đạo lý mới và một Giáo Hội mới. Giáo Hội sống bằng nội tâm và tình yêu. Chưa tới lúc các môn đệ của Chúa phải ăn chay. Chỉ khi chàng rể bị đem đi khỏi họ, họ mới ăn chay.
Chúa Giêsu báo trước về cuộc khổ nạn của Chúa. Sẽ tới ngày Chúa Kitô bị treo trên thập giá, ngày đó các môn đệ sẽ hối lỗi, buồn thảm và chay tịnh.
THỨ BẢY SAU LỄ TRO
Luca 5: 27-32
Khi ra rao giảng, Chúa Giêsu đã phải đối diện với nhiều thứ quyền lực chung quanh. Các phong tục tập quán, các lề thói có sẵn và các truyền thống từ lâu đời là cái khung của cuộc sống. Mọi người dựa vào các tập tục để đoán xét và kết tội. Không ai có quyền vượt trên các truyền thống của cha ông. Cứ thế, đời này qua đời khác, người ta không thể thay đổi.
Chúa Giêsu ra giảng dạy và Ngài đã mở một lối thoát cho nhiều người. Cho dù gặp chống đối và thù ghét, Chúa đã canh tân cách nhìn về con người và cách sống đạo thực sự. Bài phúc âm nói về việc Chúa Giêsu gọi ông Lêvi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Chúa nói với ông: Hãy theo Ta. Ông bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Thật lạ lùng, lời Chúa phải có một sức đánh động mãnh liệt trong tâm hồn ông Lêvi.
Các người luật sĩ và biệt phái không thể hiểu tại sao Chúa Giêsu lại đi lại, ngồi chung và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Dưới con mắt của họ cũng như dân chúng, những người thu thuế được xếp vào hạng những người tội lỗi.
Chúa Giêsu đáp trả rất khôn ngoan: Những ai mạnh khỏe thì không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Chúa Giêsu đến tìm chữa lành những tâm hồn rách nát thương đau. Chúa yêu mến họ và Chúa mở rộng cánh tay đón mời họ. Chúng ta là những người tội lỗi, hãy xả thân vào lòng nhân hậu của Chúa. Chúa sẽ chữa lành cho chúng ta.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:26 18/02/2020
2. Một người làm việc thiện coi thường bản thân mình, đó là bằng chứng lòng khiêm tốn của linh hồn họ.
(sách Gương Chúa Giê-su)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")
-------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:35 18/02/2020
49. ĐỀ HÌNH NGANG TÀNG
Mỗ Lộ đề điểm hình ngục đi đến quận nọ để thị sát kiểm kê quân đội, thấy hộ nhung (1) thâm niên công vụ đã cao, bèn chất vấn quận thú và quan tá:
- “Hộ nhung tuổi cao như thế phải cho về hưu, tại sao lưu lại làm quân số bổ sung?”
Quận thú và quan tá không lời đối đáp.
Hộ nhung tức giận thô lỗ ứng tiếng nói:
- “Tôi vốn rất ghét làm chức võ quan này, chỉ là miễn cưỡng bị hạng con nít ấy bắt làm mới sung công chức vụ này, hôm nay quả nhiên bị nhục mạ.”
Đề điểm hình ngục vừa nghe thì biết là có chuyện gì đây bèn lập tức hỏi:
- “Hạng con nít ấy là ai?”
Đáp:
- “Không phải là cháu ngoại của Chương Đắc Tượng sao?” (họ Chương đang làm thừa tướng).
Đề hình nghe xong, trong lòng run cầm cập, vội vàng tiếp lời:
- “Mặc dù ông tuổi đã cao, nhưng tinh thần thời thanh niên không giảm, không biết là dùng loại thuốc bổ gì?”
Hộ nhung nói:
- “Xưa nay vốn không dùng thuốc bổ”.
Đề hình lại nịnh hót:
- “Thật là một vị lão tráng kiện.”
Liền ban cho rượu và bỏ đi.
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 49:
Người to gan như đề hình Mỗ Lộ chưa chắc là người can đảm, người lớn tuổi như hộ nhung thì chưa chắc là người nhát đảm, bởi vì đề hình đã lo sợ khi nghe nhắc đến cháu ngoại của thừa tướng, còn hộ nhung cả gan dám chửi cháu ngoại của thừa tướng mà không sợ chết.
Ma quỷ tuy là xảo quyệt ghê gớm mà lại còn “to gan” nữa, nhưng chúng nó vẫn cứ run sợ khi nghe đến tên Đức Chúa Giê-su, tên Đức Mẹ Ma-ri-a và tên thánh cả Giu-se, bởi vì những tên gọi này là rất gần gũi thân thương và đầy quyền uy của người Ki-tô hữu, nhưng lại kỵ rơ với ma quỷ cũng như những cám dỗ của nó.
Người Ki-tô hữu dù tuổi nhỏ hay tuổi đã cao thì cũng vẫn là người Ki-tô hữu, nghĩa là họ vẫn luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng và ban sức mạnh thiêng liêng cho họ, để họ trở nên người can đảm dũng mạnh trước những thử thách, trước những càm dỗ của ma quỷ, cho nên họ -người Ki-tô hữu- sẽ luôn là những con người trở thành mục tiêu tấn công của ma quỷ và thế gian, vì thế hhọ đã sống như thánh Phaolô đã nói: “Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh”, nghĩa là khi họ bị cám dỗ là những lúc họ tràn đầy ơn Thiên Chúa nhất.
Mạnh thân xác không có nghĩa là người can đảm, nhưng tâm hồn tràn đầy ơn Thiên Chúa mới thật sự là người can đảm.
(1) Võ quan của một châu (quận).
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗ Lộ đề điểm hình ngục đi đến quận nọ để thị sát kiểm kê quân đội, thấy hộ nhung (1) thâm niên công vụ đã cao, bèn chất vấn quận thú và quan tá:
- “Hộ nhung tuổi cao như thế phải cho về hưu, tại sao lưu lại làm quân số bổ sung?”
Quận thú và quan tá không lời đối đáp.
Hộ nhung tức giận thô lỗ ứng tiếng nói:
- “Tôi vốn rất ghét làm chức võ quan này, chỉ là miễn cưỡng bị hạng con nít ấy bắt làm mới sung công chức vụ này, hôm nay quả nhiên bị nhục mạ.”
Đề điểm hình ngục vừa nghe thì biết là có chuyện gì đây bèn lập tức hỏi:
- “Hạng con nít ấy là ai?”
Đáp:
- “Không phải là cháu ngoại của Chương Đắc Tượng sao?” (họ Chương đang làm thừa tướng).
Đề hình nghe xong, trong lòng run cầm cập, vội vàng tiếp lời:
- “Mặc dù ông tuổi đã cao, nhưng tinh thần thời thanh niên không giảm, không biết là dùng loại thuốc bổ gì?”
Hộ nhung nói:
- “Xưa nay vốn không dùng thuốc bổ”.
Đề hình lại nịnh hót:
- “Thật là một vị lão tráng kiện.”
Liền ban cho rượu và bỏ đi.
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 49:
Người to gan như đề hình Mỗ Lộ chưa chắc là người can đảm, người lớn tuổi như hộ nhung thì chưa chắc là người nhát đảm, bởi vì đề hình đã lo sợ khi nghe nhắc đến cháu ngoại của thừa tướng, còn hộ nhung cả gan dám chửi cháu ngoại của thừa tướng mà không sợ chết.
Ma quỷ tuy là xảo quyệt ghê gớm mà lại còn “to gan” nữa, nhưng chúng nó vẫn cứ run sợ khi nghe đến tên Đức Chúa Giê-su, tên Đức Mẹ Ma-ri-a và tên thánh cả Giu-se, bởi vì những tên gọi này là rất gần gũi thân thương và đầy quyền uy của người Ki-tô hữu, nhưng lại kỵ rơ với ma quỷ cũng như những cám dỗ của nó.
Người Ki-tô hữu dù tuổi nhỏ hay tuổi đã cao thì cũng vẫn là người Ki-tô hữu, nghĩa là họ vẫn luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng và ban sức mạnh thiêng liêng cho họ, để họ trở nên người can đảm dũng mạnh trước những thử thách, trước những càm dỗ của ma quỷ, cho nên họ -người Ki-tô hữu- sẽ luôn là những con người trở thành mục tiêu tấn công của ma quỷ và thế gian, vì thế hhọ đã sống như thánh Phaolô đã nói: “Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh”, nghĩa là khi họ bị cám dỗ là những lúc họ tràn đầy ơn Thiên Chúa nhất.
Mạnh thân xác không có nghĩa là người can đảm, nhưng tâm hồn tràn đầy ơn Thiên Chúa mới thật sự là người can đảm.
(1) Võ quan của một châu (quận).
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Con đường mới cho nhân loại
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
23:12 18/02/2020
Chúa Nhật 7 Thường Niên A
1. Romeo và Juliet
Cách đây mấy năm, từ Rôma tôi hành hương đến Nhà thờ Chính tòa Vêrôna và đi thăm căn nhà Juliet. Khách du lịch đến đây thật đông vì muốn xem tận mắt nơi dệt nên câu chuyện tình lãng mạn bi thương.
Romeo và Juliet là một trong những vở kịch bất hủ trên sân khấu quốc tế do William Shakespeare viết. Cốt chuyện là tình yêu say đắm với kết cục bi thảm của hai người thuộc về hai dòng họ vốn đã thù hận nhau nhiều thế hệ.
Romeo và Juliet được viết vào khoảng 1594 - 1595, dựa trên một cốt truyện có sẵn kể về một mối tình oan trái vốn là câu chuyện có thật, từng xảy ra ở Ý thời Trung Cổ.
Câu chuyện bắt đầu tại thành Verona, hai dòng họ nhà Montague và nhà Capulet có mối hận thù lâu đời. Romeo, con trai họ Montague. Juliet, con gái họ Capulet. Đôi trẻ đã yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu tiên tại buổi dạ tiệc tổ chức tại nhà Capulet, do là dạ tiệc hoá trang nên Romeo mới có thể trà trộn vào trong đó. Đôi trai gái này đã đến nhà thờ nhờ linh mục Friar Laurence bí mật làm lễ cưới.
Đột nhiên xảy ra một sự việc: do xung khắc, anh họ của Juliet là Tybalt đã giết chết người bạn rất thân của Romeo là Mercutio. Để trả thù cho bạn, Romeo đã đâm chết Tybalt. Mối thù giữa hai dòng họ càng trở nên sâu nặng. Vì tội giết người nên Romeo bị trục xuất khỏi Verona và bị đi đày biệt xứ. Tưởng như mối tình của Romeo và Juliet bị tan vỡ khi Romeo đi rồi, Juliet bị cha mẹ ép gả cho Bá tước Paris. Juliet cầu cứu sự giúp đỡ của cha Laurence. Ngài cho nàng uống một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết, thuốc có tác dụng trong vòng 24 tiếng. Ngài sẽ báo cho Romeo đến hầm mộ cứu nàng trốn khỏi thành Verona. Đám cưới giữa Juliet và Paris trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ. Cha Laurence chưa kịp báo cho Romeo thì từ chỗ bị lưu đày nghe tin Juliet chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Trên đường về chàng kịp mua một liều thuốc cực độc dành cho mình. Tại nghĩa địa, gặp Paris đến viếng Juliet, Romeo đâm chết Paris rồi uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh đã chết, Juliet rút dao tự vẫn. Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Bên xác hai người, hai dòng họ đã quên mối thù truyền kiếp và bắt tay nhau đoàn tụ, nhưng câu chuyện tình yêu ấy vẫn mãi sẽ là nỗi đau rất lớn trong lòng những người biết đến họ.
Câu chuyện tình bất hủ Romeo và Juliet đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch, những bộ phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Romeo Juliet là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến đau thương cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi phát từ tâm hồn ích kỷ.
2. Giáo huấn độc đáo của Chúa Giêsu
“Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch”. Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18). Theo đó, người Do thái chỉ yêu thương những người đồng loại, tức là những người thuộc dân riêng của Chúa, dân Israel. Còn dân ngoại, họ coi như thù địch. Họ còn có luật và bổn phận ghét người ngoại bang, nhất là dân Amalec, dân Moab (x. Đnl 25,18; 23,6).
Chúa Giêsu đã kiện toàn những giới hạn của luật cũ, và mạc khải cách trọn hảo về điều luật mới, khi dạy: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù” (Mt 5,43a).
Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau; Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”; Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ: lấy thiện thắng ác.Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào; Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là : Làm ơn cho kẻ ghét mình.Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.Ai lấy gì thì đừng đòi lại…Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Người đã sống yêu thương, luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với mình, mặc dù họ ghen ghét vô cớ, họ luôn tìm dịp tố cáo xuyên tạc lời Người giảng dạy. Chúa Giêsu dạy: lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời "Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…".
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nổ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
3. Con đường mới cho nhân loại
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
“Yêu thương kẻ thù” là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, nói gì đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho nhau. Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”.
Trong cuộc sống, người ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Hãy cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Trong bài đọc 1, ông Môisen dạy: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác. Còn thánh Phaolô đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác (bài đọc 2).
Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Lạy Chúa Giêsu, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bi thảm: Người dân Trung Quốc tái mặt - Giám đốc bệnh viện hàng đầu Vũ Hán cũng chết vì COVID-19
Đặng Tự Do
04:38 18/02/2020
Người đứng đầu một bệnh viện hàng đầu ở thành phố Vũ Hán, trung tâm của Trung Quốc, và cũng là tâm chấn của trận dịch coronavirus kinh hoàng, đã chết vì căn bệnh này vào hôm thứ Ba, truyền hình nhà nước Trung Quốc đã cho biết như trên trong bản tin trưa thứ Ba 18 tháng Hai.
Ông trở thành bác sĩ Trung Quốc nổi tiếng thứ hai đã thúc thủ trước bệnh dịch này.
Theo các phương tiện truyền thông của nhà nước Trung Quốc, Bác sĩ Lưu Chí Minh (Liu Zhiming - 刘志明), là giám đốc bệnh viện Vũ Xương (Wuchang - 武昌) của thành phố Vũ Hán, đã qua đời lúc 10:30 sáng thứ Ba 18 tháng Hai.
Đầu tháng này, hàng triệu người ở Trung Quốc đã thương tiếc cái chết của bác sĩ Lý văn Lương (Li Wenliang - 李文亮). Anh là bác sĩ đầu tiên đưa ra cảnh báo về coronavirus và công an đã bắt anh phải im lặng. Anh đã chết trong bệnh viện sau khi nhiễm bệnh từ các bệnh nhân. Cái chết của anh - đầu tiên bị bọn cầm quyền phủ nhận, sau đó được cả truyền thông nhà nước thừa nhận - đang gây ra những lời bình luận dữ dội trên mạng, ngay cả khi công an internet đang cố gắng xóa sạch những lời bình luận.
Tháng 12 năm ngoái, vị bác sĩ 34 tuổi này đã gửi tin nhắn cho các đồng nghiệp của mình để cảnh báo về một loại virus tương tự như virus Sars. Nhưng công an internet đã ngay lập tức can thiệp và cáo buộc anh ta “tung tin đồn” gây rối trật tự công cộng. Sau đó, anh bị nhiễm virus và bị cô lập tại Bệnh viện Trung ương Vũ Hán.
Hàng chục ngàn nhân viên y tế đã chiến đấu để ngăn chặn sự lây lan của coronavirus, được bọn cầm quyền cho là xuất hiện lần đầu tiên tại một chợ hải sản ở Vũ Hán, thủ phủ của tỉnh miền trung Hồ Bắc.
Tin tức về cái chết của bác sĩ Lương đã xuất hiện vào khoảng 9h30 tối ngày thứ Năm 6 tháng Hai, thoạt đầu cũng được các phương tiện truyền thông của Đảng, như tờ Hoàn cầu Thời báo, và tờ Nhân dân đưa tin. Nhưng nhiều giờ sau đó, tin tức này đã bị phủ nhận, nói rằng bác sĩ Lương thực sự đang được điều trị đặc biệt. Các nhà báo và các bác sĩ nói rằng các thành viên của chính phủ đã đến bệnh viện, buộc mọi người phải thay đổi bản tin của họ, nói rằng bác sĩ vẫn còn sống. Nhưng khoảng 3 giờ sáng, các bác sĩ đã quyết định thông báo cái chết của anh.
Lần này cũng như trong trường hợp cái chết của bác sĩ Lương, đã có những cố gắng nhằm che đậy cái chết của bác sĩ Lưu Chí Minh.
Vào tối thứ Hai, Ủy ban Y tế Hồ Bắc cho biết bác sĩ Minh đã chết. Nhưng ngay sau đó, ban tuyên giáo của tỉnh ủy cộng sản Hồ Bắc lại ra một thông báo thứ hai nói anh vẫn còn sống.
Thông báo nói rằng “Theo những người thân của bác sĩ Minh, bệnh viện vẫn đang cố gắng hết sức để cứu sống anh,” và nói thêm rằng thông tin sai lệch trước đó là từ một người bạn thân của bác sĩ Lưu Chí Minh, là người không am tường gì về tình trạng mới nhất của vị bác sĩ này.
Ban tuyên giáo của tỉnh ủy cộng sản Hồ Bắc đã không đưa ra bất cứ tin tức nào khác cho đến khi truyền hình nhà nước tuyên bố cái chết của bác sĩ Minh vào trưa ngày thứ Ba.
Bắc Kinh bị buộc tội che đậy toàn bộ đợt bùng phát hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) năm 2002. Trong vụ dịch coronavirus hiện nay, Bắc Kinh cũng đã làm y hệt như vậy. Cộng sản mà!
Vì sự che đậy này, khi cơn dịch đã lan tràn các nhân viên y tế phải chống trả rất vất vả với thứ virus nguy hiểm này. Một quan chức y tế cấp cao của Trung Quốc cho biết hôm thứ Sáu rằng 1,716 nhân viên y tế đã bị nhiễm coronavirus, hay còn gọi là COVID-19, và sáu người trong số họ đã chết.
Xin quý vị và anh chị em chú ý: Virus này rất dễ lây lan, và đây là loại virus không có thuốc chữa. Những ai phải sống trong các chế độ gian trá và bưng bít thông tin, xin hết sức cẩn thận. Bác sĩ giám đốc bệnh viện còn chết huống hồ gì là dân thường chúng ta.
Source:ReutersHospital director dies in China's Wuhan, epicenter of coronavirus outbreak
Ông trở thành bác sĩ Trung Quốc nổi tiếng thứ hai đã thúc thủ trước bệnh dịch này.
Theo các phương tiện truyền thông của nhà nước Trung Quốc, Bác sĩ Lưu Chí Minh (Liu Zhiming - 刘志明), là giám đốc bệnh viện Vũ Xương (Wuchang - 武昌) của thành phố Vũ Hán, đã qua đời lúc 10:30 sáng thứ Ba 18 tháng Hai.
Đầu tháng này, hàng triệu người ở Trung Quốc đã thương tiếc cái chết của bác sĩ Lý văn Lương (Li Wenliang - 李文亮). Anh là bác sĩ đầu tiên đưa ra cảnh báo về coronavirus và công an đã bắt anh phải im lặng. Anh đã chết trong bệnh viện sau khi nhiễm bệnh từ các bệnh nhân. Cái chết của anh - đầu tiên bị bọn cầm quyền phủ nhận, sau đó được cả truyền thông nhà nước thừa nhận - đang gây ra những lời bình luận dữ dội trên mạng, ngay cả khi công an internet đang cố gắng xóa sạch những lời bình luận.
Tháng 12 năm ngoái, vị bác sĩ 34 tuổi này đã gửi tin nhắn cho các đồng nghiệp của mình để cảnh báo về một loại virus tương tự như virus Sars. Nhưng công an internet đã ngay lập tức can thiệp và cáo buộc anh ta “tung tin đồn” gây rối trật tự công cộng. Sau đó, anh bị nhiễm virus và bị cô lập tại Bệnh viện Trung ương Vũ Hán.
Hàng chục ngàn nhân viên y tế đã chiến đấu để ngăn chặn sự lây lan của coronavirus, được bọn cầm quyền cho là xuất hiện lần đầu tiên tại một chợ hải sản ở Vũ Hán, thủ phủ của tỉnh miền trung Hồ Bắc.
Tin tức về cái chết của bác sĩ Lương đã xuất hiện vào khoảng 9h30 tối ngày thứ Năm 6 tháng Hai, thoạt đầu cũng được các phương tiện truyền thông của Đảng, như tờ Hoàn cầu Thời báo, và tờ Nhân dân đưa tin. Nhưng nhiều giờ sau đó, tin tức này đã bị phủ nhận, nói rằng bác sĩ Lương thực sự đang được điều trị đặc biệt. Các nhà báo và các bác sĩ nói rằng các thành viên của chính phủ đã đến bệnh viện, buộc mọi người phải thay đổi bản tin của họ, nói rằng bác sĩ vẫn còn sống. Nhưng khoảng 3 giờ sáng, các bác sĩ đã quyết định thông báo cái chết của anh.
Lần này cũng như trong trường hợp cái chết của bác sĩ Lương, đã có những cố gắng nhằm che đậy cái chết của bác sĩ Lưu Chí Minh.
Vào tối thứ Hai, Ủy ban Y tế Hồ Bắc cho biết bác sĩ Minh đã chết. Nhưng ngay sau đó, ban tuyên giáo của tỉnh ủy cộng sản Hồ Bắc lại ra một thông báo thứ hai nói anh vẫn còn sống.
Thông báo nói rằng “Theo những người thân của bác sĩ Minh, bệnh viện vẫn đang cố gắng hết sức để cứu sống anh,” và nói thêm rằng thông tin sai lệch trước đó là từ một người bạn thân của bác sĩ Lưu Chí Minh, là người không am tường gì về tình trạng mới nhất của vị bác sĩ này.
Ban tuyên giáo của tỉnh ủy cộng sản Hồ Bắc đã không đưa ra bất cứ tin tức nào khác cho đến khi truyền hình nhà nước tuyên bố cái chết của bác sĩ Minh vào trưa ngày thứ Ba.
Bắc Kinh bị buộc tội che đậy toàn bộ đợt bùng phát hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) năm 2002. Trong vụ dịch coronavirus hiện nay, Bắc Kinh cũng đã làm y hệt như vậy. Cộng sản mà!
Vì sự che đậy này, khi cơn dịch đã lan tràn các nhân viên y tế phải chống trả rất vất vả với thứ virus nguy hiểm này. Một quan chức y tế cấp cao của Trung Quốc cho biết hôm thứ Sáu rằng 1,716 nhân viên y tế đã bị nhiễm coronavirus, hay còn gọi là COVID-19, và sáu người trong số họ đã chết.
Xin quý vị và anh chị em chú ý: Virus này rất dễ lây lan, và đây là loại virus không có thuốc chữa. Những ai phải sống trong các chế độ gian trá và bưng bít thông tin, xin hết sức cẩn thận. Bác sĩ giám đốc bệnh viện còn chết huống hồ gì là dân thường chúng ta.
Source:Reuters
Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy có một trái tim đầy lòng trắc ẩn
Thanh Quảng sdb
18:23 18/02/2020
Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy có một trái tim đầy lòng trắc ẩn
"Thuốc chống lại lòng chai dạ đá là tình mến", Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ trong bài giảng Thánh lễ sáng thứ Ba tại nguyện đường thánh nữ Marta ở Vatican. Ngài mời gọi các Kitô hữu đừng quên ân sủng của ơn cứu rỗi với một trái tim chân thành và đầy tình thương xót.
(Tin Vatican - Robin Gomes)
Trong bài giảng Đức Thánh Cha Phanxicô đã suy tư từ Phúc âm thánh Marcô của ngày thứ ba thường niên khi Chúa Giêsu nhận thấy các tông đồ lo lắng vì quên mang bánh theo. Chúa Giêsu đã nêu lên mối quan tâm của ăn vật chất, hầu giúp các ông siêu vượt lên một lãnh vực khác cao hơn. Chúa Giêsu trách các ông sao chậm tin... Đúng là các ông có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe! Chúa nhắc nhở cho các ông về phép lạ Chúa bẻ năm chiếc bánh để nuôi sống năm ngàn người mà các ông còn thu lại nhiều giỏ đầy mảnh vụn!
Khi thiếu lòng trắc ẩn thì cũng bạn lo lắng tới vật chất…
Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nêu ra sự khác biệt giữa một trái tim cứng cỏi của các môn tông đồ với một trái tim từ bi của người môn sinh theo ý Chúa.
Lòng trắc ẩn là những gì Chúa muốn nơi chúng ta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói thêm: "Thiên Chúa muốn lòng thương xót, chứ không phải hy lễ". Đức Thánh Cha nói một trái tim không có lòng trắc ẩn là một trái tim chai cứng, một trái tim khư khư ích kỷ, độc tôn ý thức hệ.
Chúa Giêsu phá vỡ sự cứng lòng
Để chữa chứng độc tôn này, Đức Thánh Cha Phanxicô nói có một "liều thuốc", đó là lòng thương xót. Đây là lý do tại sao, Đức Thánh Cha nói trong Tin mừng ngày hôm nay và trong nhiều đoạn Kinh thánh khác, luôn âm vang cái nhu cầu và sự khát vọng cứu chuộc của lòng thương xót, một "hồng ân" giúp cho tâm lòng chúng ta được “rộng mở và trung thành".
Đức Thánh Cha nói: Khi trái tim chai cứng, thì người ta quên đi ân sủng cứu rỗi! Một trái tim sắt đá chỉ đưa đến cãi vã, chiến tranh, ích kỷ và hủy hoại anh chị em mình vì không có lòng thương xót. Đức Thánh Cha Phanxicô cho hay sứ điệp cứu rỗi lớn nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là lòng thương xót. Tin Mừng thường lặp đi lặp lại Chúa Giêsu chạnh lòng khi nhìn thấy một người đau khổ... hay một thảm cảnh thương tâm… Chúa Giêsu là lòng trắc ẩn của Chúa Cha, là lời mời gọi thức tỉnh cho sự chai cứng của trái tim con người.
Một trái tim biết rộng mở
Do đó, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến nhu cầu xin Chúa thương ban cho chúng ta một trái tim biết yêu thương rung cảm…
"Khi Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta ở tù, các ngươi thăm viếng; Ta đau khổ các ngươi an ủi", Đức Thánh Cha Phanxicô kể ra một loạt những gì được viết trong Tin Mừng và đây chính là lòng từ bi trắc ẩn". Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự khiêm nhường, lòng thương xót chính là cội nguồn và ơn cứu rỗi của chúng ta.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong mỗi người trong chúng ta luôn có một cái gì đó ích kỷ muốn chúng ta khép lòng lại! Hãy nhớ điều này là Thiên Chúa ban cho chúng ta một trái tim yêu thương chân chính, là đền thờ Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa không thể tới với một trái tim chai cứng và đầy ý thức hệ. Ngài sẽ ngự vào những trái tim giống như trái tim của Ngài: một trái tim rộng mở và yêu thương xả kỷ...
"Thuốc chống lại lòng chai dạ đá là tình mến", Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ trong bài giảng Thánh lễ sáng thứ Ba tại nguyện đường thánh nữ Marta ở Vatican. Ngài mời gọi các Kitô hữu đừng quên ân sủng của ơn cứu rỗi với một trái tim chân thành và đầy tình thương xót.
(Tin Vatican - Robin Gomes)
Trong bài giảng Đức Thánh Cha Phanxicô đã suy tư từ Phúc âm thánh Marcô của ngày thứ ba thường niên khi Chúa Giêsu nhận thấy các tông đồ lo lắng vì quên mang bánh theo. Chúa Giêsu đã nêu lên mối quan tâm của ăn vật chất, hầu giúp các ông siêu vượt lên một lãnh vực khác cao hơn. Chúa Giêsu trách các ông sao chậm tin... Đúng là các ông có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe! Chúa nhắc nhở cho các ông về phép lạ Chúa bẻ năm chiếc bánh để nuôi sống năm ngàn người mà các ông còn thu lại nhiều giỏ đầy mảnh vụn!
Khi thiếu lòng trắc ẩn thì cũng bạn lo lắng tới vật chất…
Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nêu ra sự khác biệt giữa một trái tim cứng cỏi của các môn tông đồ với một trái tim từ bi của người môn sinh theo ý Chúa.
Lòng trắc ẩn là những gì Chúa muốn nơi chúng ta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói thêm: "Thiên Chúa muốn lòng thương xót, chứ không phải hy lễ". Đức Thánh Cha nói một trái tim không có lòng trắc ẩn là một trái tim chai cứng, một trái tim khư khư ích kỷ, độc tôn ý thức hệ.
Chúa Giêsu phá vỡ sự cứng lòng
Để chữa chứng độc tôn này, Đức Thánh Cha Phanxicô nói có một "liều thuốc", đó là lòng thương xót. Đây là lý do tại sao, Đức Thánh Cha nói trong Tin mừng ngày hôm nay và trong nhiều đoạn Kinh thánh khác, luôn âm vang cái nhu cầu và sự khát vọng cứu chuộc của lòng thương xót, một "hồng ân" giúp cho tâm lòng chúng ta được “rộng mở và trung thành".
Đức Thánh Cha nói: Khi trái tim chai cứng, thì người ta quên đi ân sủng cứu rỗi! Một trái tim sắt đá chỉ đưa đến cãi vã, chiến tranh, ích kỷ và hủy hoại anh chị em mình vì không có lòng thương xót. Đức Thánh Cha Phanxicô cho hay sứ điệp cứu rỗi lớn nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là lòng thương xót. Tin Mừng thường lặp đi lặp lại Chúa Giêsu chạnh lòng khi nhìn thấy một người đau khổ... hay một thảm cảnh thương tâm… Chúa Giêsu là lòng trắc ẩn của Chúa Cha, là lời mời gọi thức tỉnh cho sự chai cứng của trái tim con người.
Một trái tim biết rộng mở
Do đó, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến nhu cầu xin Chúa thương ban cho chúng ta một trái tim biết yêu thương rung cảm…
"Khi Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta ở tù, các ngươi thăm viếng; Ta đau khổ các ngươi an ủi", Đức Thánh Cha Phanxicô kể ra một loạt những gì được viết trong Tin Mừng và đây chính là lòng từ bi trắc ẩn". Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự khiêm nhường, lòng thương xót chính là cội nguồn và ơn cứu rỗi của chúng ta.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong mỗi người trong chúng ta luôn có một cái gì đó ích kỷ muốn chúng ta khép lòng lại! Hãy nhớ điều này là Thiên Chúa ban cho chúng ta một trái tim yêu thương chân chính, là đền thờ Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa không thể tới với một trái tim chai cứng và đầy ý thức hệ. Ngài sẽ ngự vào những trái tim giống như trái tim của Ngài: một trái tim rộng mở và yêu thương xả kỷ...
Nhà thờ chánh toà ở Geneva Thụy Sĩ khôi phục Thánh Lễ Công Giáo sau 500 năm cấm đoán.
Trần Mạnh Trác
20:36 18/02/2020
Ngôi nhà thờ từng là nhà thờ chánh toà cuả Giáo phận Công Giáo ở Genève từ thế kỷ thứ IV cho đến thời Cải cách Tin lành. Thánh lễ cuối cùng đã được cử hành vào năm 1535. Sau cuộc Cải cách, ngôi nhà thờ bị nhómTin lành của John Calvin tịch thu, tượng và tranh của nhà thờ bị phá hủy, và việc thờ phượng Công Giáo bị cấm đoán cho đến ngày nay.
Cha Pascal Desthieux, hạt trưởng các giáo xứ Công Giáo tại Geneva, mô tả nhà thờ “là trung tâm và biểu tượng của lịch sử Kitô giáo ở Geneva”.
“Sau cuộc cải cách, nhà thờ đã trở thành một biểu tượng của giáo phái Calvinist,” Ngài viết trên trang web cuả ngài.
Nhắc lại, Ông John Calvin là người sống ở Geneva và đã sáng lập ra giáo phái Calvinist, thành phố này đã trở thành điểm đến của nhiều người Tin lành gốc Pháp phải chạy trốn vì bị đàn áp. Nhà thờ Saint-Pierre de Genève trở thành trụ sở chính của giáo phái Calvinist và chiếc ghế của ông Calvin được trưng bày bên cạnh bục giảng của nhà thờ.
Giáo phận (bị bức tử) Genève đã được sát nhập vào một Giáo phận mới là giáo phận “Lausanne, Geneva và Fribourg.” Ngày nay, không đầy 40% người Thụy Sĩ còn theo đạo Công Giáo.
Theo yêu cầu của người Tin lành ở Geneva, thì Cha Desthieux sẽ cử hành Thánh lễ chứ không phải là Đức Giám Mục Charles Morerod của Lausanne, Geneva và Fribourg. Nhưng, theo Cha Desthieux cho biết, thì Đức cha Morerod coi Thánh lễ này là một sự kiện lịch sử cuả địa phương.
Trong khi thừa nhận rằng sự tái lập Thánh lễ Công Giáo ở nhà thờ là một nguyên nhân để vui mừng, Cha Desthieux cũng cảnh báo người Công Giáo không nên có một thái độ chiến thắng, hoặc có bất kỳ ngôn ngữ nào cho thấy người Công Giáo đang tìm cách chiếm lại ngôi nhà thờ.
“Với các anh chị em Tin lành, là những người đang chào đón chúng ta trong nhà thờ của họ, chúng ta muốn thực hiện một cử chỉ đại kết mạnh mẽ, một dấu hiệu cho thấy tất cả chúng ta sống cùng nhau tại Geneva,” Cha nói. “Thánh lễ là một biểu hiệu cuả sự hiếu khách trong cộng đồng Kitô giáo của thành phố,” vị linh mục nói.
“Những người anh em Tin lành của chúng ta sẽ chào đón chúng ta, và chúng ta sẽ cho phép mình được chào đón,” Cha Desthieux nói.
Ngày và thời gian của Thánh lễ được chọn trùng với thời điểm bắt đầu mùa Chay sám hối. Thánh lễ sẽ được cử hành lúc 6:30 chiều thứ bảy, làm tức là lễ vọng cuả Chúa Nhật đầu tiên Mùa Chay.
“Chúng ta chọn cử hành Thánh lễ lịch sử này vào đầu Mùa Chay, để diễn tả việc đền tội và xin ơn tha thứ cho các tội lỗi chống lại sự hiệp nhất của chúng ta.”
Tất cả các Thánh lễ thứ Bảy khác tại thành phố Geneva sẽ bị hủy vào ngày 29 tháng 2, để tất cả mọi người Công Giáo ở thành phố đi tham dự Thánh lễ tại nhà thờ chính toà.
Nhưng có một vấn đề đang trở thành đề tài tranh cãi không lối thoát.
Một số ý kiến địa phương đã gợi ý rằng nên cho những người Tin lành được rước lễ trong dịp này, mặc dù đây là điều giáo luật cấm.
Theo Ông Daniel Pilly, chủ tịch hội đồng giáo xứ Saint-Pierre de Genève, thì việc cho những người Tin lành rước lễ trong các buổi đọc kinh chung là một việc thông thường đã xảy ra ở Geneva.
“Người Tin Lành được Rước Lễ là một việc đã được thực hiện trong nhiều giáo xứ trong những buổi lễ đại kết”, ông Pilly nói như vậy với thông tấn xã Protest Info, một hãng thông tấn cuả Thụy Sĩ.
Nhưng theo tin cuả tờ báo Geneva Tribune, thì những người theo đạo Tin lành tham dự Thánh lễ vào ngày 29 tháng 2 sẽ không được khuyến khích rước lễ.
Theo giáo luật Công Giáo, thì chỉ những người Công Giáo được rửa tội và ở trong tình trạng ân sủng mới được phép rước lễ.
“Những người có đức tin khác ngoài Công Giáo sẽ không được mời chính thức đến Bí tích Thánh Thể, tức là việc chia sẻ bánh và rượu,” theo lời cuả bài báo.
Nói với tờ Geneva Tribune, Cha Desthieux cũng trích dẫn văn bản Redemptionis sacentum, là tài liệu năm 2004 cuả Thánh Bộ Kỷ luật về Bí tích, ngài giải thích rằng những người Tin lành tham dự Thánh lễ thường không được phép rước lễ.
“Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đặc biệt như thế này, chúng tôi thực hành những gì chúng tôi gọi là lòng “hiếu khách bí tích” bằng cách chào đón tất cả những người tiến lên nhận Mình Thánh Chúa,” Ngài nói.
Tuy nhiên Cha Desthieux đã không giải thích rõ ràng được là “hiếu khách bí tích” là một cơ sở như thế nào, mà phép “Thánh Thể” được phân phối một cách có chủ ý cho người Tin lành.
“Dù sao đi nữa,” Cha Desthieux nói một cách mập mờ, “tất cả mọi người đều được chào đón trong Thánh lễ.”
Nguyên Văn Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng Querida Amazonia: Chương bốn, tiếp theo và hết
Vũ Văn An
21:32 18/02/2020
Các cộng đồng tràn đầy sức sống
91. Bí tích Thánh Thể cũng là bí tích vĩ đại biểu thị và thể hiện sự hợp nhất của Giáo hội [134]. Nó được cử hành “để từ những người xa lạ, phân tán và thờ ơ lẫn nhau, chúng ta có thể trở nên đoàn kết, bình đẳng và bằng hữu [135]. Người chủ sự Thánh Thể phải cổ vũ sự hiệp thông, vốn không phải chỉ là bất cứ sự hợp nhất nào, mà là sự hợp nhất biết chào đón tính đa dạng dư dật của ơn phúc và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần hằng tuôn đổ trên cộng đồng.
92. Như thế, Bí tích Thánh Thể, như là nguồn và đỉnh cao, đòi ta phát triển tính đa dạng phong phú đó. Các linh mục rất cần thiết, nhưng điều này không có nghĩa các phó tế vĩnh viễn (nên có nhiều hơn nữa trong khu vực Amazon), các nữ tu và giáo dân không thể thường xuyên đảm nhận trách nhiệm quan trọng đối với sự phát triển của các cộng đồng và thực hiện các chức năng đó mỗi ngày một hữu hiệu với sự trợ giúp của một việc đồng hành thích đáng.
93. Do đó, không chỉ là vấn đề tạo điều kiện cho một sự hiện diện lớn hơn của các thừa tác viên thụ phong có thể cử hành Bí tích Thánh Thể. Đó chỉ là một mục tiêu rất hạn hẹp, nếu chúng ta đồng thời không cố gắng đánh thức sự sống mới trong các cộng đồng. Chúng ta cần thúc đẩy một cuộc gặp gỡ với lời Chúa và sự lớn lên trong thánh thiện qua các loại phục vụ khác nhau của giáo dân, những loại phục vụ đòi một diễn trình giáo dục – về Kinh thánh, giáo lý, linh đạo và thực tiễn - và một loạt các chương trình tu nghiệp đa dạng.
94. Một Giáo hội với các đặc điểm Amazon đòi phải có sự hiện diện ổn định của các nhà lãnh đạo trưởng thành và là giáo dân có thẩm quyền [136] và quen thuộc với ngôn ngữ, văn hóa, kinh nghiệm thiêng liêng và lối sống cộng đồng ở những nơi khác nhau, nhưng cũng cởi mở đối với tính đa dạng của các ơn phúc mà Chúa Thánh Thần vốn ban cho mọi người. Vì, bất cứ nơi nào có nhu cầu đặc thù, Người đều tuôn đổ những đặc sủng để có thể đáp ứng nó. Điều này đòi Giáo hội phải cởi mở đối với sự táo bạo của Chúa Thánh Thần, tin tưởng vào, và cụ thể cho phép, sự lớn mạnh của một nền văn hóa giáo hội chuyên biệt có đặc tính giáo dân rõ rệt. Các thách đố trong khu vực Amazon đòi nơi Giáo hội một nỗ lực đặc biệt để hiện diện ở mọi bình diện, và điều này chỉ có thể thực hiện được qua việc tham gia mạnh mẽ, rộng rãi và tích cực của giáo dân.
95. Nhiều người thánh hiến đã cống hiến năng lực và một phần lớn đời họ để phục vụ Nước Thiên Chúa ở Amazon. Đời sống thánh hiến, nhờ có khả năng đối thoại, tổng hợp, nhập thân và tiên tri, có một vị trí đặc biệt trong cấu hình đa dạng và hài hòa này của Giáo hội trong khu vực Amazon. Nhưng nó cần một động lực mới để hội nhập văn hóa, một động lực biết kết hợp tính sáng tạo, tính táo bạo truyền giáo, tính mẫn cảm và sức mạnh đặc trưng của đời sống cộng đồng.
96. Các cộng đồng căn bản, khi có khả năng kết hợp việc bảo vệ các quyền lợi xã hội với việc công bố truyền giáo và nền linh đạo, đã là những kinh nghiệm chân chính của tính đồng nghị trong hành trình truyền giảng Tin Mừng của Giáo hội trong khu vực Amazon. Trong nhiều trường hợp, chúng “từng giúp đào tạo nhiều Kitô hữu biết cam kết với đức tin, nhiều môn đệ và nhà truyền giáo của Chúa, như được chứng thực bởi sự cam kết quảng đại của rất nhiều thành viên của họ, thậm chí đến mức đổ máu họ ra” [137].
97. Tôi khuyến khích sự tăng trưởng của những nỗ lực hợp tác đang được thực hiện qua Mạng lưới Giáo hội Toàn vùng Amazon và các hiệp hội khác để thực hiện đề xuất của hội nghị Aparecida là “thiết lập một thừa tác vụ hợp tác giữa các Giáo Hội địa phương của các quốc gia Nam Mỹ khác nhau trong lưu vực sông Amazon, với các ưu tiên đã được dị biệt hóa [138]. Điều này đặc biệt áp dụng cho các mối tương quan giữa các Giáo hội nằm ở biên giới giữa các quốc gia.
98. Cuối cùng, tôi xin lưu ý điều này: chúng ta đừng lúc nào cũng nghĩ đến việc dự hoạch các dự án với các cộng đồng ổn định, vì ở khu vực Amazon, ta thấy có rất nhiều tính di chuyển nội bộ, do việc di dân liên tục và thường có tính đi đi về về như quả lắc (pendular); “khu vực này thực tế đã trở thành một hành lang di dân” [139]. “Việc chuyển dân [transhumance] ở Amazon chưa được hiểu rõ hoặc khảo sát đầy đủ theo quan điểm mục vụ” [140]. Do đó, nên suy nghĩ tới các nhóm truyền giáo lưu động và “cung cấp sự hỗ trợ cho việc hiện diện và tính di động của các người thánh hiến nam nữ gần gũi nhất với những người nghèo khổ và bị loại trừ nhất” [141]. Đây cũng là một thách đố đối với các cộng đồng đô thị của chúng ta, một thách đố phải tìm ra các cách thế sáng tạo và quảng đại, đặc biệt ở các vùng ngoại ô, để gần gũi và chào đón các gia đình và những người trẻ đến từ rừng sâu.
Sức mạnh và thiên phú của phụ nữ
99. Trong khu vực Amazon, có những cộng đồng đã từ lâu được bảo tồn và truyền lại đức tin dù không có linh mục nào đến với họ, thậm chí trong nhiều thập niên. Điều này có thể xảy ra vì sự hiện diện của những người đàn bà mạnh mẽ và quảng đại, chắc chắn nhờ được Chúa Thánh Thần kêu gọi và thúc đẩy, đã rửa tội, dạy giáo lý, cầu nguyện và hành động như những nhà truyền giáo. Trong nhiều thế kỷ, các phụ nữ đã giữ cho Giáo hội sống động ở những nơi đó qua sự tận tâm đáng lưu ý và đức tin sâu sắc của họ. Một số người trong số họ, phát biểu tại Thượng hội đồng, đã khiến chúng ta xúc động sâu sắc bởi các chứng từ của họ.
100. Điều này mời gọi chúng ta mở rộng viễn kiến của mình, kẻo chúng ta hạn chế sự hiểu biết của chúng ta về Giáo hội, coi Giáo Hội chỉ có các cơ cấu chức năng mà thôi. Một chủ nghĩa giản lược như vậy sẽ dẫn chúng ta tới chỗ tin rằng phụ nữ sẽ được ban cấp một địa vị và tham gia vào Giáo hội nhiều hơn, chỉ khi nào họ được gia nhập các chức thánh. Nhưng phương thức đó trong thực tế chỉ thu hẹp viễn kiến của chúng ta mà thôi; nó sẽ dẫn chúng ta đến việc giáo sĩ hóa phụ nữ, làm giảm giá trị to lớn của những gì họ đã hoàn thành và làm cho sự đóng góp không thể thiếu của họ trở nên kém hữu hiệu.
101. Chúa Giêsu Kitô xuất hiện như Chàng Rể của cộng đồng cử hành Thánh Thể qua hình bóng người đàn ông chủ trì như dấu chỉ Linh mục duy nhất. Cuộc đối thoại giữa Chàng Rể và Nàng dâu của Người, phát sinh trong việc thờ lạy và thánh hóa cộng đồng, không nên lừa chúng ta đi vào những quan niệm phiến diện về quyền lực trong Giáo hội. Chúa đã quyết định mặc khải quyền lực và tình yêu của Người qua hai khuôn mặt nhân bản: khuôn mặt của Con Thiên Chúa đã làm người của Người và khuôn mặt của một tạo vật, một người đàn bà, đó là Đức Maria. Phụ nữ đóng góp cho Giáo hội theo cách riêng của họ, bằng cách làm cho sức mạnh dịu dàng của Đức Maria, người Mẹ, trở nên hiên diện. Nhờ thế, chúng ta không còn tự giới hạn mình vào cách tiếp cận có tính chức năng nữa, nhưng thay vào đó, đi vào cơ cấu nội thẳm nhất của Giáo hội. Nhờ cách này, chúng ta sẽ hiểu ra tại sao, nếu không có phụ nữ, Giáo hội sẽ tan vỡ và biết bao cộng đồng ở Amazon sẽ sụp đổ, nếu phụ nữ không ở đó để nâng đỡ chúng, giữ chúng ở lại với nhau và chăm sóc chúng. Điều này cho thấy loại sức mạnh vốn là điển hình của họ.
102. Chúng ta phải tiếp tục khuyến khích những ơn phúc đơn sơ và không rắc rối đó, những ơn phúc cho phép các phụ nữ ở khu vực Amazon đóng một vai trò rất tích cực trong xã hội, mặc dù các cộng đồng này hiện phải đối diện với nhiều mối đe dọa mới và chưa từng có. Tình thế hiện nay đòi chúng ta phải khuyến khích sự xuất hiện các hình thức phục vụ và đặc sủng khác phù hợp với phụ nữ và đáp ứng nhu cầu chuyên biệt của các dân tộc trong khu vực Amazon tại thời điểm này của lịch sử.
103. Trong một Giáo hội đồng nghị, những người phụ nữ trên thực tế vốn đóng vai trò trung tâm trong các cộng đồng Amazon nên có quyền có các chức vụ, kể cả các chức vụ phục vụ giáo hội, không đòi các Chức Thánh và điều đó có thể biểu thị rõ hơn vai trò của họ. Ở đây, cần lưu ý điều này: các việc phục vụ này đòi phải có sự ổn định, phải được công khai công nhận và được giám mục ủy nhiệm. Điều này cũng cho phép phụ nữ gây được tác động thực sự và hữu hiệu đối với tổ chức, các quyết định quan trọng nhất và định hướng của các cộng đồng, trong khi tiếp tục làm như vậy theo cách có thể phản ảnh được phụ nữ tính của họ.
Mở rộng chân trời quá bên kia các xung đột
104. Điều thường xảy ra là ở những nơi đặc thù, những người làm công tác mục vụ tưởng nghĩ ra những giải pháp rất khác nhau cho những vấn đề họ gặp phải, và do đó đề xuất những hình thức rõ ràng đối lập nhau về việc tổ chức giáo hội. Khi điều này xảy ra, đáp ứng đích thực đối với các thách đố của việc truyền giảng Tin Mừng rất có thể nằm ở việc vượt qua hai phương thức và tìm ra phương thức khác, tốt hơn, có lẽ chưa ai tưởng nghĩ ra. Xung đột được khắc phục ở bình diện cao hơn, trong đó mỗi nhóm có thể tham gia với nhóm khác trong một thực tại mới, trong khi vẫn trung thành với chính mình. Mọi sự đều được giải quyết “trên một bình diện cao hơn và duy trì được những gì có giá trị và hữu ích cho cả hai phía” [142]. Nếu không, xung đột sẽ cạm bẫy chúng ta; “chúng ta đánh mất viễn ảnh của mình, các chân trời của chúng ta co cụm lại và chính thực tại cũng sẽ bắt đầu tan tác” [143].
105. Điều này không có nghĩa là tương đối hóa các vấn đề, chạy trốn chúng hoặc để sự việc ở nguyên như cũ. Các giải pháp chân chính không bao giờ được tìm thấy bằng cách làm giảm độ táo bạo, né tránh các yêu cầu cụ thể hoặc đổ lỗi cho người khác. Trái lại, các giải pháp được tìm thấy bởi “dòng quá tải” (overflow), nghĩa là, bằng cách vượt qua lập trường mâu thuẫn vốn hạn chế viễn kiến của chúng ta, và nhận ra ơn phúc lớn hơn mà Thiên Chúa đang đề nghị ban tặng. Từ ơn phúc mới này, nếu được chấp nhận một cách táo bạo và quảng đại, từ ơn phúc bất ngờ này, một ơn phúc đánh thức tính sáng tạo mới và lớn lao hơn, sẽ tuôn chẩy, như từ một suối nước đầy tràn, nhiều câu trả lời mà lập trường mâu thuẫn không cho phép chúng ta nhìn thấy. Trong những ngày tiên khởi, đức tin Kitô giáo đã lan truyền đáng kể bằng lối suy nghĩ này, lối suy nghĩ cho phép nó, vốn bắt nguồn từ Do Thái giáo, thành hình trong các nền văn hóa La Hy, và với thời gian, có được các hình thức khác biệt. Tương tự như vậy, trong thời điểm lịch sử này, khu vực Amazon thách thức chúng ta vượt qua các viễn ảnh hạn chế và các giải pháp “thực dụng” vốn bị hoen ố trong các cách tiếp cận phiến diện, ngõ hầu tìm ra những nẻo đường hội nhập văn hóa rộng lớn hơn và táo bạo hơn.
Sống chung đại kết và liên tôn
106. Ở một vùng Amazon có đặc điểm đa tôn giáo, các tín hữu chúng ta cần tìm nhiều dịp để nói chuyện với nhau và cùng nhau hành động vì thiện ích chung và cổ vũ người nghèo. Điều này không liên quan gì đến việc làm giảm hoặc che giấu các xác tín sâu sắc nhất của chúng ta khi chúng ta gặp gỡ những người khác có suy nghĩ khác với chúng ta. Nếu chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần có thể hoạt động giữa những khác biệt, thì chúng ta sẽ cố gắng để bản thân được làm giàu bởi cái hiểu sáng suốt đó, trong khi nắm lấy nó do cốt lõi các xác tín riêng và bản sắc của riêng chúng ta. Vì bản sắc càng sâu sắc, mạnh và phong phú, chúng ta càng có khả năng làm phong phú các người khác bằng sự đóng góp riêng của chính chúng ta.
107. Trong Kinh thánh, người Công Giáo chúng ta sở hữu một kho báu không được các tôn giáo khác chấp nhận, mặc dù đôi khi họ có thể đọc nó một cách thích thú và thậm chí quý trọng một số giáo huấn của nó. Chúng ta cố gắng làm một điều tương tự với các bản văn thánh thiêng của các tôn giáo và cộng đồng tôn giáo khác, những bản văn chứa đựng “các giới luật và giáo lý... thường phản ảnh một tia sáng sự thật vốn soi sáng mọi người nam nữ” [144]. Chúng ta cũng sở hữu kho tàng vĩ đại trong bảy bí tích, mà một số cộng đồng Kitô giáo không chấp nhận toàn bộ hoặc theo cùng một ý nghĩa. Đồng thời với việc chúng ta tin chắc vào Chúa Giêsu như Đấng Cứu chuộc duy nhất của thế giới, chúng ta cũng nuôi dưỡng lòng sùng kính sâu sắc đối với Mẹ của Người. Mặc dù chúng ta biết rằng không phải hệ phái Kitô giáo nào cũng tin như thế, chúng ta vẫn cảm thấy có nghĩa vụ chia sẻ với khu vực Amazon kho báu của tình yêu mẫu tử ấm áp ấy, một kho báu mà chúng ta đã tiếp nhận được. Thực thế, tôi sẽ kết thúc Tông Huấn này với một vài lời ngỏ cùng Đức Maria.
108. Không điều nào trong số này cần tạo sự thù hằn giữa chúng ta. Trong một tinh thần đối thoại đích thực, chúng ta lớn lên trong khả năng nắm bắt được ý nghĩa của những gì người khác nói và làm, ngay cả khi chúng ta không thể chấp nhận nó làm xác tín của chính mình. Nhờ cách này, ta có thể thẳng thắn và cởi mở đối với các niềm tin của chúng ta, trong khi vẫn tiếp tục thảo luận, tìm các điểm tiếp xúc, và trên hết, làm việc và đấu tranh với nhau vì thiện ích của khu vực Amazon. Sức mạnh của những gì hợp nhất tất cả Kitô hữu chúng ta là điều vô cùng quan trọng. Chúng ta có thể rất lưu ý đến những gì chia rẽ chúng ta đến mức đôi khi chúng ta không còn đánh giá cao hoặc coi trọng những gì hợp nhất chúng ta. Và những gì hợp nhất chúng ta là những gì cho phép chúng ta ở lại thế giới này mà không bị nuốt chửng bởi nội tại tính (immanence), sự trống rỗng thiêng liêng, tính ích kỷ tự mãn, chủ nghĩa cá nhân duy tiêu dùng và tự hủy hoại của nó.
109. Tất cả chúng ta, trong tư cách Kitô hữu, được hợp nhất bởi đức tin vào Thiên Chúa, Người Cha vốn ban cho chúng ta sự sống và yêu thương chúng ta rất nhiều. Chúng ta được hợp nhất bởi đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Rỗi duy nhất, Đấng đã giải thoát chúng ta bằng dòng máu quý giá và sự phục sinh vinh hiển của Người. Chúng ta được hợp nhất bởi mong ước được nghe lời Người, lời hằng hướng dẫn các bước chân chúng ta đi. Chúng ta được hợp nhất bởi ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, Đấng sai chúng ta đi truyền giáo. Chúng ta được hợp nhất bởi điều răn mới mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta, bởi việc theo đuổi nền văn minh của tình yêu và bởi niềm đam mê đối với vương quốc mà Chúa vốn kêu gọi chúng ta xây dựng với Người. Chúng ta được hợp nhất bởi cuộc đấu tranh cho hòa bình và công lý. Chúng ta được hợp nhất bởi niềm xác tín rằng không phải mọi điều đều kết thúc với đời sống này, nhưng chúng ta được mời dự bữa tiệc trên trời, nơi Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt và mang lấy hết những gì chúng ta đã làm cho những người đang chịu đau khổ.
110. Tất cả những điều này hợp nhất chúng ta. Làm thế nào chúng ta lại không thể cùng nhau tranh đấu? Làm thế nào chúng ta lại không thể cùng nhau cầu nguyện và làm việc, bên cạnh nhau, để bảo vệ người nghèo của khu vực Amazon, để biểu lộ vẻ mặt thánh thiêng của Chúa và quan tâm đến công trình sáng tạo của Người?
KẾT LUẬN: MẸ CỦA KHU VỰC AMAZON
111. Sau khi chia sẻ một vài giấc mơ của mình, tôi khuyến khích mọi người tiến bước dọc những nẻo đường cụ thể có thể cho phép thực tại của khu vực Amazon được biến đổi và thoát khỏi những tệ nạn bao vây nó. Giờ đây, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria. Người Mẹ mà Chúa Kitô đã ban cho chúng ta cũng là bà Mẹ duy nhất của mọi người, đấng đã tỏ mình ra ở vùng Amazon theo những cách riêng biệt. Chúng ta biết rằng, “các dân tộc bản địa có một cuộc gặp gỡ quan yếu với Chúa Giêsu Kitô theo nhiều cách; nhưng nẻo đường của Đức Maria đã góp phần rất lớn vào cuộc gặp gỡ này [145]. Đối diện với sự kỳ diệu của khu vực Amazon, nơi chúng ta đã khám phá ngày càng đầy đủ hơn trong diễn trình chuẩn bị và cử hành Thượng hội đồng, tôi cho rằng điều tốt nhất nên kết thúc Tông huấn này là hướng về ngài:
Lạy Mẹ sự sống,
trong dạ mẫu thân của Mẹ, Chúa Giêsu đã tiếp nhận xác thân,
Chúa tể của mọi loài hiện hữu.
Phục sinh, Người đã biến đổi Mẹ bằng ánh sáng của Người
và làm cho Mẹ trở thành Nữ vương toàn bộ sáng thế.
Vì lý do đó, hỡi Mẹ Maria, chúng con xin Mẹ trị vì
trong trái tim thổn thức của Amazon.
Xin Mẹ tỏ mình là Mẹ của mọi tạo vật,
trong vẻ đẹp của những bông hoa, những dòng sông,
dòng sông vĩ đại chảy
qua nó
và tất cả sự sống sinh động trong rừng của nó.
Xin Mẹ âu yếm chăm sóc sự bừng nở đẹp tươi này.
Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giêsu tuôn đổ tất cả tình yêu của Người
trên mọi người nam nữ sống ở đó,
để họ có thể biết đánh giá cao và quan tâm đến nó.
Xin Mẹ hạ sinh Con Mẹ trong trái tim họ,
để Người tỏa sáng khắp Amazon,
các dân tộc và các nền văn hóa của nó,
bằng ánh sáng của lời Người,
bằng tình yêu an ủi của Người,
bằng sứ điệp huynh đệ và công lý của Người.
Và tại mỗi cử hành Thánh Thể,
xin cho mọi kinh ngạc và kỳ diệu này được nâng lên
tới vinh quang Chúa Cha.
Lạy Mẹ, xin Mẹ đoái nhìn người nghèo của Amazon,
vì nhà cửa họ đang bị phá hủy bởi những quyền lợi nhỏ nhen.
Có biết bao đau đớn và khốn khổ,
có biết bao bỏ bê và lạm dụng
ở vùng đất được chúc phúc
dư đầy sự sống này!
Xin Mẹ đánh động trái tim những người quyền thế,
vì, mặc dù chúng con cảm thấy giờ đã muộn,
Mẹ vẫn kêu gọi chúng con cứu
những gì còn sống động.
Mẹ, đấng có trái tim bị đâm thâu,
đấng chịu đau khổ trong những đứa con trai và con gái bị ngược đãi của Mẹ,
và trong những vết thương gây cho thiên nhiên,
Xin Mẹ trị vì Amazon,
cùng với Con của Mẹ.
Xin Mẹ cai trị để không ai khác có thể đòi quyền thống lãnh
trên công trình của bàn tay Thiên Chúa.
Chúng con tín thác nơi Mẹ, lạy Mẹ sự sống.
Xin Mẹ đừng bỏ rơi chúng con
trong giờ phút đen tối này.
Amen.
Ban hành tại Rôma, tại Nhà thờ Chính tòa Thánh Gioan Lateranô, ngày 2 tháng 2, Lễ Dâng Chúa vào Đền thờ, năm 2020, năm thứ bảy triều Giáo hoàng của tôi.
FRANCISCUS
CHÚ THÍCH (Bản dịch của Nguyễn Trọng Đa)
[1] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 49: AAS 107 (2015), 866.
[2] Tài Liệu Làm Việc, 45.
[3] ANA VARELA TAFUR, “Timareo”, trong Lo que no veo en visiones, Lima, 1992.
[4] JORGE VEGA MÁRQUEZ, “Amazonia solitária”, trong Poesía obrera, Cobija-Pando-Bolivia, 2009, 39.
[5] RED ECLESIAL PANAMAZÓNICA (REPAM), Brazil, Síntesis del aporte al Sínodo, 120; Xem Tài Liệu Làm Việc, 45.
[6] Diễn từ với giới trẻ, São Paulo, Brazil (10 May 2007), 2.
[7] Xem ALBERTO C. ARAÚJO, “Imaginario amazónico”, trong Amazonia real: amazoniareal.com.br (29-1-2014).
[8] THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI, Thông điệp Populorum Progressio (26-3-1967), 57: AAS 59 (1967), 285.
[9] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Diễn từ với Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học xã hội (27-4-2001), 4: AAS 93 (2001), 600.
[10] Xem Tài Liệu Làm Việc, 41.
[11] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC Hội Đồng Giám Mục NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document (29-6-2007), 473.
[12] RAMÓN IRIBERTEGUI, Amazonas: El hombre y el caucho, ed. Vicariato Apostólico de Puerto Ayacucho-Venezuela, Monografía số 4, Caracas, 1987, 307ff.
[13] Xem “AMARÍLIS TUPIASSÚ, “Amazônia, das travessias lusitanas à literatura de até agora”, trong Estudos Avançados tập 19, số 53, São Paulo (tháng 1 đến tháng 4.2005): “Trên thực tế, sau khi kết thúc thời kỳ thuộc địa đầu tiên, khu vực Amazon tiếp tục trở thành một khu vực chịu sự tham lam lâu đời, ẩn núp dưới các luận điệu mới…, một phần của các tác nhân 'văn minh hóa', họ thậm chí không cần phải được nhân cách hóa để tạo ra và nhân lên các mặt mới của sự suy tàn cũ, bây giờ thông qua một cái chết chậm.”
[14] CÁC GIÁM MỤC VÙNG AMAZON BRAXIN, Carta al Pueblo de Dios, Santarem-Brazil (6-7-2012).
[15] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Sứ điệp cho ngày Hòa bình Thế giới năm 1998, 3: AAS 90 (1998), 150.
[16] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 3 CỦA CÁC Hội Đồng Giám Mục NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Puebla Document (23-3-1979), 6.
[17] Tài Liệu Làm Việc, 6. Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ III Đoàn sắc Veritas Ipsa (2-6-1537), lên án luận đề phân biệt chủng tộc và công nhận rằng các dân tộc bản địa, dù theo đạo Công Giáo hay không, sở hữu phẩm giá của con người, được hưởng quyền sở hữu của họ và không được giảm xuống làm nô lệ. Giáo hoàng tuyên bố: “ vì các người thực sự không phải là người bị tước đoạt quyền tự do hay quyền sở hữu tài sản của họ, mặc dù họ không tin Chúa Giêsu Kitô. Giáo lý huấn quyền này đã được tái khẳng định bởi các. Đức Giáo Hoàng GRÊGÔRIÔ XIV, Sắc chỉ Cum Sicuti (28 4-1591);. Đức Giáo Hoàng URBANÔ VIII, Sắc chỉ Commissum Nobis (22-4-1639);. Đức Giáo Hoàng BIỂN ĐỨC XIV, Sắc chỉ Immensa Pastorum Principis gửi các Giám mục Braxin (20-12-1741); Đức Giáo Hoàng GRÊGÔRIÔ XVI, Đoản sắc In Supremo (3-12-1839);. Đức Giáo Hoàng LÊÔ XIII, Thư gửi các Giám mục Brasil về sự nô lệ (15-5-1888); và THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Sứ điệp gửi các dân tộc bản địa ở châu Mỷ, Santo Domingo (12-10-1992), 2: Insegnamenti 15/2 (1982), 346.
[18] FREDERICO BENÍCIO DE SOUSA COSTA, Thư mục vụ (1909). Ed. Imprenta del gobierno del estado de Amazonas, Manaus, 1994, 83.
[19] Tài Liệu Làm Việc, 7.
[20] Diễn từ với Hội nghi Thế giới lần 2 của các phong trào dân chúng, Santa Cruz de la Sierra-Bolivia (9-7-2015).
[21] Diễn từ với Hội nghi các dân tộc bản địa ở Amazonia, Puerto Maldonado-Peru (19-1- 2018): AAS 110 (2018), 300.
[22] Tài Liệu Làm Việc, 24.
[23] YANA LUCILA LEMA, Tamyahuan Shamakupani (Con la lluvia estoy viviendo), 1, at http://siwarmayu.com/es/yana-lucila-lema-6-poemas-de-tamyawan-shamukupani-con-la-lluvia-estoy-viviendo.
[24] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ECUADOR, Cuidemos nuestro planeta (20-4-2012), 3.
[25] Số 142: AAS 107 (2015), 904-905.
[26] Số 82.
[27] Như trên, 83.
[28] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 239: AAS 105 (2013), 1116.
[29] Như trên., 218: AAS 105 (2013), 1110.
[30] Như trên.
[31] Xem Tài Liệu Làm Việc, 57.
[32] Xem EVARISTO EDUARDO DE MIRANDA, Quando o Amazonas corria para o Pacifico, Petrópolis, 2007, 83-93.
[33] JUAN CARLOS GALEANO, “Paisajes”, trong Amazonia y otros poemas, ed. Universidad Externado de Colombia, Bogotá, 2011, 31.
[34] JAVIER YGLESIAS, “Llamado”, trong Revista peruana de literatura, số 6 (thánh 6-2007), 31.
[35] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 144: AAS 107 (2015) 905.
[36] Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25-03-2019), 186.
[37] Như trên., 200.
[38] Sứ điệp video cho hội nghị Thanh niên bản địa thế giới, Soloy-Panama (18-1-2019).
[39] MARIO VARGAS LLOSA, Giới thiệu cho El Hablador, Madrid (8-10-2007).
[40] Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25-3-2019), 195.
[41] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Centesimus Annus (1-5-1991), 50: AAS 83 (1991), 856.
[42] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC Hội Đồng Giám Mục NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document (29-6-2007), 97.
[43] Diễn từ với Hội nghi các dân tộc bản địa ở Amazonia, Puerto Maldonado-Peru (19-1-2018): AAS 110 (2018), 301.
[44] Tài Liệu Làm Việc, 123, e.
[45] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 144: AAS 107 (2015), 906.
[46] Xem Đức Giáo Hoàng BIỂN ĐỨC XVI, Thông điệp Caritas in veritate (29-6-2009), 51: AAS 101 (2009), 687: “Đặc biệt trong thời đại chúng ta, thiên nhiên đã hội nhập vào sự năng động xã hội và văn hóa sâu xa đến độ không còn là dữ kiện độc lập nữa. Việc sa mạc hóa nhanh chóng và lâm vào cảnh khổ của nhiều vùng nông nghiệp là hậu quả của nghèo đói và chậm tiến của dân chúng sống nơi đó”.
[47] Sứ điệp cho ngày Hòa bình Thế giới năm 2007, 8: Insegnamenti, II/2 (2006), 776.
[48] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 16, 91, 117, 138, 240: AAS 107 (2015), 854, 884, 894, 903, 941.
[49] Tài liệu Bolivia: informe país. Consulta pre sinodal, 2019, trg. 36; Xem Tài Liệu Làm Việc, 23.
[50] Tài Liệu Làm Việc, 26.
[51] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 146: AAS 107 (2015), 906.
[52] Documento con aportes al Sínodo de la Diócesis de San José del Guaviare y de la Arquidiócesis de Villavicencio y Granada (Colombia); Xem Tài Liệu Làm Việc, 17.
[53] EUCLIDES DA CUNHA, Los Sertones (Os Sertões), Buenos Aires (1946), 65-66.
[54] PABLO NERUDA, “Amazonas” trong Canto General (1938), I, IV.
[55] REPAM, Tài liệu Eje de Fronteras. Preparación para el Sínodo de la Amazonia, Tabatinga-Brasil (3-2-2019), p. 3; Xem Tài Liệu Làm Việc, 8.
[56] AMADEU THIAGO DE LELLO, Amazonas, patria da agua. Bản dịch tiếng Tây Ban Nha của Jorge Timossi, in http://letras-uruguay.espaciolatino.com/aaa/mello_thiago/amazonas_patria_da_agua.htm.
[57] VINICIUS DE MORAES, Para vivir un gran amor, Buenos Aires, 2013, 166.
[58] JUAN CARLOS GALEANO, “Los que creyeron”, trong Amazonia y otros poemas, ed. Universidad externado de Colombia, Bogotá, 2011, 44.
[59] HARALD SIOLI, A Amazônia, Petropolis (1985), 60.
[60] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Diễn từ cho Hội nghị quốc tế về “Môi trường và sức khỏe” (24-3-1997), 2.
[61] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 34: AAS 107 (2015), 860.
[62] Xem Như trên., 28-31: AAS 107 (2015), 858-859.
[63] Như trên., 38: AAS 107 (2015), 862.
[64] Xem KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC Hội Đồng Giám Mục NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document (29-6-2007), 86.
[65] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 38: AAS 107 (2015), 862.
[66] Xem Như trên, 144, 187: AAS 107 (2015), 905-906, 921.
[67] Xem Như trên., 183: AAS 107 (2015), 920.
[68] Như trên HYPERLINK "http://www.vatican.va/content/francesco/en/encyclicals/documents/papa-francesco_20150524_enciclica-laudato-si.html#53"., 53: AAS 107 (2015), 868.
[69] Xem Như trên., 49: AAS 107 (2015), 866.
[70] Tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội đồng về Vùng Amazon, 8.
[71] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 56: AAS 107 (2015), 869.
[72] Như trên., 59: AAS 107 (2015), 870.
[73] Như trên., 33: AAS 107 (2015), 860.
[74] Như trên, 220: AAS 107 (2015), 934.
[75] Như trên., 215: AAS 107 (2015), 932.
[76] SUI YUN, Cantos para el mendigo y el rey, Wiesbaden, 2000.
[77] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 100: AAS 107 (2015), 887.
[78] Như trên., 204: AAS 107 (2015), 928.
[79] Xem Văn kiện Santarem (1972) và Manaos (1997) trong HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC BRAXIN, Desafío missionário. Documentos da Igreja na Amazônia, Brasilia, 2014, trg. 9-28 và 67-84.
[80] Xem Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 220: AAS 105 (2013), 1110.
[81] Như trên., 164: AAS 105 (2013), 1088-1089.
[82] Như trên., 165: AAS 105 (2013), 1089.
[83] Như trên., 161: AAS 105 (2013), 1087.
[84] Như Công đồng chung Vatican nói trong số 14 của Hiến chế Gaudium et Spes: “Hội Thánh đã học hỏi sớm trong lịch sử của mình để diễn tả sứ điệp Kitô giáo trong các khái niệm và ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau, và cố gắng làm sáng tỏ nó dưới ánh sáng của sự khôn ngoan của các triết gia: đó là một nỗ lực để thích ứng Tin Mừng theo sự hiểu biết của mọi người, và yêu cầu của người trí thức, trong chừng mực điều này có thể được thực hiện. Thật vậy, loại thích nghi và rao giảng lời được mặc khải này phải là luật của tất cả việc truyền giáo. Theo cách này, có thể tạo ra ở mọi quốc gia khả năng diễn đạt sứ điệp của Chúa Kitô bằng các thuật ngữ phù hợp, và thúc đẩy sự tiếp xúc và trao đổi quan trọng giữa Giáo hội và các nền văn hóa khác nhau”.
[85] Thư gửi dân Chúa ở Đức, 29-6-2019, 9: L’Osservatore Romano, 1-2 tháng 2-2019, trg. 9.
[86] Xem THÁNH Vinh Sơn thành Lerins, Commonitorium primum, cap. 23: PL 50, 668: “Ut annis scilicet consolidetur, dilatetur tempore, sublimetur aetate”.
[87] Thư gửi dân Chúa ở Đức, 29-6-2019, 9. Xem từ ngữ được gán cho Gustav Mahler: “Tradition ist nicht die Anbetung der Asche, sondern die Weitergabe des Feuers”: “Truyền thống không là thờ tro tàn, nhưng là bước đi trên lửa”.
[88] Diễn từ với các Giáo sư đại học và lãnh đạo Văn hóa, Coimbra (15-5-1982): Insegnamenti 5/2 (1982), 1702-1703.
[89] Sứ điệp gửi dân bản địa của Lục địa châu Mỹ, Santo Domingo (12 October 1992), 6: Insegnamenti 15/2 (1992), 346; Xem Diễn từ với các tham dự viên của Hội nghị toàn quốc của Phong trào Hội Thánh vể cam kết văn hóa (16-1-1982), 2: Insegnamenti 5/1 (1982), 131.
[90] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Vita Consecrata (15-3-1996), 98: AAS 88 (1996), 474-475.
[91] Số 115: AAS 105 (2013),1068.
[92] Như trên., 116: AAS 105 (2013),1068.
[93] Như trên.
[94] Như trên., 129: AAS 105 (2013), 1074.
[95] Như trên., 116: AAS 105 (2013), 1068.
[96] Như trên., 117: AAS 105 (2013), 1069.
[97] Như trên.
[98] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Diễn từ với Phiên họp toàn thể của Hội Đồng Văn hóa Tóa Thánh (17-1-1987): Insegnamenti 10/1 (1987), 125.
[99] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 129: AAS 105 (2013), 1074.
[100] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 4 CỦA CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Santo Domingo Document (12-28 tháng 10-1992), 17.
[101] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 198: AAS 105 (2013), 1103.
[102] Xem VITTORIO MESSORI-JOSEPH RATZINGER, Rapporto sulla fede, Cinisello Balsamo, 1985, 211-212.
[103] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 198: AAS 105 (2013), 1103.
[104] PEDRO CASALDÁLIGA, “Carta de navegar (Por el Tocantins amazónico)” trong El tiempo y la espera, Santander, 1986.
[105] Thánh Tôma Aquinas giải thích điều này như sau: “Cách thức ba mặt về việc Chúa ở trong mọi sự: một là theo thông thường, bởi yếu tính, sự hiện diện và quyền uy; hai là bởi ân sủng trong các thánh; và ba là trong Chúa Kitô, bởi sự kết hiệp” (Ad Colossenses, II, 2).
[106] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 235: AAS 107 (2015), 939.
[107] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 3 CỦA CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Puebla Document (23-3-1979), 196.
[108] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 178: AAS 105 (2013), 1094.
[109] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 11; Xem Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 10-11.
[110] CÁC HẠT ĐẠI DIỆN TÔNG TÒA CỦA VÙNG AMAZON PERU, “Segunda asamblea episcopal regional de la selva”, San Ramón-Perú (5-10-1973), trong Éxodo de la Iglesia en la Amazonia. Documentos pastorales de la Iglesia en la Amazonia peruana, Iquitos, 1976, 121.
[111] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 123: AAS 105 (2013), 1071.
[112] Xem Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 126-127.
[113] Như trên., 32.
[114] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 235: AAS 107 (2015), 939.
[115] Như trên.
[116] Như trên., 236: AAS 107 (2015), 940.
[117] Như trên.
[118] Như trên., 235: AAS 107 (2015), 939.
[119] Xem hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 37-40, 65, 77, 81.
[120] Trong Thượng Hội Đồng, đã có đề nghị phát triển một “Nghi lễ Amazon”.
[121] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 237: AAS 107 (2015), 940.
[122] Tông Huấn Amoris Laetitia (19-3-2016), 49: AAS 108 (2016), 331; Xem Như trên. 305: AAS 108 (2016), 436-437.
[123] Xem Như trên., 296, 308: AAS 108 (2016), 430-431, 438.
[124] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document, 29-6-2007, 100 e.
[125] Xem THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Thư Sacerdotium Ministeriale gửi các GM của Hội Thánh Công Giáo về thừa tác viên Thánh Thể (6-8-1983): AAS 75 (1983), 1001-1009.
[126] Tông thư Mulieris Dignitatem (15-8-1988), 27: AAS 80 (1988), 1718.
[127] THÁNH TÔMA AQUINAS, Summa Theologiae III, q. 8, a.1, resp.
[128] Xem CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Sắc lệnh về sứ vụ và đời sống của linh mục Presbyterorum Ordinis, 5; THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17-4-2003), 26: AAS 95 (2003), 448.
[129] Chính thừa tác của linh mục cũng là ban bí tích xức dầu bệnh nhân, bởi vì nó liên kết chặt chẽ với việc tha tội: “Và nếu người ấy phạm tội, người ấy sẽ được tha tội” (Jas 5:15).
[130] Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, 1396; THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17-4-2003), 26: AAS 95 (2003), 451; Xem HENRI DE LUBAC, Meditation sur l’Église, Paris (1968), 101.
[131] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Sắc lệnh về sứ vụ và đời sống của linh mục Presbyterorum Ordinis, 6.
[132] Xin lưu ý rằng, trong một số quốc gia vùng hạ Amazon, nhiều thừa sai thích đi đến châu Âu hoặc Mỹ, hơn là ở lại giúp cho các hạt Đại Diện Tông Tòa của họ ở vùng Amazon.
[133] Ở Thượng Hội Đồng, cũng nhiều vị nhắc đến việc thiếu các chủng viên để đào tạo linh mục cho người bản địa.
[134] Xem CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 3.
[135] THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI, Bài giảng lễ Minh Thánh Chúa, 17-6-1965: Insegnamenti 3 (1965), 358.
[136] Có thể rằng, do việc thiếu linh mục, một Giám mục có thể “ủy thác sự tham gia thi hành công tác mục vụ của một giáo xứ…cho một phó tế hoặc cho một người nào khác không có chức linh mục, hoặc cho một cộng đoàn” (Bộ Giáo luật, 517 §2).
[137] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document, 29-6-2007, 178.
[138] Như trên, 475.
[139] Tài Liệu Làm Việc, 65.
[140] Như trên., 63.
[141] Như trên., 129, d, 2.
[142] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 228: AAS 105 (2013), 1113.
[143] Như trên., 226: AAS 105 (2013), 1112.
[144] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Tuyên ngôn về mối liên hệ của Hội Thánh với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, 2.
[145] CELAM, III Simposio latinoamericano sobre Teología India, Ciudad de Guatemala (23-27 tháng 10-2006).
91. Bí tích Thánh Thể cũng là bí tích vĩ đại biểu thị và thể hiện sự hợp nhất của Giáo hội [134]. Nó được cử hành “để từ những người xa lạ, phân tán và thờ ơ lẫn nhau, chúng ta có thể trở nên đoàn kết, bình đẳng và bằng hữu [135]. Người chủ sự Thánh Thể phải cổ vũ sự hiệp thông, vốn không phải chỉ là bất cứ sự hợp nhất nào, mà là sự hợp nhất biết chào đón tính đa dạng dư dật của ơn phúc và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần hằng tuôn đổ trên cộng đồng.
92. Như thế, Bí tích Thánh Thể, như là nguồn và đỉnh cao, đòi ta phát triển tính đa dạng phong phú đó. Các linh mục rất cần thiết, nhưng điều này không có nghĩa các phó tế vĩnh viễn (nên có nhiều hơn nữa trong khu vực Amazon), các nữ tu và giáo dân không thể thường xuyên đảm nhận trách nhiệm quan trọng đối với sự phát triển của các cộng đồng và thực hiện các chức năng đó mỗi ngày một hữu hiệu với sự trợ giúp của một việc đồng hành thích đáng.
93. Do đó, không chỉ là vấn đề tạo điều kiện cho một sự hiện diện lớn hơn của các thừa tác viên thụ phong có thể cử hành Bí tích Thánh Thể. Đó chỉ là một mục tiêu rất hạn hẹp, nếu chúng ta đồng thời không cố gắng đánh thức sự sống mới trong các cộng đồng. Chúng ta cần thúc đẩy một cuộc gặp gỡ với lời Chúa và sự lớn lên trong thánh thiện qua các loại phục vụ khác nhau của giáo dân, những loại phục vụ đòi một diễn trình giáo dục – về Kinh thánh, giáo lý, linh đạo và thực tiễn - và một loạt các chương trình tu nghiệp đa dạng.
94. Một Giáo hội với các đặc điểm Amazon đòi phải có sự hiện diện ổn định của các nhà lãnh đạo trưởng thành và là giáo dân có thẩm quyền [136] và quen thuộc với ngôn ngữ, văn hóa, kinh nghiệm thiêng liêng và lối sống cộng đồng ở những nơi khác nhau, nhưng cũng cởi mở đối với tính đa dạng của các ơn phúc mà Chúa Thánh Thần vốn ban cho mọi người. Vì, bất cứ nơi nào có nhu cầu đặc thù, Người đều tuôn đổ những đặc sủng để có thể đáp ứng nó. Điều này đòi Giáo hội phải cởi mở đối với sự táo bạo của Chúa Thánh Thần, tin tưởng vào, và cụ thể cho phép, sự lớn mạnh của một nền văn hóa giáo hội chuyên biệt có đặc tính giáo dân rõ rệt. Các thách đố trong khu vực Amazon đòi nơi Giáo hội một nỗ lực đặc biệt để hiện diện ở mọi bình diện, và điều này chỉ có thể thực hiện được qua việc tham gia mạnh mẽ, rộng rãi và tích cực của giáo dân.
95. Nhiều người thánh hiến đã cống hiến năng lực và một phần lớn đời họ để phục vụ Nước Thiên Chúa ở Amazon. Đời sống thánh hiến, nhờ có khả năng đối thoại, tổng hợp, nhập thân và tiên tri, có một vị trí đặc biệt trong cấu hình đa dạng và hài hòa này của Giáo hội trong khu vực Amazon. Nhưng nó cần một động lực mới để hội nhập văn hóa, một động lực biết kết hợp tính sáng tạo, tính táo bạo truyền giáo, tính mẫn cảm và sức mạnh đặc trưng của đời sống cộng đồng.
96. Các cộng đồng căn bản, khi có khả năng kết hợp việc bảo vệ các quyền lợi xã hội với việc công bố truyền giáo và nền linh đạo, đã là những kinh nghiệm chân chính của tính đồng nghị trong hành trình truyền giảng Tin Mừng của Giáo hội trong khu vực Amazon. Trong nhiều trường hợp, chúng “từng giúp đào tạo nhiều Kitô hữu biết cam kết với đức tin, nhiều môn đệ và nhà truyền giáo của Chúa, như được chứng thực bởi sự cam kết quảng đại của rất nhiều thành viên của họ, thậm chí đến mức đổ máu họ ra” [137].
97. Tôi khuyến khích sự tăng trưởng của những nỗ lực hợp tác đang được thực hiện qua Mạng lưới Giáo hội Toàn vùng Amazon và các hiệp hội khác để thực hiện đề xuất của hội nghị Aparecida là “thiết lập một thừa tác vụ hợp tác giữa các Giáo Hội địa phương của các quốc gia Nam Mỹ khác nhau trong lưu vực sông Amazon, với các ưu tiên đã được dị biệt hóa [138]. Điều này đặc biệt áp dụng cho các mối tương quan giữa các Giáo hội nằm ở biên giới giữa các quốc gia.
98. Cuối cùng, tôi xin lưu ý điều này: chúng ta đừng lúc nào cũng nghĩ đến việc dự hoạch các dự án với các cộng đồng ổn định, vì ở khu vực Amazon, ta thấy có rất nhiều tính di chuyển nội bộ, do việc di dân liên tục và thường có tính đi đi về về như quả lắc (pendular); “khu vực này thực tế đã trở thành một hành lang di dân” [139]. “Việc chuyển dân [transhumance] ở Amazon chưa được hiểu rõ hoặc khảo sát đầy đủ theo quan điểm mục vụ” [140]. Do đó, nên suy nghĩ tới các nhóm truyền giáo lưu động và “cung cấp sự hỗ trợ cho việc hiện diện và tính di động của các người thánh hiến nam nữ gần gũi nhất với những người nghèo khổ và bị loại trừ nhất” [141]. Đây cũng là một thách đố đối với các cộng đồng đô thị của chúng ta, một thách đố phải tìm ra các cách thế sáng tạo và quảng đại, đặc biệt ở các vùng ngoại ô, để gần gũi và chào đón các gia đình và những người trẻ đến từ rừng sâu.
Sức mạnh và thiên phú của phụ nữ
99. Trong khu vực Amazon, có những cộng đồng đã từ lâu được bảo tồn và truyền lại đức tin dù không có linh mục nào đến với họ, thậm chí trong nhiều thập niên. Điều này có thể xảy ra vì sự hiện diện của những người đàn bà mạnh mẽ và quảng đại, chắc chắn nhờ được Chúa Thánh Thần kêu gọi và thúc đẩy, đã rửa tội, dạy giáo lý, cầu nguyện và hành động như những nhà truyền giáo. Trong nhiều thế kỷ, các phụ nữ đã giữ cho Giáo hội sống động ở những nơi đó qua sự tận tâm đáng lưu ý và đức tin sâu sắc của họ. Một số người trong số họ, phát biểu tại Thượng hội đồng, đã khiến chúng ta xúc động sâu sắc bởi các chứng từ của họ.
100. Điều này mời gọi chúng ta mở rộng viễn kiến của mình, kẻo chúng ta hạn chế sự hiểu biết của chúng ta về Giáo hội, coi Giáo Hội chỉ có các cơ cấu chức năng mà thôi. Một chủ nghĩa giản lược như vậy sẽ dẫn chúng ta tới chỗ tin rằng phụ nữ sẽ được ban cấp một địa vị và tham gia vào Giáo hội nhiều hơn, chỉ khi nào họ được gia nhập các chức thánh. Nhưng phương thức đó trong thực tế chỉ thu hẹp viễn kiến của chúng ta mà thôi; nó sẽ dẫn chúng ta đến việc giáo sĩ hóa phụ nữ, làm giảm giá trị to lớn của những gì họ đã hoàn thành và làm cho sự đóng góp không thể thiếu của họ trở nên kém hữu hiệu.
101. Chúa Giêsu Kitô xuất hiện như Chàng Rể của cộng đồng cử hành Thánh Thể qua hình bóng người đàn ông chủ trì như dấu chỉ Linh mục duy nhất. Cuộc đối thoại giữa Chàng Rể và Nàng dâu của Người, phát sinh trong việc thờ lạy và thánh hóa cộng đồng, không nên lừa chúng ta đi vào những quan niệm phiến diện về quyền lực trong Giáo hội. Chúa đã quyết định mặc khải quyền lực và tình yêu của Người qua hai khuôn mặt nhân bản: khuôn mặt của Con Thiên Chúa đã làm người của Người và khuôn mặt của một tạo vật, một người đàn bà, đó là Đức Maria. Phụ nữ đóng góp cho Giáo hội theo cách riêng của họ, bằng cách làm cho sức mạnh dịu dàng của Đức Maria, người Mẹ, trở nên hiên diện. Nhờ thế, chúng ta không còn tự giới hạn mình vào cách tiếp cận có tính chức năng nữa, nhưng thay vào đó, đi vào cơ cấu nội thẳm nhất của Giáo hội. Nhờ cách này, chúng ta sẽ hiểu ra tại sao, nếu không có phụ nữ, Giáo hội sẽ tan vỡ và biết bao cộng đồng ở Amazon sẽ sụp đổ, nếu phụ nữ không ở đó để nâng đỡ chúng, giữ chúng ở lại với nhau và chăm sóc chúng. Điều này cho thấy loại sức mạnh vốn là điển hình của họ.
102. Chúng ta phải tiếp tục khuyến khích những ơn phúc đơn sơ và không rắc rối đó, những ơn phúc cho phép các phụ nữ ở khu vực Amazon đóng một vai trò rất tích cực trong xã hội, mặc dù các cộng đồng này hiện phải đối diện với nhiều mối đe dọa mới và chưa từng có. Tình thế hiện nay đòi chúng ta phải khuyến khích sự xuất hiện các hình thức phục vụ và đặc sủng khác phù hợp với phụ nữ và đáp ứng nhu cầu chuyên biệt của các dân tộc trong khu vực Amazon tại thời điểm này của lịch sử.
103. Trong một Giáo hội đồng nghị, những người phụ nữ trên thực tế vốn đóng vai trò trung tâm trong các cộng đồng Amazon nên có quyền có các chức vụ, kể cả các chức vụ phục vụ giáo hội, không đòi các Chức Thánh và điều đó có thể biểu thị rõ hơn vai trò của họ. Ở đây, cần lưu ý điều này: các việc phục vụ này đòi phải có sự ổn định, phải được công khai công nhận và được giám mục ủy nhiệm. Điều này cũng cho phép phụ nữ gây được tác động thực sự và hữu hiệu đối với tổ chức, các quyết định quan trọng nhất và định hướng của các cộng đồng, trong khi tiếp tục làm như vậy theo cách có thể phản ảnh được phụ nữ tính của họ.
Mở rộng chân trời quá bên kia các xung đột
104. Điều thường xảy ra là ở những nơi đặc thù, những người làm công tác mục vụ tưởng nghĩ ra những giải pháp rất khác nhau cho những vấn đề họ gặp phải, và do đó đề xuất những hình thức rõ ràng đối lập nhau về việc tổ chức giáo hội. Khi điều này xảy ra, đáp ứng đích thực đối với các thách đố của việc truyền giảng Tin Mừng rất có thể nằm ở việc vượt qua hai phương thức và tìm ra phương thức khác, tốt hơn, có lẽ chưa ai tưởng nghĩ ra. Xung đột được khắc phục ở bình diện cao hơn, trong đó mỗi nhóm có thể tham gia với nhóm khác trong một thực tại mới, trong khi vẫn trung thành với chính mình. Mọi sự đều được giải quyết “trên một bình diện cao hơn và duy trì được những gì có giá trị và hữu ích cho cả hai phía” [142]. Nếu không, xung đột sẽ cạm bẫy chúng ta; “chúng ta đánh mất viễn ảnh của mình, các chân trời của chúng ta co cụm lại và chính thực tại cũng sẽ bắt đầu tan tác” [143].
105. Điều này không có nghĩa là tương đối hóa các vấn đề, chạy trốn chúng hoặc để sự việc ở nguyên như cũ. Các giải pháp chân chính không bao giờ được tìm thấy bằng cách làm giảm độ táo bạo, né tránh các yêu cầu cụ thể hoặc đổ lỗi cho người khác. Trái lại, các giải pháp được tìm thấy bởi “dòng quá tải” (overflow), nghĩa là, bằng cách vượt qua lập trường mâu thuẫn vốn hạn chế viễn kiến của chúng ta, và nhận ra ơn phúc lớn hơn mà Thiên Chúa đang đề nghị ban tặng. Từ ơn phúc mới này, nếu được chấp nhận một cách táo bạo và quảng đại, từ ơn phúc bất ngờ này, một ơn phúc đánh thức tính sáng tạo mới và lớn lao hơn, sẽ tuôn chẩy, như từ một suối nước đầy tràn, nhiều câu trả lời mà lập trường mâu thuẫn không cho phép chúng ta nhìn thấy. Trong những ngày tiên khởi, đức tin Kitô giáo đã lan truyền đáng kể bằng lối suy nghĩ này, lối suy nghĩ cho phép nó, vốn bắt nguồn từ Do Thái giáo, thành hình trong các nền văn hóa La Hy, và với thời gian, có được các hình thức khác biệt. Tương tự như vậy, trong thời điểm lịch sử này, khu vực Amazon thách thức chúng ta vượt qua các viễn ảnh hạn chế và các giải pháp “thực dụng” vốn bị hoen ố trong các cách tiếp cận phiến diện, ngõ hầu tìm ra những nẻo đường hội nhập văn hóa rộng lớn hơn và táo bạo hơn.
Sống chung đại kết và liên tôn
106. Ở một vùng Amazon có đặc điểm đa tôn giáo, các tín hữu chúng ta cần tìm nhiều dịp để nói chuyện với nhau và cùng nhau hành động vì thiện ích chung và cổ vũ người nghèo. Điều này không liên quan gì đến việc làm giảm hoặc che giấu các xác tín sâu sắc nhất của chúng ta khi chúng ta gặp gỡ những người khác có suy nghĩ khác với chúng ta. Nếu chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần có thể hoạt động giữa những khác biệt, thì chúng ta sẽ cố gắng để bản thân được làm giàu bởi cái hiểu sáng suốt đó, trong khi nắm lấy nó do cốt lõi các xác tín riêng và bản sắc của riêng chúng ta. Vì bản sắc càng sâu sắc, mạnh và phong phú, chúng ta càng có khả năng làm phong phú các người khác bằng sự đóng góp riêng của chính chúng ta.
107. Trong Kinh thánh, người Công Giáo chúng ta sở hữu một kho báu không được các tôn giáo khác chấp nhận, mặc dù đôi khi họ có thể đọc nó một cách thích thú và thậm chí quý trọng một số giáo huấn của nó. Chúng ta cố gắng làm một điều tương tự với các bản văn thánh thiêng của các tôn giáo và cộng đồng tôn giáo khác, những bản văn chứa đựng “các giới luật và giáo lý... thường phản ảnh một tia sáng sự thật vốn soi sáng mọi người nam nữ” [144]. Chúng ta cũng sở hữu kho tàng vĩ đại trong bảy bí tích, mà một số cộng đồng Kitô giáo không chấp nhận toàn bộ hoặc theo cùng một ý nghĩa. Đồng thời với việc chúng ta tin chắc vào Chúa Giêsu như Đấng Cứu chuộc duy nhất của thế giới, chúng ta cũng nuôi dưỡng lòng sùng kính sâu sắc đối với Mẹ của Người. Mặc dù chúng ta biết rằng không phải hệ phái Kitô giáo nào cũng tin như thế, chúng ta vẫn cảm thấy có nghĩa vụ chia sẻ với khu vực Amazon kho báu của tình yêu mẫu tử ấm áp ấy, một kho báu mà chúng ta đã tiếp nhận được. Thực thế, tôi sẽ kết thúc Tông Huấn này với một vài lời ngỏ cùng Đức Maria.
108. Không điều nào trong số này cần tạo sự thù hằn giữa chúng ta. Trong một tinh thần đối thoại đích thực, chúng ta lớn lên trong khả năng nắm bắt được ý nghĩa của những gì người khác nói và làm, ngay cả khi chúng ta không thể chấp nhận nó làm xác tín của chính mình. Nhờ cách này, ta có thể thẳng thắn và cởi mở đối với các niềm tin của chúng ta, trong khi vẫn tiếp tục thảo luận, tìm các điểm tiếp xúc, và trên hết, làm việc và đấu tranh với nhau vì thiện ích của khu vực Amazon. Sức mạnh của những gì hợp nhất tất cả Kitô hữu chúng ta là điều vô cùng quan trọng. Chúng ta có thể rất lưu ý đến những gì chia rẽ chúng ta đến mức đôi khi chúng ta không còn đánh giá cao hoặc coi trọng những gì hợp nhất chúng ta. Và những gì hợp nhất chúng ta là những gì cho phép chúng ta ở lại thế giới này mà không bị nuốt chửng bởi nội tại tính (immanence), sự trống rỗng thiêng liêng, tính ích kỷ tự mãn, chủ nghĩa cá nhân duy tiêu dùng và tự hủy hoại của nó.
109. Tất cả chúng ta, trong tư cách Kitô hữu, được hợp nhất bởi đức tin vào Thiên Chúa, Người Cha vốn ban cho chúng ta sự sống và yêu thương chúng ta rất nhiều. Chúng ta được hợp nhất bởi đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Rỗi duy nhất, Đấng đã giải thoát chúng ta bằng dòng máu quý giá và sự phục sinh vinh hiển của Người. Chúng ta được hợp nhất bởi mong ước được nghe lời Người, lời hằng hướng dẫn các bước chân chúng ta đi. Chúng ta được hợp nhất bởi ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, Đấng sai chúng ta đi truyền giáo. Chúng ta được hợp nhất bởi điều răn mới mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta, bởi việc theo đuổi nền văn minh của tình yêu và bởi niềm đam mê đối với vương quốc mà Chúa vốn kêu gọi chúng ta xây dựng với Người. Chúng ta được hợp nhất bởi cuộc đấu tranh cho hòa bình và công lý. Chúng ta được hợp nhất bởi niềm xác tín rằng không phải mọi điều đều kết thúc với đời sống này, nhưng chúng ta được mời dự bữa tiệc trên trời, nơi Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt và mang lấy hết những gì chúng ta đã làm cho những người đang chịu đau khổ.
110. Tất cả những điều này hợp nhất chúng ta. Làm thế nào chúng ta lại không thể cùng nhau tranh đấu? Làm thế nào chúng ta lại không thể cùng nhau cầu nguyện và làm việc, bên cạnh nhau, để bảo vệ người nghèo của khu vực Amazon, để biểu lộ vẻ mặt thánh thiêng của Chúa và quan tâm đến công trình sáng tạo của Người?
KẾT LUẬN: MẸ CỦA KHU VỰC AMAZON
111. Sau khi chia sẻ một vài giấc mơ của mình, tôi khuyến khích mọi người tiến bước dọc những nẻo đường cụ thể có thể cho phép thực tại của khu vực Amazon được biến đổi và thoát khỏi những tệ nạn bao vây nó. Giờ đây, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria. Người Mẹ mà Chúa Kitô đã ban cho chúng ta cũng là bà Mẹ duy nhất của mọi người, đấng đã tỏ mình ra ở vùng Amazon theo những cách riêng biệt. Chúng ta biết rằng, “các dân tộc bản địa có một cuộc gặp gỡ quan yếu với Chúa Giêsu Kitô theo nhiều cách; nhưng nẻo đường của Đức Maria đã góp phần rất lớn vào cuộc gặp gỡ này [145]. Đối diện với sự kỳ diệu của khu vực Amazon, nơi chúng ta đã khám phá ngày càng đầy đủ hơn trong diễn trình chuẩn bị và cử hành Thượng hội đồng, tôi cho rằng điều tốt nhất nên kết thúc Tông huấn này là hướng về ngài:
Lạy Mẹ sự sống,
trong dạ mẫu thân của Mẹ, Chúa Giêsu đã tiếp nhận xác thân,
Chúa tể của mọi loài hiện hữu.
Phục sinh, Người đã biến đổi Mẹ bằng ánh sáng của Người
và làm cho Mẹ trở thành Nữ vương toàn bộ sáng thế.
Vì lý do đó, hỡi Mẹ Maria, chúng con xin Mẹ trị vì
trong trái tim thổn thức của Amazon.
Xin Mẹ tỏ mình là Mẹ của mọi tạo vật,
trong vẻ đẹp của những bông hoa, những dòng sông,
dòng sông vĩ đại chảy
qua nó
và tất cả sự sống sinh động trong rừng của nó.
Xin Mẹ âu yếm chăm sóc sự bừng nở đẹp tươi này.
Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giêsu tuôn đổ tất cả tình yêu của Người
trên mọi người nam nữ sống ở đó,
để họ có thể biết đánh giá cao và quan tâm đến nó.
Xin Mẹ hạ sinh Con Mẹ trong trái tim họ,
để Người tỏa sáng khắp Amazon,
các dân tộc và các nền văn hóa của nó,
bằng ánh sáng của lời Người,
bằng tình yêu an ủi của Người,
bằng sứ điệp huynh đệ và công lý của Người.
Và tại mỗi cử hành Thánh Thể,
xin cho mọi kinh ngạc và kỳ diệu này được nâng lên
tới vinh quang Chúa Cha.
Lạy Mẹ, xin Mẹ đoái nhìn người nghèo của Amazon,
vì nhà cửa họ đang bị phá hủy bởi những quyền lợi nhỏ nhen.
Có biết bao đau đớn và khốn khổ,
có biết bao bỏ bê và lạm dụng
ở vùng đất được chúc phúc
dư đầy sự sống này!
Xin Mẹ đánh động trái tim những người quyền thế,
vì, mặc dù chúng con cảm thấy giờ đã muộn,
Mẹ vẫn kêu gọi chúng con cứu
những gì còn sống động.
Mẹ, đấng có trái tim bị đâm thâu,
đấng chịu đau khổ trong những đứa con trai và con gái bị ngược đãi của Mẹ,
và trong những vết thương gây cho thiên nhiên,
Xin Mẹ trị vì Amazon,
cùng với Con của Mẹ.
Xin Mẹ cai trị để không ai khác có thể đòi quyền thống lãnh
trên công trình của bàn tay Thiên Chúa.
Chúng con tín thác nơi Mẹ, lạy Mẹ sự sống.
Xin Mẹ đừng bỏ rơi chúng con
trong giờ phút đen tối này.
Amen.
Ban hành tại Rôma, tại Nhà thờ Chính tòa Thánh Gioan Lateranô, ngày 2 tháng 2, Lễ Dâng Chúa vào Đền thờ, năm 2020, năm thứ bảy triều Giáo hoàng của tôi.
FRANCISCUS
CHÚ THÍCH (Bản dịch của Nguyễn Trọng Đa)
[1] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 49: AAS 107 (2015), 866.
[2] Tài Liệu Làm Việc, 45.
[3] ANA VARELA TAFUR, “Timareo”, trong Lo que no veo en visiones, Lima, 1992.
[4] JORGE VEGA MÁRQUEZ, “Amazonia solitária”, trong Poesía obrera, Cobija-Pando-Bolivia, 2009, 39.
[5] RED ECLESIAL PANAMAZÓNICA (REPAM), Brazil, Síntesis del aporte al Sínodo, 120; Xem Tài Liệu Làm Việc, 45.
[6] Diễn từ với giới trẻ, São Paulo, Brazil (10 May 2007), 2.
[7] Xem ALBERTO C. ARAÚJO, “Imaginario amazónico”, trong Amazonia real: amazoniareal.com.br (29-1-2014).
[8] THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI, Thông điệp Populorum Progressio (26-3-1967), 57: AAS 59 (1967), 285.
[9] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Diễn từ với Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học xã hội (27-4-2001), 4: AAS 93 (2001), 600.
[10] Xem Tài Liệu Làm Việc, 41.
[11] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC Hội Đồng Giám Mục NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document (29-6-2007), 473.
[12] RAMÓN IRIBERTEGUI, Amazonas: El hombre y el caucho, ed. Vicariato Apostólico de Puerto Ayacucho-Venezuela, Monografía số 4, Caracas, 1987, 307ff.
[13] Xem “AMARÍLIS TUPIASSÚ, “Amazônia, das travessias lusitanas à literatura de até agora”, trong Estudos Avançados tập 19, số 53, São Paulo (tháng 1 đến tháng 4.2005): “Trên thực tế, sau khi kết thúc thời kỳ thuộc địa đầu tiên, khu vực Amazon tiếp tục trở thành một khu vực chịu sự tham lam lâu đời, ẩn núp dưới các luận điệu mới…, một phần của các tác nhân 'văn minh hóa', họ thậm chí không cần phải được nhân cách hóa để tạo ra và nhân lên các mặt mới của sự suy tàn cũ, bây giờ thông qua một cái chết chậm.”
[14] CÁC GIÁM MỤC VÙNG AMAZON BRAXIN, Carta al Pueblo de Dios, Santarem-Brazil (6-7-2012).
[15] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Sứ điệp cho ngày Hòa bình Thế giới năm 1998, 3: AAS 90 (1998), 150.
[16] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 3 CỦA CÁC Hội Đồng Giám Mục NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Puebla Document (23-3-1979), 6.
[17] Tài Liệu Làm Việc, 6. Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ III Đoàn sắc Veritas Ipsa (2-6-1537), lên án luận đề phân biệt chủng tộc và công nhận rằng các dân tộc bản địa, dù theo đạo Công Giáo hay không, sở hữu phẩm giá của con người, được hưởng quyền sở hữu của họ và không được giảm xuống làm nô lệ. Giáo hoàng tuyên bố: “ vì các người thực sự không phải là người bị tước đoạt quyền tự do hay quyền sở hữu tài sản của họ, mặc dù họ không tin Chúa Giêsu Kitô. Giáo lý huấn quyền này đã được tái khẳng định bởi các. Đức Giáo Hoàng GRÊGÔRIÔ XIV, Sắc chỉ Cum Sicuti (28 4-1591);. Đức Giáo Hoàng URBANÔ VIII, Sắc chỉ Commissum Nobis (22-4-1639);. Đức Giáo Hoàng BIỂN ĐỨC XIV, Sắc chỉ Immensa Pastorum Principis gửi các Giám mục Braxin (20-12-1741); Đức Giáo Hoàng GRÊGÔRIÔ XVI, Đoản sắc In Supremo (3-12-1839);. Đức Giáo Hoàng LÊÔ XIII, Thư gửi các Giám mục Brasil về sự nô lệ (15-5-1888); và THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Sứ điệp gửi các dân tộc bản địa ở châu Mỷ, Santo Domingo (12-10-1992), 2: Insegnamenti 15/2 (1982), 346.
[18] FREDERICO BENÍCIO DE SOUSA COSTA, Thư mục vụ (1909). Ed. Imprenta del gobierno del estado de Amazonas, Manaus, 1994, 83.
[19] Tài Liệu Làm Việc, 7.
[20] Diễn từ với Hội nghi Thế giới lần 2 của các phong trào dân chúng, Santa Cruz de la Sierra-Bolivia (9-7-2015).
[21] Diễn từ với Hội nghi các dân tộc bản địa ở Amazonia, Puerto Maldonado-Peru (19-1- 2018): AAS 110 (2018), 300.
[22] Tài Liệu Làm Việc, 24.
[23] YANA LUCILA LEMA, Tamyahuan Shamakupani (Con la lluvia estoy viviendo), 1, at http://siwarmayu.com/es/yana-lucila-lema-6-poemas-de-tamyawan-shamukupani-con-la-lluvia-estoy-viviendo.
[24] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ECUADOR, Cuidemos nuestro planeta (20-4-2012), 3.
[25] Số 142: AAS 107 (2015), 904-905.
[26] Số 82.
[27] Như trên, 83.
[28] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 239: AAS 105 (2013), 1116.
[29] Như trên., 218: AAS 105 (2013), 1110.
[30] Như trên.
[31] Xem Tài Liệu Làm Việc, 57.
[32] Xem EVARISTO EDUARDO DE MIRANDA, Quando o Amazonas corria para o Pacifico, Petrópolis, 2007, 83-93.
[33] JUAN CARLOS GALEANO, “Paisajes”, trong Amazonia y otros poemas, ed. Universidad Externado de Colombia, Bogotá, 2011, 31.
[34] JAVIER YGLESIAS, “Llamado”, trong Revista peruana de literatura, số 6 (thánh 6-2007), 31.
[35] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 144: AAS 107 (2015) 905.
[36] Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25-03-2019), 186.
[37] Như trên., 200.
[38] Sứ điệp video cho hội nghị Thanh niên bản địa thế giới, Soloy-Panama (18-1-2019).
[39] MARIO VARGAS LLOSA, Giới thiệu cho El Hablador, Madrid (8-10-2007).
[40] Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25-3-2019), 195.
[41] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Centesimus Annus (1-5-1991), 50: AAS 83 (1991), 856.
[42] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC Hội Đồng Giám Mục NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document (29-6-2007), 97.
[43] Diễn từ với Hội nghi các dân tộc bản địa ở Amazonia, Puerto Maldonado-Peru (19-1-2018): AAS 110 (2018), 301.
[44] Tài Liệu Làm Việc, 123, e.
[45] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 144: AAS 107 (2015), 906.
[46] Xem Đức Giáo Hoàng BIỂN ĐỨC XVI, Thông điệp Caritas in veritate (29-6-2009), 51: AAS 101 (2009), 687: “Đặc biệt trong thời đại chúng ta, thiên nhiên đã hội nhập vào sự năng động xã hội và văn hóa sâu xa đến độ không còn là dữ kiện độc lập nữa. Việc sa mạc hóa nhanh chóng và lâm vào cảnh khổ của nhiều vùng nông nghiệp là hậu quả của nghèo đói và chậm tiến của dân chúng sống nơi đó”.
[47] Sứ điệp cho ngày Hòa bình Thế giới năm 2007, 8: Insegnamenti, II/2 (2006), 776.
[48] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 16, 91, 117, 138, 240: AAS 107 (2015), 854, 884, 894, 903, 941.
[49] Tài liệu Bolivia: informe país. Consulta pre sinodal, 2019, trg. 36; Xem Tài Liệu Làm Việc, 23.
[50] Tài Liệu Làm Việc, 26.
[51] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 146: AAS 107 (2015), 906.
[52] Documento con aportes al Sínodo de la Diócesis de San José del Guaviare y de la Arquidiócesis de Villavicencio y Granada (Colombia); Xem Tài Liệu Làm Việc, 17.
[53] EUCLIDES DA CUNHA, Los Sertones (Os Sertões), Buenos Aires (1946), 65-66.
[54] PABLO NERUDA, “Amazonas” trong Canto General (1938), I, IV.
[55] REPAM, Tài liệu Eje de Fronteras. Preparación para el Sínodo de la Amazonia, Tabatinga-Brasil (3-2-2019), p. 3; Xem Tài Liệu Làm Việc, 8.
[56] AMADEU THIAGO DE LELLO, Amazonas, patria da agua. Bản dịch tiếng Tây Ban Nha của Jorge Timossi, in http://letras-uruguay.espaciolatino.com/aaa/mello_thiago/amazonas_patria_da_agua.htm.
[57] VINICIUS DE MORAES, Para vivir un gran amor, Buenos Aires, 2013, 166.
[58] JUAN CARLOS GALEANO, “Los que creyeron”, trong Amazonia y otros poemas, ed. Universidad externado de Colombia, Bogotá, 2011, 44.
[59] HARALD SIOLI, A Amazônia, Petropolis (1985), 60.
[60] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Diễn từ cho Hội nghị quốc tế về “Môi trường và sức khỏe” (24-3-1997), 2.
[61] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 34: AAS 107 (2015), 860.
[62] Xem Như trên., 28-31: AAS 107 (2015), 858-859.
[63] Như trên., 38: AAS 107 (2015), 862.
[64] Xem KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC Hội Đồng Giám Mục NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document (29-6-2007), 86.
[65] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 38: AAS 107 (2015), 862.
[66] Xem Như trên, 144, 187: AAS 107 (2015), 905-906, 921.
[67] Xem Như trên., 183: AAS 107 (2015), 920.
[68] Như trên HYPERLINK "http://www.vatican.va/content/francesco/en/encyclicals/documents/papa-francesco_20150524_enciclica-laudato-si.html#53"., 53: AAS 107 (2015), 868.
[69] Xem Như trên., 49: AAS 107 (2015), 866.
[70] Tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội đồng về Vùng Amazon, 8.
[71] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 56: AAS 107 (2015), 869.
[72] Như trên., 59: AAS 107 (2015), 870.
[73] Như trên., 33: AAS 107 (2015), 860.
[74] Như trên, 220: AAS 107 (2015), 934.
[75] Như trên., 215: AAS 107 (2015), 932.
[76] SUI YUN, Cantos para el mendigo y el rey, Wiesbaden, 2000.
[77] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 100: AAS 107 (2015), 887.
[78] Như trên., 204: AAS 107 (2015), 928.
[79] Xem Văn kiện Santarem (1972) và Manaos (1997) trong HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC BRAXIN, Desafío missionário. Documentos da Igreja na Amazônia, Brasilia, 2014, trg. 9-28 và 67-84.
[80] Xem Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 220: AAS 105 (2013), 1110.
[81] Như trên., 164: AAS 105 (2013), 1088-1089.
[82] Như trên., 165: AAS 105 (2013), 1089.
[83] Như trên., 161: AAS 105 (2013), 1087.
[84] Như Công đồng chung Vatican nói trong số 14 của Hiến chế Gaudium et Spes: “Hội Thánh đã học hỏi sớm trong lịch sử của mình để diễn tả sứ điệp Kitô giáo trong các khái niệm và ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau, và cố gắng làm sáng tỏ nó dưới ánh sáng của sự khôn ngoan của các triết gia: đó là một nỗ lực để thích ứng Tin Mừng theo sự hiểu biết của mọi người, và yêu cầu của người trí thức, trong chừng mực điều này có thể được thực hiện. Thật vậy, loại thích nghi và rao giảng lời được mặc khải này phải là luật của tất cả việc truyền giáo. Theo cách này, có thể tạo ra ở mọi quốc gia khả năng diễn đạt sứ điệp của Chúa Kitô bằng các thuật ngữ phù hợp, và thúc đẩy sự tiếp xúc và trao đổi quan trọng giữa Giáo hội và các nền văn hóa khác nhau”.
[85] Thư gửi dân Chúa ở Đức, 29-6-2019, 9: L’Osservatore Romano, 1-2 tháng 2-2019, trg. 9.
[86] Xem THÁNH Vinh Sơn thành Lerins, Commonitorium primum, cap. 23: PL 50, 668: “Ut annis scilicet consolidetur, dilatetur tempore, sublimetur aetate”.
[87] Thư gửi dân Chúa ở Đức, 29-6-2019, 9. Xem từ ngữ được gán cho Gustav Mahler: “Tradition ist nicht die Anbetung der Asche, sondern die Weitergabe des Feuers”: “Truyền thống không là thờ tro tàn, nhưng là bước đi trên lửa”.
[88] Diễn từ với các Giáo sư đại học và lãnh đạo Văn hóa, Coimbra (15-5-1982): Insegnamenti 5/2 (1982), 1702-1703.
[89] Sứ điệp gửi dân bản địa của Lục địa châu Mỹ, Santo Domingo (12 October 1992), 6: Insegnamenti 15/2 (1992), 346; Xem Diễn từ với các tham dự viên của Hội nghị toàn quốc của Phong trào Hội Thánh vể cam kết văn hóa (16-1-1982), 2: Insegnamenti 5/1 (1982), 131.
[90] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Vita Consecrata (15-3-1996), 98: AAS 88 (1996), 474-475.
[91] Số 115: AAS 105 (2013),1068.
[92] Như trên., 116: AAS 105 (2013),1068.
[93] Như trên.
[94] Như trên., 129: AAS 105 (2013), 1074.
[95] Như trên., 116: AAS 105 (2013), 1068.
[96] Như trên., 117: AAS 105 (2013), 1069.
[97] Như trên.
[98] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Diễn từ với Phiên họp toàn thể của Hội Đồng Văn hóa Tóa Thánh (17-1-1987): Insegnamenti 10/1 (1987), 125.
[99] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 129: AAS 105 (2013), 1074.
[100] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 4 CỦA CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Santo Domingo Document (12-28 tháng 10-1992), 17.
[101] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 198: AAS 105 (2013), 1103.
[102] Xem VITTORIO MESSORI-JOSEPH RATZINGER, Rapporto sulla fede, Cinisello Balsamo, 1985, 211-212.
[103] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 198: AAS 105 (2013), 1103.
[104] PEDRO CASALDÁLIGA, “Carta de navegar (Por el Tocantins amazónico)” trong El tiempo y la espera, Santander, 1986.
[105] Thánh Tôma Aquinas giải thích điều này như sau: “Cách thức ba mặt về việc Chúa ở trong mọi sự: một là theo thông thường, bởi yếu tính, sự hiện diện và quyền uy; hai là bởi ân sủng trong các thánh; và ba là trong Chúa Kitô, bởi sự kết hiệp” (Ad Colossenses, II, 2).
[106] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 235: AAS 107 (2015), 939.
[107] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 3 CỦA CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Puebla Document (23-3-1979), 196.
[108] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 178: AAS 105 (2013), 1094.
[109] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 11; Xem Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 10-11.
[110] CÁC HẠT ĐẠI DIỆN TÔNG TÒA CỦA VÙNG AMAZON PERU, “Segunda asamblea episcopal regional de la selva”, San Ramón-Perú (5-10-1973), trong Éxodo de la Iglesia en la Amazonia. Documentos pastorales de la Iglesia en la Amazonia peruana, Iquitos, 1976, 121.
[111] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 123: AAS 105 (2013), 1071.
[112] Xem Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 126-127.
[113] Như trên., 32.
[114] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 235: AAS 107 (2015), 939.
[115] Như trên.
[116] Như trên., 236: AAS 107 (2015), 940.
[117] Như trên.
[118] Như trên., 235: AAS 107 (2015), 939.
[119] Xem hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 37-40, 65, 77, 81.
[120] Trong Thượng Hội Đồng, đã có đề nghị phát triển một “Nghi lễ Amazon”.
[121] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 237: AAS 107 (2015), 940.
[122] Tông Huấn Amoris Laetitia (19-3-2016), 49: AAS 108 (2016), 331; Xem Như trên. 305: AAS 108 (2016), 436-437.
[123] Xem Như trên., 296, 308: AAS 108 (2016), 430-431, 438.
[124] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document, 29-6-2007, 100 e.
[125] Xem THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Thư Sacerdotium Ministeriale gửi các GM của Hội Thánh Công Giáo về thừa tác viên Thánh Thể (6-8-1983): AAS 75 (1983), 1001-1009.
[126] Tông thư Mulieris Dignitatem (15-8-1988), 27: AAS 80 (1988), 1718.
[127] THÁNH TÔMA AQUINAS, Summa Theologiae III, q. 8, a.1, resp.
[128] Xem CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Sắc lệnh về sứ vụ và đời sống của linh mục Presbyterorum Ordinis, 5; THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17-4-2003), 26: AAS 95 (2003), 448.
[129] Chính thừa tác của linh mục cũng là ban bí tích xức dầu bệnh nhân, bởi vì nó liên kết chặt chẽ với việc tha tội: “Và nếu người ấy phạm tội, người ấy sẽ được tha tội” (Jas 5:15).
[130] Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, 1396; THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17-4-2003), 26: AAS 95 (2003), 451; Xem HENRI DE LUBAC, Meditation sur l’Église, Paris (1968), 101.
[131] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Sắc lệnh về sứ vụ và đời sống của linh mục Presbyterorum Ordinis, 6.
[132] Xin lưu ý rằng, trong một số quốc gia vùng hạ Amazon, nhiều thừa sai thích đi đến châu Âu hoặc Mỹ, hơn là ở lại giúp cho các hạt Đại Diện Tông Tòa của họ ở vùng Amazon.
[133] Ở Thượng Hội Đồng, cũng nhiều vị nhắc đến việc thiếu các chủng viên để đào tạo linh mục cho người bản địa.
[134] Xem CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 3.
[135] THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI, Bài giảng lễ Minh Thánh Chúa, 17-6-1965: Insegnamenti 3 (1965), 358.
[136] Có thể rằng, do việc thiếu linh mục, một Giám mục có thể “ủy thác sự tham gia thi hành công tác mục vụ của một giáo xứ…cho một phó tế hoặc cho một người nào khác không có chức linh mục, hoặc cho một cộng đoàn” (Bộ Giáo luật, 517 §2).
[137] KHÓA HỌP KHOÁNG ĐẠI LẦN 5 CỦA CÁC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NAM MỸ VÀ VÙNG CARIBÊ, Aparecida Document, 29-6-2007, 178.
[138] Như trên, 475.
[139] Tài Liệu Làm Việc, 65.
[140] Như trên., 63.
[141] Như trên., 129, d, 2.
[142] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 228: AAS 105 (2013), 1113.
[143] Như trên., 226: AAS 105 (2013), 1112.
[144] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Tuyên ngôn về mối liên hệ của Hội Thánh với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, 2.
[145] CELAM, III Simposio latinoamericano sobre Teología India, Ciudad de Guatemala (23-27 tháng 10-2006).
25% các tân linh mục được thụ phong trong những năm gần đây là người Ba Lan
Đặng Tự Do
18:54 18/02/2020
Cứ 4 tân linh mục được thụ phong trong các giáo phận tại Âu Châu, thì có một vị là người Ba Lan. Ủy ban Thống Kê của Hội Đồng Giám Mục Ba Lan vừa cho biết như trên.
Tuy nhiên, đáng buồn là số các tân linh mục đang giảm dần, trong khi số người rời bỏ chức tư tế lại tăng lên, dẫn đến điều mà ủy ban này gọi là một cuộc khủng hoảng ơn gọi thật sự.
Khoảng 350 tân linh mục Công Giáo đã được tấn phong hàng năm ở Ba Lan trong vài năm qua, chiếm 26% tổng số các tân linh mục tại Âu Châu. Theo ủy ban này, trong năm 2017 có 1,272 vị được phong chức linh mục tại Âu Châu. Tổng số các linh mục được thụ phong trên toàn thế giới vào năm 2017 là 5,800 vị.
Tại Ba Lan và trên toàn cõi Âu Châu, số tân linh mục được thụ phong hàng năm đã giảm dần kể từ năm 2000. Tỷ lệ tân linh mục người Ba Lan so với toàn Âu Châu cũng giảm nhẹ. Vào năm 2013, số tân linh mục Ba Lan chiếm đến 30% số vị được thụ phong tại Âu Châu.
Tổng số linh mục triều trên khắp thế giới đã tăng lên kể từ năm 2000, đạt 281,000 vào năm 2017. Tuy nhiên, ở Âu Châu, xu hướng ngược lại đã diễn ra. Năm 2003, Âu Châu có 141,000 linh mục. Đến năm 2011 chỉ còn 132,000 và năm 2017 chỉ còn 125,000 vị.
Một xu hướng khác được nhấn mạnh trong thống kê này là sự gia tăng số lượng giáo sĩ rời khỏi chức tư tế. Trong khi dữ liệu thay đổi từ năm này sang năm khác, xu hướng toàn cầu là giảm cho đến năm 2009, sau đó lại gia tăng đều đặn, với 739 linh mục triều rời khỏi chức tư tế vào năm 2017.
Ở Âu Châu cũng vậy, nhiều linh mục triều đã rời khỏi chức tư tế trong thập kỷ qua. Cao nhất là vào năm 2012, với 222 trường hợp, so với 146 trường hợp vào năm 2017.
Riêng tại Ba Lan, khoảng 73 linh mục đã rời khỏi chức tư tế vào năm 2017. Con số này là 54 vị vào năm 2012. Tính trung bình từ năm 2000 đến 2017 mỗi năm có 56 vị từ bỏ chức linh mục tại Ba Lan.
Giáo Hội Công Giáo tiếp tục có ảnh hưởng quan trọng tại Ba Lan, với dữ liệu thường xuyên cho thấy hơn 90% người Ba Lan xưng mình là người Công Giáo. Tuy nhiên, một cuộc khảo sát năm 2018 của Pew Research chỉ ra rằng chỉ 26% những người dưới 40 tuổi đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật. Con số này là 55% đối với những người trên 40 tuổi.
Source:Notes From PolandOne in four new Catholic priests in Europe is Polish – but numbers are falling
Tuy nhiên, đáng buồn là số các tân linh mục đang giảm dần, trong khi số người rời bỏ chức tư tế lại tăng lên, dẫn đến điều mà ủy ban này gọi là một cuộc khủng hoảng ơn gọi thật sự.
Khoảng 350 tân linh mục Công Giáo đã được tấn phong hàng năm ở Ba Lan trong vài năm qua, chiếm 26% tổng số các tân linh mục tại Âu Châu. Theo ủy ban này, trong năm 2017 có 1,272 vị được phong chức linh mục tại Âu Châu. Tổng số các linh mục được thụ phong trên toàn thế giới vào năm 2017 là 5,800 vị.
Tại Ba Lan và trên toàn cõi Âu Châu, số tân linh mục được thụ phong hàng năm đã giảm dần kể từ năm 2000. Tỷ lệ tân linh mục người Ba Lan so với toàn Âu Châu cũng giảm nhẹ. Vào năm 2013, số tân linh mục Ba Lan chiếm đến 30% số vị được thụ phong tại Âu Châu.
Tổng số linh mục triều trên khắp thế giới đã tăng lên kể từ năm 2000, đạt 281,000 vào năm 2017. Tuy nhiên, ở Âu Châu, xu hướng ngược lại đã diễn ra. Năm 2003, Âu Châu có 141,000 linh mục. Đến năm 2011 chỉ còn 132,000 và năm 2017 chỉ còn 125,000 vị.
Một xu hướng khác được nhấn mạnh trong thống kê này là sự gia tăng số lượng giáo sĩ rời khỏi chức tư tế. Trong khi dữ liệu thay đổi từ năm này sang năm khác, xu hướng toàn cầu là giảm cho đến năm 2009, sau đó lại gia tăng đều đặn, với 739 linh mục triều rời khỏi chức tư tế vào năm 2017.
Ở Âu Châu cũng vậy, nhiều linh mục triều đã rời khỏi chức tư tế trong thập kỷ qua. Cao nhất là vào năm 2012, với 222 trường hợp, so với 146 trường hợp vào năm 2017.
Riêng tại Ba Lan, khoảng 73 linh mục đã rời khỏi chức tư tế vào năm 2017. Con số này là 54 vị vào năm 2012. Tính trung bình từ năm 2000 đến 2017 mỗi năm có 56 vị từ bỏ chức linh mục tại Ba Lan.
Giáo Hội Công Giáo tiếp tục có ảnh hưởng quan trọng tại Ba Lan, với dữ liệu thường xuyên cho thấy hơn 90% người Ba Lan xưng mình là người Công Giáo. Tuy nhiên, một cuộc khảo sát năm 2018 của Pew Research chỉ ra rằng chỉ 26% những người dưới 40 tuổi đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật. Con số này là 55% đối với những người trên 40 tuổi.
Source:Notes From Poland
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Có nên phối hợp Kinh Chiều và Nghi thức Sám hối tập thể không?
Nguyễn Trọng Đa
09:39 18/02/2020
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ và thần học Bí tích, Giám đốc Viện Sacerdos tại Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Giờ Kinh chiều cộng đoàn có thể được đọc như một phần của/trong Nghi thức Sám hối chung không? - J. B., Cincinnati, Ohio, Hoa Kỳ.
Đáp: Các nghi thức sám hối, nói chung, là một hỗn hợp của các hành động phụng vụ bí tích (hòa giải), và các hoạt động có thể được xếp là một phần của lòng đạo đức bình dân. Chúng thường tạo thành một phần trong phần thứ hai của Nghi thức Hòa giải. Các quy định tổng quát cho nghi thức này là như sau:
“B. Nghi thức sám hối chung và giải tội riêng
“22. Khi một số hối nhân tập hợp cùng một lúc để nhận sự hòa giải bí tích, điều thích hợp là họ chuẩn bị cho bí tích bằng một việc cử hành lời Chúa. Những ai sẽ nhận bí tích vào một thời điểm khác cũng có thể tham gia vào nghi thức này. Việc cử hành cộng đoàn cho thấy rõ hơn bản chất giáo hội của việc sám hối đền tội. Các tín hữu cùng lắng nghe lời Chúa, vốn tuyên bố lòng thương xót của Chúa, và mời họ hoán cải; đồng thời, họ kiểm tra sự phù hợp của cuộc sống của họ với lời Chúa, và giúp đỡ lẫn nhau thông qua việc cầu nguyện chung.
Sau khi mỗi người đã xưng tội của mình và nhận sự tha tội, tất cả cùng nhau ca ngợi Thiên Chúa vì bao việc tuyệt vời của Ngài thay cho các người mà Ngài đã giành được cho mình, nhờ Máu của Con Ngài. Nếu cần thiết, một số linh mục nên ngồi ở các nơi thích hợp để nghe thú tội riêng và hòa giải các hối nhân.
“Nghi thức dẫn nhập
“23. Khi các tín hữu tập họp, nên hát bài thánh ca phù hợp. Sau đó, linh mục chào họ, và, nếu cần, ngài hoặc một thừa tác viên khác giới thiệu ngắn gọn về việc cử hành và giải thích thứ tự nghi thức. Tiếp theo, ngài mời tất cả cầu nguyện, và sau một khoảnh khắc thinh lặng, hoàn thành lời nguyện (khai mạc).
“Cử hành Lời Chúa
“24. Bí tích giải tội nên bắt đầu bằng việc nghe lời Chúa, bởi vì qua lời Chúa, Chúa kêu gọi con người ăn năn và dẫn họ đến một sự hoán cải thực sự của tâm hồn. Một hoặc nhiều bài đọc có thể được chọn. Nếu có nhiều hơn một bài đọc, một thánh vịnh, một bài hát phù hợp khác hoặc một khoảng thời gian thinh lặng nên được chèn vào giữa chúng, để lời của Chúa có thể được hiểu sâu sắc hơn, và tâm hồn đồng ý với lời Chúa. Nếu chỉ có một bài đọc, tốt nhất là nên lấy từ Tin Mừng.
Các bài đọc nên được chọn để minh họa các điều sau đây:
“a) tiếng Chúa kêu gọi con người sự hoán cải, và nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô hơn;
“b) mầu nhiệm hòa giải của chúng ta qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và qua hồng ân của Chúa Thánh Thần;
“c) sự phán xét của Thiên Chúa về điều thiện điều ác trong cuộc sống con người, như một sự giúp xét mình.
“25. Bài giảng, lấy chủ đề từ bài Kinh Thánh, nên dẫn các hối nhân đến việc xét mình, từ bỏ tội lỗi và trở về với Chúa. Bài giảng nên nhắc nhở các tín hữu rằng tội lỗi hoạt động chống lại Thiên Chúa, chống lại cộng đồng và chống lại tha nhân, và chống lại chính tội nhân nữa. Vì vậy, bài giảng sẽ là tốt khi nhắc lại:
“a) lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, lớn hơn tất cả tội lỗi của chúng ta, mà qua đó kêu gọi chúng ta trở về với Chúa;
“b) sự cần thiết phải sám hối nội tâm, mà qua đó chúng ta thực sự chuẩn bị để đền bù tội lỗi;
“c) khía cạnh xã hội của ân sủng và tội lỗi, mà qua đó hành động của các cá nhân ở một mức độ nào đó ảnh hưởng đến toàn bộ Hội Thánh;
“d) bổn phận đền tội, vốn có hiệu quả vì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và đặc biệt, ngoài việc đền tội, đòi hỏi việc thực thi đức ái thực sự đối với Thiên Chúa và tha nhân.
“26. Sau bài giảng, nên cho phép một khoảng khắc thinh lặng thích hợp để xét mình và ăn năn tội thực sự. Linh mục, phó tế hoặc một thừa tác viên khác nên giúp tín hữu với các nhận dịnh ngắn hoặc một kinh cầu, tùy theo tầm mức hiểu biết, tuổi tác của họ... Nếu được đánh giá là phù hợp, việc xét mình tập thể và sự ăn năn tội này có thể thay thế bài giảng. Nhưng trong trường hợp này, cần phải rõ ràng dựa trên văn bản của bài Kinh Thánh vừa được đọc.
“Nghi thức hòa giải
“27. Theo lời mời của phó tế hoặc một thừa tác viên khác, tất cả quỳ xuống hoặc cúi đầu và nói một hình thức xưng tội chung (thí dụ, tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng…). Sau đó, họ đứng lên và tham gia vào một kinh cầu hoặc bài hát phù hợp, để bày tỏ sự thú nhận tội lỗi, sự ăn năn chân thành, cầu nguyện cho sự tha thứ, và tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
“Cuối cùng, họ đọc kinh Lạy Cha, vốn không bao giờ được bỏ qua.
“28. Sau Kinh Lạy Cha, các linh mục đi đến những nơi được chỉ định để giải tội. Các hối nhân nào muốn xưng tội đi đến vị linh mục theo sự lựa chọn của họ. Sau khi nhận được việc đền tội thích hợp, họ được ngài tha tội với hình thức cho sự hòa giải của một hối nhân cá nhân.
“29. Khi việc xưng tội đã xong, các linh mục trở lại cung thánh. Vị linh mục chủ sự mời gọi tất cả mọi người thực hiện một hành động tạ ơn và ca ngợi Chúa vì lòng thương xót của Ngài. Điều này có thể được thực hiện trong một thánh vịnh, thánh ca hoặc kinh cầu. Cuối cùng, linh mục kết thúc nghi thức bằng lời cầu nguyện, ca ngợi Chúa vì tình yêu vĩ đại mà Chúa đã ban cho chúng ta.
“Giải tán
“30. Sau lời kinh tạ ơn, linh mục ban phép lành cho các tín hữu. Sau đó, phó tế hoặc chính linh mục giải tán mọi người.”
Ngoài các tiêu chuẩn chung này, ‘Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân’, được Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ luật Bí tích công bố, đưa thêm điều sau đây về việc cử hành bí tích sám hối:
“267. Đối với nhiều tín hữu, việc viếng thăm một đền thánh là một dịp thuận lợi để tận dụng Bí tích Sám hối. Tuy nhiên, điều cần thiết là khuyến khích các yếu tố cấu thành khác nhau của Bí tích Sám hối:
“-vị trí cử hành: ngoài các tòa giải tội truyền thống đặt trong nhà thờ, mong muốn rằng một nhà nguyện xưng tội được cung cấp cho việc cử hành Bí tích Sám hối, và trong đó có không gian để chuẩn bị cho cộng đoàn đông người và cho cử hành xưng tội. Các điều này phải luôn tôn trọng các chuẩn mực quy điển liên quan đến Bí tích Giải tội, cũng như sự riêng tư cần thiết cho việc xưng tội. Nó cũng nên cung cấp một số khả năng để đối thoại với cha giải tội.
“-chuẩn bị cho Bí tích: đôi khi, các tín hữu cần sự giúp đỡ trong việc chuẩn bị xưng tội, đặc biệt là hướng tâm hồn và tâm trí lên Thiên Chúa thông qua một sự hoán cải chân thành, 'vì bản chất của Sám hối bao gồm điều này.' Sách nghi thức Sám hối (Ordo Paenitentiae) cung cấp cho buổi cử hành, được thiết kế để hỗ trợ việc chuẩn bị xưng tội, thông qua việc cử hành Lời Chúa hiệu quả; hoặc ít nhất là một số hình thức của tài liệu chuẩn bị phù hợp được đặt tại chỗ cho tín hữu sử dụng, để chuẩn bị cho họ, không chỉ để xưng tội, mà còn cho một sự sửa đổi chân thành cuộc sống.
“-chọn hành động nghi thức, để dẫn tín hữu khám phá bản chất giáo hội của việc Sám hối; về mặt này, Nghi thức hòa giải của nhiều hối nhân với việc xưng tội và giải tội cá nhân (nghi thức thứ hai của Sám hối), được chuẩn bị và tiến hành tốt, không nên là ngoại lệ, nhưng là một nghi thức bình thường của Bí tích Giải tội đặc biệt vào các thời điểm đặc biệt của Năm phụng vụ. ‘Việc cử hành cộng đoàn cho thấy rõ hơn bản chất giáo hội của việc sám hối đền tội’. Hòa giải mà không có sự xưng tội cá nhân và tha tội cá nhân là một hình thức hoàn toàn đặc biệt và ngoại thường của Bí tích Giải tội, và có thể không được coi là có thể hoán đổi với hình thức Bí tích thông thường của Bí tích. Việc sử dụng sự tha tội chung không thể được biện minh chỉ bằng sự hiện diện của số lượng lớn tín hữu, như xảy ra vào các ngày lễ lớn và ngày hành hương.
Thư luân lưu Paschalis Sollemnitatis, cũng từ Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ luật Bí tích, nói về việc cử hành Mùa Chay và lễ Phục Sinh thấy như sau:
“37. Mùa Chay là thời điểm thích đáng để cử hành các sám hối cá nhân, cũng như toàn thể cộng đoàn tín hữu, nhằm chuẩn bị cho họ tham dự các mầu nhiệm Vượt Qua cách tích cực và sốt sắng. Tuy nhiên, các cử hành sám hối nên được tổ chức trước Tam Nhật Vượt Qua, và không được tổ chức vào buổi chiều ngay trước Thánh Lễ Tiệc Ly” (Bản dịch Việt ngữ của Hội Đồng Giám mục Việt Nam.)
Có một số nguồn tuyệt vời có sẵn trực tuyến cho các nghi thức sám hối này, thí dụ, Ủy ban Phượng tự của Hội đồng Giám mục Anh và xứ Wales cung cấp một loạt các hình thức có giá trị cho các nghi thức này, với các đề cương đa dạng, gợi ý Kinh Thánh và các kinh nguyện khác.
Không có tài liệu nào trên đây đề cập đến việc cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, mặc dù nhiều yếu tố được đề xuất cho việc cử hành Lời Chúa được lấy cảm hứng từ cấu trúc của Thần vụ.
Do đó, mặc dù không có sự cấm đoán rõ ràng nào đối với việc đọc Giờ Kinh Phụng Vụ trong một nghi thức Sám hối chung như vậy, nhưng chắc chắn rằng các tài liệu của Giáo hội, và đặc biệt là Nghi thức Hòa giải, không coi đó là hiệu quả của mục vụ trong bối cảnh này. Thay vào đó, các tài liệu yêu cầu chuẩn bị một nghi thức cử hành Lời Chúa phù hợp với đặc tính sám hối và hòa giải của dịp này.
Sau khi tôi trả lời vào tháng 10-2019 về khả năng vị trí ổn định của nến Phục sinh, người hỏi câu này đã gửi thêm văn bản để làm rõ hơn. Bạn viết:
“Phần Giới thiệu chung về Nghi thức tang lễ Kitô giáo (Order of Christian Funerals), trong đoạn 35, liên quan đến ‘Nến Phục sinh và các loại nến khác’, nói:
“Nến Phục sinh nhắc nhở các tín hữu về sự hiện diện bất diệt của Chúa Kitô ở giữa họ, về chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết, và về sự chia sẻ của họ trong chiến thắng này nhờ vào sự khởi xướng của họ. Nến nhắc nhớ lại Đêm Vọng Phục Sinh, đêm khi Giáo hội chờ đợi sự Phục sinh của Chúa, và khi ánh sáng mới cho người sống và người chết được thắp lên. Trong phụng vụ tang lễ và cả trong canh thức, khi được cử hành trong nhà thờ, nến Phục sinh có thể được đặt phía trước, gần vị trí mà quan tài sẽ chiếm giữ khi kết thúc rước quan tài. Theo phong tục địa phương, các ngọn nến khác cũng có thể được đặt gần quan tài trong phụng vụ tang lễ, như một dấu hiệu của sự tôn nghiêm và trang trọng.’
“Tôi tự hỏi có bao nhiêu linh mục biết rằng nến Phục sinh không cần được đặt gần quan tài, và rằng Cây nến Requiem truyền thống vẫn còn được phép sử dụng.
“Hơn nữa, tôi ghi nhận rằng Nghi thức Rửa tội cho Trẻ em (ICEL, 1969) và Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn (ICEL, 1974) có ghi chú, trong đoạn 25 của phần Giới thiệu chung của Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn, rằng 'Sau mùa Phục sinh, nến Phục sinh nên được giữ một cách cung kính trong Cung rửa tội (baptistery), và như thế nó có thể được thắp sáng khi có nghi thức rửa tội, và nhờ đó, các nến cho người mới được rửa tội có thể dễ dàng được thắp sáng tử nến Phục sinh.’
“Điều này dường như đã được làm dịu đi đáng kể bởi ngôn ngữ của Quy Chế Tổng quát Sách lễ Rôma, vốn được trích dẫn trong điện thư gốc.
“Cũng không hại gì khi trích dẫn điều 34 của cùng tài liệu, trong đó nêu rõ, ‘Tính đến hoàn cảnh hiện tại và các nhu cầu khác, cũng như mong muốn của tín hữu, thừa tác viên nên sử dụng đầy đủ các tùy chọn khác nhau được cho phép trong nghi thức.'
“Mặc dù loại hướng dẫn này khiến một số linh mục tin rằng cá nhân họ nên sử dụng tất cả các tùy chọn vào nhiều thời điểm khác nhau, tôi tin chắc rằng chứng tâm thần phân liệt không phải là bắt buộc. Tuy nhiên, tôi e rằng nhà lập pháp, có lẽ vô tình, làm cho thừa tác viên trở thành một người quản lý cho ý thích bất chợt của tín hữu, chứ đừng nói đến ủy ban phụng vụ giáo xứ.
“May mắn thay, cùng một hướng dẫn dành chỗ cho các linh mục là không bị cản trở bởi việc sử dụng các tùy chọn truyền thống có sẵn cho họ trong sách Nghi thức.
“Tôi càng nghiên cứu nhiều, tôi càng tự cho rằng tùy chọn đặt nến Phục sinh ở một cố định là hợp pháp.
“Nhân tiện, xin hỏi có các vương cung thánh đường ở Rôma với nhiều chân nến Phục sinh không? Tôi nghĩ về chân nến to lớn ở Nhà thờ thánh Phaolô Ngoại Thành. Chắc phải có một chân nến nhỏ hơn gần giếng rửa tội. Tôi tự hỏi liệu đó là một lựa chọn cho các nhà thờ giáo xứ chăng: có hai chân nến, nhưng chỉ có một nến.”
Mặc dù tôi không hoàn toàn đồng ý với bạn về một số điểm, tôi tin rằng bạn cũng đã đề xuất một giải pháp cho vấn đề thực tế về nơi đặt ngọn nến Phục sinh.
Trước hết, không có ngôn ngữ nào được sử dụng tuyệt đối đến nỗi một linh mục sẽ phạm phải một loại tội nhẹ trong phụng vụ nếu ngài, chẳng hạn, không để ngọn nến thường xuyên trong cung rửa tội, bởi vì ngài cử hành nhiều thánh lễ an táng hơn là rửa tội.
Các quy định nêu ra các ưu tiên phụng vụ liên quan đến giá trị biểu tượng, nhưng không cố gắng giải quyết tất cả các câu hỏi xây dựng cơ sở nhà thờ, vốn có thể xảy ra trong các tòa nhà của nhà thờ Công Giáo có kích thước, hình dạng và phong cách khác nhau.
Do đó, tôi tin rằng rõ ràng rằng vị trí ưu tiên của nến Phục sinh ngoài mùa Phục sinh là Cung rửa tội, và việc sử dụng nến này là cân thiết khi rửa tội. Tuy nhiên, có thể có các lý do thực tế tốt cho một vị trí thay thế, và không có luật buộc nào nói nến Phục sinh phải được nhìn thấy cả năm, nếu không đặt trong cung rửa tội.
Tôi sẽ không đồng ý với bạn rằng không bắt buộc phải đặt cây nến gần quan tài trong lễ an táng. Sức nặng của nhiều tài liệu trích dẫn đều giả định sự hiện diện của nó. Ngay cả việc sử dụng từ ngữ “có thể, ‘may’” trong số 35 của Nghi thức tang lễ Kitô giáo dường như đề cập đến khả năng đặt nến “phía trước, beforehand”, chứ không nói liệu có đặt hay không. Khi nói về các cây nến khác, tài liệu nói rằng “cũng có, also” các nến ấy ngoài cây nến Phục sinh.
Bạn đã phân biệt giữa nến và chân đỡ nến, và ở đây tôi tin rằng có bí quyết cho hầu hết các giải pháp thực hành. Biểu tượng Kitô giáo là ngọn nến, chứ không phải là chân đỡ nến, và không có khó khăn gì cho một nhà thờ để có một chân nến đỡ công phu cho cung thánh trong Mùa Phục sinh và một cây nến lớn, dễ di chuyển hơn cho phần còn lại của năm. Thật vậy, nhiều giáo xứ áp dụng giải pháp này.
Cũng không có yêu cầu để lại chân nến công phu trong cung thánh. Trừ khi nó ở một chỗ được cố định hoặc có giá trị nghệ thuật cao, nó có thể được lưu trữ trong phòng thánh trong gần hết cả năm.
Chân nến Phục sinh bằng đá cẩm thạch cao 5,6 mét trong Nhà thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành ở Rôma được điêu khắc vào khoảng năm 1170, và là một kiệt tác của nghệ thuật Romanesque. Cây nến được đặt trên đỉnh chân nến trong mùa Phục sinh. Mặt khác, nó được đặt trên một chân nến nhỏ hơn nhiều trong cung rửa tội, vốn không thể được nhìn thấy từ thân chính của vương cung thánh đường.
Cung rửa tội của Vương cung thánh đường Thánh Gioan Lateran là một tòa nhà lớn, hoàn toàn riêng biệt, vốn thực tế là một nhà thờ. Cung rửa tội của nhà thờ Đức Bà Cả nằm cạnh nhà thờ và cũng rất rộng. Cung rửa tội của Đền thờ Thánh Phêrô là nhà nguyện đầu tiên, sau khi đi vào phía Tin mừng (bên trái khi người ta nhìn về phía bàn thờ) đối diện với tượng Pieta. Trong mọi trường hợp, nến Phục sinh được để lại trong cung rửa tội. Do tình hình đặc biệt của các nhà thờ này, thánh lễ an táng thường ít cử hành hơn trong các nhà thờ này, mà chủ yếu là ở các nhà thờ giáo xứ. (Zenit.org 18-2-2020)
Nguyễn Trọng Đa
https://zenit.org/articles/vespers-and-penitential-services/
Hỏi: Giờ Kinh chiều cộng đoàn có thể được đọc như một phần của/trong Nghi thức Sám hối chung không? - J. B., Cincinnati, Ohio, Hoa Kỳ.
Đáp: Các nghi thức sám hối, nói chung, là một hỗn hợp của các hành động phụng vụ bí tích (hòa giải), và các hoạt động có thể được xếp là một phần của lòng đạo đức bình dân. Chúng thường tạo thành một phần trong phần thứ hai của Nghi thức Hòa giải. Các quy định tổng quát cho nghi thức này là như sau:
“B. Nghi thức sám hối chung và giải tội riêng
“22. Khi một số hối nhân tập hợp cùng một lúc để nhận sự hòa giải bí tích, điều thích hợp là họ chuẩn bị cho bí tích bằng một việc cử hành lời Chúa. Những ai sẽ nhận bí tích vào một thời điểm khác cũng có thể tham gia vào nghi thức này. Việc cử hành cộng đoàn cho thấy rõ hơn bản chất giáo hội của việc sám hối đền tội. Các tín hữu cùng lắng nghe lời Chúa, vốn tuyên bố lòng thương xót của Chúa, và mời họ hoán cải; đồng thời, họ kiểm tra sự phù hợp của cuộc sống của họ với lời Chúa, và giúp đỡ lẫn nhau thông qua việc cầu nguyện chung.
Sau khi mỗi người đã xưng tội của mình và nhận sự tha tội, tất cả cùng nhau ca ngợi Thiên Chúa vì bao việc tuyệt vời của Ngài thay cho các người mà Ngài đã giành được cho mình, nhờ Máu của Con Ngài. Nếu cần thiết, một số linh mục nên ngồi ở các nơi thích hợp để nghe thú tội riêng và hòa giải các hối nhân.
“Nghi thức dẫn nhập
“23. Khi các tín hữu tập họp, nên hát bài thánh ca phù hợp. Sau đó, linh mục chào họ, và, nếu cần, ngài hoặc một thừa tác viên khác giới thiệu ngắn gọn về việc cử hành và giải thích thứ tự nghi thức. Tiếp theo, ngài mời tất cả cầu nguyện, và sau một khoảnh khắc thinh lặng, hoàn thành lời nguyện (khai mạc).
“Cử hành Lời Chúa
“24. Bí tích giải tội nên bắt đầu bằng việc nghe lời Chúa, bởi vì qua lời Chúa, Chúa kêu gọi con người ăn năn và dẫn họ đến một sự hoán cải thực sự của tâm hồn. Một hoặc nhiều bài đọc có thể được chọn. Nếu có nhiều hơn một bài đọc, một thánh vịnh, một bài hát phù hợp khác hoặc một khoảng thời gian thinh lặng nên được chèn vào giữa chúng, để lời của Chúa có thể được hiểu sâu sắc hơn, và tâm hồn đồng ý với lời Chúa. Nếu chỉ có một bài đọc, tốt nhất là nên lấy từ Tin Mừng.
Các bài đọc nên được chọn để minh họa các điều sau đây:
“a) tiếng Chúa kêu gọi con người sự hoán cải, và nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô hơn;
“b) mầu nhiệm hòa giải của chúng ta qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và qua hồng ân của Chúa Thánh Thần;
“c) sự phán xét của Thiên Chúa về điều thiện điều ác trong cuộc sống con người, như một sự giúp xét mình.
“25. Bài giảng, lấy chủ đề từ bài Kinh Thánh, nên dẫn các hối nhân đến việc xét mình, từ bỏ tội lỗi và trở về với Chúa. Bài giảng nên nhắc nhở các tín hữu rằng tội lỗi hoạt động chống lại Thiên Chúa, chống lại cộng đồng và chống lại tha nhân, và chống lại chính tội nhân nữa. Vì vậy, bài giảng sẽ là tốt khi nhắc lại:
“a) lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, lớn hơn tất cả tội lỗi của chúng ta, mà qua đó kêu gọi chúng ta trở về với Chúa;
“b) sự cần thiết phải sám hối nội tâm, mà qua đó chúng ta thực sự chuẩn bị để đền bù tội lỗi;
“c) khía cạnh xã hội của ân sủng và tội lỗi, mà qua đó hành động của các cá nhân ở một mức độ nào đó ảnh hưởng đến toàn bộ Hội Thánh;
“d) bổn phận đền tội, vốn có hiệu quả vì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và đặc biệt, ngoài việc đền tội, đòi hỏi việc thực thi đức ái thực sự đối với Thiên Chúa và tha nhân.
“26. Sau bài giảng, nên cho phép một khoảng khắc thinh lặng thích hợp để xét mình và ăn năn tội thực sự. Linh mục, phó tế hoặc một thừa tác viên khác nên giúp tín hữu với các nhận dịnh ngắn hoặc một kinh cầu, tùy theo tầm mức hiểu biết, tuổi tác của họ... Nếu được đánh giá là phù hợp, việc xét mình tập thể và sự ăn năn tội này có thể thay thế bài giảng. Nhưng trong trường hợp này, cần phải rõ ràng dựa trên văn bản của bài Kinh Thánh vừa được đọc.
“Nghi thức hòa giải
“27. Theo lời mời của phó tế hoặc một thừa tác viên khác, tất cả quỳ xuống hoặc cúi đầu và nói một hình thức xưng tội chung (thí dụ, tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng…). Sau đó, họ đứng lên và tham gia vào một kinh cầu hoặc bài hát phù hợp, để bày tỏ sự thú nhận tội lỗi, sự ăn năn chân thành, cầu nguyện cho sự tha thứ, và tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
“Cuối cùng, họ đọc kinh Lạy Cha, vốn không bao giờ được bỏ qua.
“28. Sau Kinh Lạy Cha, các linh mục đi đến những nơi được chỉ định để giải tội. Các hối nhân nào muốn xưng tội đi đến vị linh mục theo sự lựa chọn của họ. Sau khi nhận được việc đền tội thích hợp, họ được ngài tha tội với hình thức cho sự hòa giải của một hối nhân cá nhân.
“29. Khi việc xưng tội đã xong, các linh mục trở lại cung thánh. Vị linh mục chủ sự mời gọi tất cả mọi người thực hiện một hành động tạ ơn và ca ngợi Chúa vì lòng thương xót của Ngài. Điều này có thể được thực hiện trong một thánh vịnh, thánh ca hoặc kinh cầu. Cuối cùng, linh mục kết thúc nghi thức bằng lời cầu nguyện, ca ngợi Chúa vì tình yêu vĩ đại mà Chúa đã ban cho chúng ta.
“Giải tán
“30. Sau lời kinh tạ ơn, linh mục ban phép lành cho các tín hữu. Sau đó, phó tế hoặc chính linh mục giải tán mọi người.”
Ngoài các tiêu chuẩn chung này, ‘Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân’, được Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ luật Bí tích công bố, đưa thêm điều sau đây về việc cử hành bí tích sám hối:
“267. Đối với nhiều tín hữu, việc viếng thăm một đền thánh là một dịp thuận lợi để tận dụng Bí tích Sám hối. Tuy nhiên, điều cần thiết là khuyến khích các yếu tố cấu thành khác nhau của Bí tích Sám hối:
“-vị trí cử hành: ngoài các tòa giải tội truyền thống đặt trong nhà thờ, mong muốn rằng một nhà nguyện xưng tội được cung cấp cho việc cử hành Bí tích Sám hối, và trong đó có không gian để chuẩn bị cho cộng đoàn đông người và cho cử hành xưng tội. Các điều này phải luôn tôn trọng các chuẩn mực quy điển liên quan đến Bí tích Giải tội, cũng như sự riêng tư cần thiết cho việc xưng tội. Nó cũng nên cung cấp một số khả năng để đối thoại với cha giải tội.
“-chuẩn bị cho Bí tích: đôi khi, các tín hữu cần sự giúp đỡ trong việc chuẩn bị xưng tội, đặc biệt là hướng tâm hồn và tâm trí lên Thiên Chúa thông qua một sự hoán cải chân thành, 'vì bản chất của Sám hối bao gồm điều này.' Sách nghi thức Sám hối (Ordo Paenitentiae) cung cấp cho buổi cử hành, được thiết kế để hỗ trợ việc chuẩn bị xưng tội, thông qua việc cử hành Lời Chúa hiệu quả; hoặc ít nhất là một số hình thức của tài liệu chuẩn bị phù hợp được đặt tại chỗ cho tín hữu sử dụng, để chuẩn bị cho họ, không chỉ để xưng tội, mà còn cho một sự sửa đổi chân thành cuộc sống.
“-chọn hành động nghi thức, để dẫn tín hữu khám phá bản chất giáo hội của việc Sám hối; về mặt này, Nghi thức hòa giải của nhiều hối nhân với việc xưng tội và giải tội cá nhân (nghi thức thứ hai của Sám hối), được chuẩn bị và tiến hành tốt, không nên là ngoại lệ, nhưng là một nghi thức bình thường của Bí tích Giải tội đặc biệt vào các thời điểm đặc biệt của Năm phụng vụ. ‘Việc cử hành cộng đoàn cho thấy rõ hơn bản chất giáo hội của việc sám hối đền tội’. Hòa giải mà không có sự xưng tội cá nhân và tha tội cá nhân là một hình thức hoàn toàn đặc biệt và ngoại thường của Bí tích Giải tội, và có thể không được coi là có thể hoán đổi với hình thức Bí tích thông thường của Bí tích. Việc sử dụng sự tha tội chung không thể được biện minh chỉ bằng sự hiện diện của số lượng lớn tín hữu, như xảy ra vào các ngày lễ lớn và ngày hành hương.
Thư luân lưu Paschalis Sollemnitatis, cũng từ Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ luật Bí tích, nói về việc cử hành Mùa Chay và lễ Phục Sinh thấy như sau:
“37. Mùa Chay là thời điểm thích đáng để cử hành các sám hối cá nhân, cũng như toàn thể cộng đoàn tín hữu, nhằm chuẩn bị cho họ tham dự các mầu nhiệm Vượt Qua cách tích cực và sốt sắng. Tuy nhiên, các cử hành sám hối nên được tổ chức trước Tam Nhật Vượt Qua, và không được tổ chức vào buổi chiều ngay trước Thánh Lễ Tiệc Ly” (Bản dịch Việt ngữ của Hội Đồng Giám mục Việt Nam.)
Có một số nguồn tuyệt vời có sẵn trực tuyến cho các nghi thức sám hối này, thí dụ, Ủy ban Phượng tự của Hội đồng Giám mục Anh và xứ Wales cung cấp một loạt các hình thức có giá trị cho các nghi thức này, với các đề cương đa dạng, gợi ý Kinh Thánh và các kinh nguyện khác.
Không có tài liệu nào trên đây đề cập đến việc cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, mặc dù nhiều yếu tố được đề xuất cho việc cử hành Lời Chúa được lấy cảm hứng từ cấu trúc của Thần vụ.
Do đó, mặc dù không có sự cấm đoán rõ ràng nào đối với việc đọc Giờ Kinh Phụng Vụ trong một nghi thức Sám hối chung như vậy, nhưng chắc chắn rằng các tài liệu của Giáo hội, và đặc biệt là Nghi thức Hòa giải, không coi đó là hiệu quả của mục vụ trong bối cảnh này. Thay vào đó, các tài liệu yêu cầu chuẩn bị một nghi thức cử hành Lời Chúa phù hợp với đặc tính sám hối và hòa giải của dịp này.
Sau khi tôi trả lời vào tháng 10-2019 về khả năng vị trí ổn định của nến Phục sinh, người hỏi câu này đã gửi thêm văn bản để làm rõ hơn. Bạn viết:
“Phần Giới thiệu chung về Nghi thức tang lễ Kitô giáo (Order of Christian Funerals), trong đoạn 35, liên quan đến ‘Nến Phục sinh và các loại nến khác’, nói:
“Nến Phục sinh nhắc nhở các tín hữu về sự hiện diện bất diệt của Chúa Kitô ở giữa họ, về chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết, và về sự chia sẻ của họ trong chiến thắng này nhờ vào sự khởi xướng của họ. Nến nhắc nhớ lại Đêm Vọng Phục Sinh, đêm khi Giáo hội chờ đợi sự Phục sinh của Chúa, và khi ánh sáng mới cho người sống và người chết được thắp lên. Trong phụng vụ tang lễ và cả trong canh thức, khi được cử hành trong nhà thờ, nến Phục sinh có thể được đặt phía trước, gần vị trí mà quan tài sẽ chiếm giữ khi kết thúc rước quan tài. Theo phong tục địa phương, các ngọn nến khác cũng có thể được đặt gần quan tài trong phụng vụ tang lễ, như một dấu hiệu của sự tôn nghiêm và trang trọng.’
“Tôi tự hỏi có bao nhiêu linh mục biết rằng nến Phục sinh không cần được đặt gần quan tài, và rằng Cây nến Requiem truyền thống vẫn còn được phép sử dụng.
“Hơn nữa, tôi ghi nhận rằng Nghi thức Rửa tội cho Trẻ em (ICEL, 1969) và Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn (ICEL, 1974) có ghi chú, trong đoạn 25 của phần Giới thiệu chung của Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn, rằng 'Sau mùa Phục sinh, nến Phục sinh nên được giữ một cách cung kính trong Cung rửa tội (baptistery), và như thế nó có thể được thắp sáng khi có nghi thức rửa tội, và nhờ đó, các nến cho người mới được rửa tội có thể dễ dàng được thắp sáng tử nến Phục sinh.’
“Điều này dường như đã được làm dịu đi đáng kể bởi ngôn ngữ của Quy Chế Tổng quát Sách lễ Rôma, vốn được trích dẫn trong điện thư gốc.
“Cũng không hại gì khi trích dẫn điều 34 của cùng tài liệu, trong đó nêu rõ, ‘Tính đến hoàn cảnh hiện tại và các nhu cầu khác, cũng như mong muốn của tín hữu, thừa tác viên nên sử dụng đầy đủ các tùy chọn khác nhau được cho phép trong nghi thức.'
“Mặc dù loại hướng dẫn này khiến một số linh mục tin rằng cá nhân họ nên sử dụng tất cả các tùy chọn vào nhiều thời điểm khác nhau, tôi tin chắc rằng chứng tâm thần phân liệt không phải là bắt buộc. Tuy nhiên, tôi e rằng nhà lập pháp, có lẽ vô tình, làm cho thừa tác viên trở thành một người quản lý cho ý thích bất chợt của tín hữu, chứ đừng nói đến ủy ban phụng vụ giáo xứ.
“May mắn thay, cùng một hướng dẫn dành chỗ cho các linh mục là không bị cản trở bởi việc sử dụng các tùy chọn truyền thống có sẵn cho họ trong sách Nghi thức.
“Tôi càng nghiên cứu nhiều, tôi càng tự cho rằng tùy chọn đặt nến Phục sinh ở một cố định là hợp pháp.
“Nhân tiện, xin hỏi có các vương cung thánh đường ở Rôma với nhiều chân nến Phục sinh không? Tôi nghĩ về chân nến to lớn ở Nhà thờ thánh Phaolô Ngoại Thành. Chắc phải có một chân nến nhỏ hơn gần giếng rửa tội. Tôi tự hỏi liệu đó là một lựa chọn cho các nhà thờ giáo xứ chăng: có hai chân nến, nhưng chỉ có một nến.”
Mặc dù tôi không hoàn toàn đồng ý với bạn về một số điểm, tôi tin rằng bạn cũng đã đề xuất một giải pháp cho vấn đề thực tế về nơi đặt ngọn nến Phục sinh.
Trước hết, không có ngôn ngữ nào được sử dụng tuyệt đối đến nỗi một linh mục sẽ phạm phải một loại tội nhẹ trong phụng vụ nếu ngài, chẳng hạn, không để ngọn nến thường xuyên trong cung rửa tội, bởi vì ngài cử hành nhiều thánh lễ an táng hơn là rửa tội.
Các quy định nêu ra các ưu tiên phụng vụ liên quan đến giá trị biểu tượng, nhưng không cố gắng giải quyết tất cả các câu hỏi xây dựng cơ sở nhà thờ, vốn có thể xảy ra trong các tòa nhà của nhà thờ Công Giáo có kích thước, hình dạng và phong cách khác nhau.
Do đó, tôi tin rằng rõ ràng rằng vị trí ưu tiên của nến Phục sinh ngoài mùa Phục sinh là Cung rửa tội, và việc sử dụng nến này là cân thiết khi rửa tội. Tuy nhiên, có thể có các lý do thực tế tốt cho một vị trí thay thế, và không có luật buộc nào nói nến Phục sinh phải được nhìn thấy cả năm, nếu không đặt trong cung rửa tội.
Tôi sẽ không đồng ý với bạn rằng không bắt buộc phải đặt cây nến gần quan tài trong lễ an táng. Sức nặng của nhiều tài liệu trích dẫn đều giả định sự hiện diện của nó. Ngay cả việc sử dụng từ ngữ “có thể, ‘may’” trong số 35 của Nghi thức tang lễ Kitô giáo dường như đề cập đến khả năng đặt nến “phía trước, beforehand”, chứ không nói liệu có đặt hay không. Khi nói về các cây nến khác, tài liệu nói rằng “cũng có, also” các nến ấy ngoài cây nến Phục sinh.
Bạn đã phân biệt giữa nến và chân đỡ nến, và ở đây tôi tin rằng có bí quyết cho hầu hết các giải pháp thực hành. Biểu tượng Kitô giáo là ngọn nến, chứ không phải là chân đỡ nến, và không có khó khăn gì cho một nhà thờ để có một chân nến đỡ công phu cho cung thánh trong Mùa Phục sinh và một cây nến lớn, dễ di chuyển hơn cho phần còn lại của năm. Thật vậy, nhiều giáo xứ áp dụng giải pháp này.
Cũng không có yêu cầu để lại chân nến công phu trong cung thánh. Trừ khi nó ở một chỗ được cố định hoặc có giá trị nghệ thuật cao, nó có thể được lưu trữ trong phòng thánh trong gần hết cả năm.
Chân nến Phục sinh bằng đá cẩm thạch cao 5,6 mét trong Nhà thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành ở Rôma được điêu khắc vào khoảng năm 1170, và là một kiệt tác của nghệ thuật Romanesque. Cây nến được đặt trên đỉnh chân nến trong mùa Phục sinh. Mặt khác, nó được đặt trên một chân nến nhỏ hơn nhiều trong cung rửa tội, vốn không thể được nhìn thấy từ thân chính của vương cung thánh đường.
Cung rửa tội của Vương cung thánh đường Thánh Gioan Lateran là một tòa nhà lớn, hoàn toàn riêng biệt, vốn thực tế là một nhà thờ. Cung rửa tội của nhà thờ Đức Bà Cả nằm cạnh nhà thờ và cũng rất rộng. Cung rửa tội của Đền thờ Thánh Phêrô là nhà nguyện đầu tiên, sau khi đi vào phía Tin mừng (bên trái khi người ta nhìn về phía bàn thờ) đối diện với tượng Pieta. Trong mọi trường hợp, nến Phục sinh được để lại trong cung rửa tội. Do tình hình đặc biệt của các nhà thờ này, thánh lễ an táng thường ít cử hành hơn trong các nhà thờ này, mà chủ yếu là ở các nhà thờ giáo xứ. (Zenit.org 18-2-2020)
Nguyễn Trọng Đa
https://zenit.org/articles/vespers-and-penitential-services/
Tin Đáng Chú Ý
Đã có nhiều nhân viên Y tế qua đời
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
23:43 18/02/2020
Tính đến ngày 18.2.2020, tại Trung Quốc, hình như đã có ít nhất 4 bác sĩ cùng nhiều người khác của ngành y qua đời vì nhiệm vụ chống dịch COVID-19.
Giữa lúc bệnh tật tiếp tục lan tràn cách đáng sợ trong khi cả thế giới vẫn đang loay hoay tìm cách ngăn chặn, nhưng chưa có hiệu quả nào được kể là tối hảo, thì các nhân viên y tế là những đại ân nhân của chúng ta.
Dù muốn, dù không, họ đang phải ngày đêm chiến đấu với dịch, với từng mạng sống của những bệnh nhân được giao phó cho họ. Chỉ có họ, trong lúc chúng ta vô phương cách, trở thành niềm hy vọng của chúng ta. Nhiệm vụ của họ, ngay lúc này, vừa cao cả, vừa thiêng liêng, nhưng cũng đầy bất trắc, đầy thách thức.
Nhất là các nhân viên y tế ngay trong vùng tâm chấn của dịch, có thể còn khỏe hay chưa nhiễm bệnh, cũng đã quá mệt mỏi, quá kiệt sức trong công tác cứu người.
Tinh thần của họ chắc chắn ảnh hưởng và tổn thương không nhỏ, thậm chí san chấn vì từng phút giây phải chứng kiến bệnh nhân của mình, đồng nghiệp của mình ngã xuống.
Không biết phải làm gì hơn, giữa lúc thương đau này, chúng ta gần gũi với họ trong tinh thần, cảm thông và cầu nguyện cho họ thật nhiều. Xin Chúa gia tăng nghị lực và ban sức mạnh tinh thần, để họ vững vàng hơn, chiến đấu trong mặt trận đầy gai góc, trong khi chiến thắng còn ở tận chân trời.
Chúng ta lo lắng vì số nhân viên y tế ngày càng vơi cạn vì nhiễm dịch, trong khi số người bệnh lại cứ tăng lên từng ngày, không phải bằng những bước đi, nhưng bằng những bước nhảy...
Chúng ta thương tiếc và hướng hết tâm hồn mình tưởng nhớ những nhân viên đã qua đời. Bằng chính lòng tin tưởng lớn lao vào tình yêu thương xót của Chúa, chúng ta tha thiết cầu nguyện cho các nhân viên y tế, vì nhiệm vụ cứu người mà phải hy sinh. Nguyện xin Chúa đoái thương đến công trạng mà ân thưởng xứng đáng linh hồn của các vị.
Sau đây là chân dung một số trong những nhân viên ấy:
1. BÁC SĨ LÝ VĂN LƯỢNG (LI WENLIANG).
Bác sĩ Lý hoàn toàn không biết gì về virus corona (COVID-19), dù anh đang làm việc ngay tâm chấn và hàng ngày phải tiếp xúc với những nạn nhân của virus này.
Cho đến tháng 12.2020, anh phát hiện 7 trường hợp nhiễm virus lạ mà anh cho là giống SARS, loại virus gây dịch bệnh toàn cầu năm 2002-2003.
Ngày 30.12.2019, bác sĩ Lý gởi một tin nhắn cho một số đồng nghiệp, cảnh báo họ về nguy cơ bùng phát virus lạ. Anh còn khuyên họ nên mặc quần áo bảo hộ để tránh lây nhiễm. Đó chính là corona chủng mới mà anh chỉ có thể gọi là virus lạ.
Tin nhắn của bác sĩ Lý thu hút sự chú ý của giới cầm quyền địa phương sau khi một người đăng ảnh chụp màn hình cuộc trò chuyện lên mạng. 7 bác sĩ khác, dựa trên tin nhắn này, đã nhanh chóng chia sẻ thêm ba nhóm trò chuyện khác.
Vừa hấp tấp, vừa máy móc, lại cho thấy sự tắc trách vì không tìm hiểu cặn kẽ, bên cạnh đó, còn thể hiện sự kém hiểu biết, ngay đêm 30.12.2019, các quan chức y tế thành phố Vũ Hán triệu tập Lý Văn Lượng, yêu cầu được biết lý do anh chia sẻ thông tin.
Tháng 1.2020, bác sĩ Lý quyết định đăng trên weibo và giải thích những gì đã và đang diễn ra tại bệnh viện nơi anh làm việc.
Ngày 3.1.2020, anh bị buộc tội "phát tán thông tin sai lệch làm xáo trộn nghiêm trọng trật tự xã hội". Biên bản buộc tội anh còn ghi: "Chúng tôi cảnh cáo anh: Nếu anh ngoan cố, không tuân theo yêu cầu và tiếp tục hoạt động phi pháp này, anh sẽ bị xử lý theo pháp luật, anh có hiểu không?". Bác sĩ Lý Văn Lượng phải ký vào biên bản "lạ" này.
Ngày 10.1, bác sĩ Lý Văn Lượng mô tả, anh bắt đầu ho. Hôm sau anh bị sốt. Hai ngày tiếp theo, anh phải nằm viện. Bố mẹ anh cũng ngã bệnh và được đưa đi viện.
Cuối tháng 1.2020, bác sĩ Lý đăng biên bản "lạ" mà anh phải ký lên Weibo và giải thích những gì đã xảy ra.
Chính quyền địa phương xin lỗi anh nhưng lời xin lỗi không còn cần thiết. Vị bác sĩ đáng thương, đáng kính của chúng ta đang phải đối diện với cái chết và nhiều cái chết khác đã không còn bên trong biên giới của một địa phương.
Thật đáng trách, có đến vài tuần đầu của tháng 1.2020, các quan chức ở Vũ Hán khẳng định, dịch chỉ lây từ động vật sang người. Không có chỉ đạo về việc bảo vệ các y bác sĩ.
Mãi đến ngày 20.1 (tức 3 tuần sau khi bác sĩ Lý cảnh báo), chuyên gia dịch tễ học Trung Quốc mới xác nhận corona chủng mới lây từ người sang người và tuyên bố tình trạng dịch bệnh khẩn cấp, sau khi phát hiện một bệnh nhân đã lây cho ít nhất 14 nhân viên y tế và rất nhiều trường hợp lây nhiễm khác.
Ngày 30.1, bác sĩ Lý Văn Lượng lại đăng trên Weibo: "Hôm nay đã có xét nghiệm axit nucleic với kết quả dương tính, mọi thứ cuối cùng đã rõ, tôi đã được chẩn đoán bị nhiễm".
Ngày 6.2.2020, truyền thông Trung Quốc chính thức thông tin bác sĩ Lý Văn Lượng đã qua đời vì virus corona, bỏ lại đứa con đầu mới 5 tuổi và một đứa con khác phải mồ côi cha trong khi còn đang trong bụng mẹ (vợ bác sĩ Lý Văn Lượng đang mang thai con thứ hai).
Trước khi chết, điều mà vị bác sĩ đáng thương nhớ của chúng ta quan tâm nhất vẫn là gia đình. Trong một phỏng vấn khi còn đang bị cách ly tại bệnh viện Vũ Hán, bác sĩ Lý nói: "Tôi lo lắng nhất cho người thân. Bố mẹ tôi vẫn đang nằm viện, vợ tôi đang mang thai. Giờ đây chẳng có gì quan trọng nữa. Tôi hy vọng dịch bệnh sẽ được kiểm soát nhanh nhất có thể và tất cả đều mạnh khỏe... Vợ tôi là bác sĩ khoa mắt ở một bệnh viện khác, con tôi chỉ mới 5 tuổi. Giờ vợ và con tôi đang sống bên nhà ngoại".
Cái chết của bác sĩ Lý Văn Lượng khiến công chúng tức giận. Họ cho rằng, chính quyền nợ anh một lời xin lỗi. Họ không thể hiểu, vì sao nỗ lực cảnh báo dịch bệnh ban đầu của anh là việc làm cứu cả thế giới, lại bị xem là hành vi gây rối trật tự xã hội?
Họ ngậm ngùi trước hình ảnh vợ và các con của anh phải mất anh vĩnh viễn. Họ thương xót hình ảnh mẹ anh không thể nhìn thấy con mình lần cuối, chỉ có thể ôm trên tay lọ đựng tro cốt của anh (người ta thiêu xác anh ngay sau khi anh qua đời vì sợ lây nhiễm) mà nức nỡ. Họ tự tưởng nhớ anh bằng nhiều hình thức với tất cả lòng thương cảm.
2. NỮ BÁC SĨ TỪ HUY (XU HUI).
Bà là Phó giám đốc Bệnh viện Y học cổ truyền Nam Kinh đã làm việc trong 18 ngày liên tục trước khi đột tử vì kiệt sức vào ngày 7.2.2020. Bà qua đời ở tuổi 51.
Sau sự ra đi của bác sĩ Từ, nhiều người dân tỉnh Giang Tô, nơi bà công tác gọi bà là tấm gương sáng, hình mẫu lý tưởng cho tất cả các nhân viên y tế noi theo.
Dưới thông báo về sự ra đi của bà, rất nhiều người ghi lại những bình luận thương xót và lo ngại cho tình hình sức khỏe của các nhân viên y tế khi họ phải căn thẳng liên tục để phòng chống dịch.
3. BÁC SĨ LIN ZHENGBIN.
Là một mác sĩ đầu ngành về cấy ghép thận. Ông là giáo sư tại bệnh viện Vũ Hán, đã có kinh nghiệm 30 năm về cấy ghép thận.
Ngày 11.2.2020, truyền thông Trung Quốc đưa tin bác sĩ Lin Zhengbin, qua đời tại thành phố Vũ Hán hồi đầu tuần, hưởng thọ 62 tuổi. Ông trút hơi thở sau chưa đầy 1 tháng nhiễm virus corona chủng mới (Covid-19).
4. BÁC SĨ LƯU TRÍ MINH (LIU ZHIMING).
Trong bản tin 11 giờ 15 phút ngày 18.2.2020, hãng tin Reuters dẫn thông tin từ truyền hình nhà nước Trung Quốc cho biết, bác sĩ Lưu Trí Minh, sinh năm 1969,Viện trưởng bệnh viện Vũ Xương ở thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc qua đời vì COVID-19 hồi 10 giờ 30 sáng 18.2.2020 (giờ địa phương).
Bác sĩ Lưu Trí Minh sống tại thành phố Thập Yển, tỉnh Hồ Bắc. Ông tốt nghiệp Học viện Y của Đại học Vũ Hán năm 1991. Là tiến sĩ, ông chuyên chẩn đoán và điều trị chấn thương sọ não, khối u trong não, bệnh mạch máu não. Đặc biệt, ông là chuyên gia khoa ngoại thần kinh, giỏi về điều trị phẫu thuật ngoại thần kinh. Ông còn là giảng viên hướng dẫn các nghiên cứu sinh thạc sĩ tại Đại học Giang Hán và Đại học Y dược Hồ Bắc.
Bác sĩ Lưu Trí Minh từng được chính quyền quận Vũ Xương của thành phố Vũ Hán trao tặng danh hiệu "Anh tài Vũ Xương". Ông cũng góp tên trong "Quỹ tiến sĩ chính quyền nhân dân thành phố Vũ Hán" và "Công trình thập bách thiên nhân tài" của thành phố Vũ Hán.
Bệnh viện Vũ Xương là một trong những bệnh viện được chỉ định đầu tiên ở Vũ Hán để chữa trị bệnh nhân nhiễm COVID-19, được xem là bệnh viện hàng đầu trong cuộc chiến chống loại virus tàn nhẫn này. Bệnh viện hiện có 966 nhân viên, được cơ quan y tế tỉnh Hồ Bắc xếp loại là bệnh viện tổng hợp hạng 3.
5. NHIỀU NHÂN VIÊN Y TẾ.
Theo tin từ Trung Quốc hôm 14.2.2020, ông Tăng Ích Tân, phó chủ nhiệm Ủy ban Y tế quốc gia cho biết, tính đến cuối ngày 11.2, toàn Trung Quốc có 1.716 nhân viên y tế nhiễm COVID-19, chiếm khoảng 3,8% tổng số ca nhiễm tại Trung Quốc.
Trong số các nhân viên y tế nhiễm bệnh, có 6 người tử vong, chiếm 0,4% số ca tử vong do COVID-19 ở Trung Quốc đại lục tính đến thời điểm đó. Ngoài ra, còn khoảng 600 nhân viên nghi nhiễm bệnh.
Trong số đó, có cái chết của một y tá thuộc bệnh viện Vũ Xương (thành phố Vũ hán) là bà Liễu Phàm (Liu Fan), từng được ghi nhận chết vì virus corona chủng mới. Bà là y tá tại phòng tiêm của Trung tâm dịch vụ y tế đường Lê Viên của bệnh viện Vũ Xương, qua đời lúc 18 giờ 30 phút ngày 14.2.2020, hưởng dương 59 tuổi.
Các bác sĩ và chuyên gia y tế nói rằng sự thiếu hụt các trang thiết bị bảo vệ, thời gian làm việc quá lâu và chưa hiểu biết đầy đủ về mức độ lây nhiễm của virus là những yếu tố chính dẫn đến một số lượng lây nhiễm lớn cho các nhân viên ngành y.
Mặc dù là một trong những ngành nghề danh giá, được coi trọng hết sức, nhưng đằng sau ánh hào quang của chiếc áo blouse trắng tinh khiết, là sự cống hiến, hy sinh không biết mệt mỏi của các y bác sĩ trong công cuộc cứu chữa người bệnh.
Không có được giấc ngủ ngon, khó có được bữa cơm đầm ấm bên gia đình, dễ gặp rủi ro trong nghề nghiệp, lắm khi còn bị thân nhân của các bệnh nhân chửi bới, đánh đập, phải đối mặt với mọi chất thải y tế, thậm chí phải bỏ mạng khi cường độ làm việc quá cao hoặc bị lây nhiễm từ bệnh nhân của mình... Đó là tất cả những gì mà các bác sĩ đang phải ngày đêm đối mặt.
Chúng ta yêu quý họ. Chúng ta dành cho họ một tình cảm lớn lao, để họ được an ủi phần nào bên cạnh những hy sinh thầm lặng mà họ phải chịu đựng và đón nhận.
Nhất là trong thời đại dịch kinh hoàng này, nhìn thấy bóng dáng họ, nhìn thấy màu trắng tinh trên thân mình của họ, chúng ta yên tâm hơn, được ủi an hơn, hy vọng cho sự sống nhiều hơn.
Xin cho họ luôn "chân cứng đá mềm" trước mọi thách thức của thời cuộc. Xin cho họ đủ mạnh để vượt thác ghềnh, hòng "đạp đầu sóng ngọn gió" dành lấy sự sống của những ai đi qua bàn tay chữa chạy và chăm sóc của họ, có lúc mong manh tưởng chừng sợi chỉ mành.
Với tôi, những lúc đầy chông gai thế này, các nhân viên y tế đẹp như những thiên thần áo trắng. Công việc của họ đâu chỉ đơn thuần là nghề nghiệp, nhưng là ơn gọi!...
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Khẩu Trang
Sr. Huyền Trân
22:47 18/02/2020
KHẨU TRANG
Ảnh của Sr. Huyền Trân (SSpS)
Một cơn gió độc, một cuộc can qua,
Ngựa hồng em cưỡi, khẩu trang trên mình!
Em ơi! Giờ đây miệng cười nơi nao?
(NTT)
Ảnh của Sr. Huyền Trân (SSpS)
Một cơn gió độc, một cuộc can qua,
Ngựa hồng em cưỡi, khẩu trang trên mình!
Em ơi! Giờ đây miệng cười nơi nao?
(NTT)
VietCatholic TV
Gương sáng đức tin: Từ bỏ đảng Dân Chủ và mọi chức vụ để phản đối lập trường phò phá thai
Đặng Tự Do
04:26 18/02/2020
Nhà thần học Công Giáo Charles Camosy đã từ chức khỏi Hội đồng Dân Chủ vì Đời sống Hoa Kỳ, viết tắt là DFLA, vì cho rằng lập trường ủng hộ phá thai quá khích của Đảng Dân Chủ khiến ông không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rời khỏi đảng này. Ông Charles Camosy cho biết như trên trong một bài báo đăng trên tờ New York Post hôm 6 tháng Hai vừa qua.
“Ngày nay, bất cứ điều gì thậm chí chỉ cần ám chỉ rằng phá thai là không tốt đều được coi là vi phạm lập trường chính thống của đảng,” ông Camosy viết.
Việc ứng cử viên tổng thống Pete Buttigieg từ chối hạn chế phá thai tại bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ, đối với Camosy, là “giọt nước tràn ly”, vượt quá tâm lý có thể chịu đựng được của ông.
Ông Camosy khẳng định rằng:
“Nếu đảng Dân Chủ sẵn sàng theo đuổi đến cùng một vấn đề gay go nhất trong thời đại chúng ta với một quan điểm mà chỉ 13% dân số ủng hộ, thì đã đến lúc nói không với họ.”
Theo một cuộc thăm dò của viện Gallup vào năm 2018, chỉ có 13% người Mỹ tin rằng phá thai nên được hợp pháp hóa trong ba tháng cuối của thai kỳ.
Ông Camosy là một giáo sư thần học luân lý tại Đại học Fordham, và đã phục vụ trong Hội đồng Dân Chủ vì Đời sống Hoa Kỳ từ năm 2014.
Tại một hội nghị của DFLA vào năm 2018, Camosy đã cảnh báo chống lại những diễn dịch sai lầm về các bài phát biểu của Đức Thánh Cha Phanxicô để biện minh cho việc phá thai, và khẳng định rằng giáo huấn chống phá thai, và lên án nền văn hóa vứt bỏ của Đức Phanxicô là nhất quán và phù hợp với truyền thống của Giáo Hội.
Trong một cuộc phỏng vấn với Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, vào tháng 11 vừa qua, Camosy đã gọi quan điểm của Đảng Dân Chủ về phá thai là “cực đoan đến mức tối đa”.
Ông cho biết nhiều người gia nhập đảng Dân Chủ là những người có niềm tin tôn giáo. Họ đã gia nhập đảng vì các chính sách kinh tế hoặc các chính sách gia đình khác.
Những đảng viên này là “những người thường minh định mình là người phò sinh hay ít nhất cũng là những người hoài nghi về phá thai”. Và trên thực tế, “tiếng nói của họ bị đàn áp bởi quan điểm cực đoan của Đảng Dân Chủ,” ông nói.
Camosy đã viết vào hôm thứ Năm rằng ông ủng hộ nhiều chính sách của Đảng Dân Chủ như nghỉ phép vì lý do gia đình có trả lương, hỗ trợ chăm sóc trẻ em, quyền công đoàn lao động, Đạo luật Chăm sóc Giá cả phải chăng, chống biến đổi khí hậu và chấp nhận người tị nạn và người nhập cư.
Tuy nhiên, “đảng đã không cho tôi lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ đi vì lập trường hỗ trợ cho phá thai của họ.” Ông đã trích dẫn một cuộc họp năm 2017 giữa chủ tịch Ủy Ban Quốc Gia của đảng Dân Chủ Tom Perez và DFLA, trong đó lãnh đạo đảng đã không lắng nghe ý kiến của chúng tôi một cách nghiêm túc.
“Khi chúng tôi trình bày cho ông ta thấy rằng các ứng viên có lập trường phò sinh của đảng Dân Chủ sẽ đánh bại những người Cộng hòa ở một số khu vực bầu cử nhất định, ông ta gạt ngang và nói đó không phải là vấn đề đáng quan tâm.”
“Ngay cả khi chúng tôi kêu gọi các chính sách cung cấp nhiều lựa chọn sinh sản hơn cho những phụ nữ mang thai gặp khó khăn thông qua các dịch vụ như chăm sóc y tế miễn phí cho các thai phụ, các nhà lãnh đạo đảng đã phớt lờ chúng tôi.”
Camosy cho biết ông không có ý định gia nhập đảng Cộng hòa vì “các giá trị rộng lớn hơn” của ông. Thay vào đó, ông sẽ tham gia Đảng Đoàn kết Hoa Kỳ với chủ trương hỗ trợ phụ nữ, bảo vệ trẻ em trước khi sinh và đoàn kết người lao động và người nghèo và những người dễ bị tổn thương.
Đảng Dân Chủ đã tỏ ra cực đoan hơn đối với phá thai trong những năm gần đây. Bất kể thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống, đại hội đảng năm 2016 đã tuyên bố niềm tin “không lay chuyển” đối với quan điểm ủng hộ “phá thai an toàn và hợp pháp” đối với tất cả phụ nữ và ủng hộ việc dùng tiền đóng thuế của dân tài trợ cho các dịch vụ phá thai.
Các ứng cử viên tổng thống của đảng Dân Chủ trong năm 2020 đều kêu gọi tái lập việc dùng tiền đóng thuế của dân tài trợ cho các dịch vụ phá thai. Một số ứng cử viên, chẳng hạn như Buttigieg, Andrew Yang, và các thượng nghị sĩ như Bernie Sanders và Elizabeth Warren nói rằng phá thai tại bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ nên tùy thuộc vào người mẹ và chính phủ không nên giới hạn sự lựa chọn đó.
Source:Catholic News AgencyProminent pro-life Democrat quits party
“Ngày nay, bất cứ điều gì thậm chí chỉ cần ám chỉ rằng phá thai là không tốt đều được coi là vi phạm lập trường chính thống của đảng,” ông Camosy viết.
Việc ứng cử viên tổng thống Pete Buttigieg từ chối hạn chế phá thai tại bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ, đối với Camosy, là “giọt nước tràn ly”, vượt quá tâm lý có thể chịu đựng được của ông.
Ông Camosy khẳng định rằng:
“Nếu đảng Dân Chủ sẵn sàng theo đuổi đến cùng một vấn đề gay go nhất trong thời đại chúng ta với một quan điểm mà chỉ 13% dân số ủng hộ, thì đã đến lúc nói không với họ.”
Theo một cuộc thăm dò của viện Gallup vào năm 2018, chỉ có 13% người Mỹ tin rằng phá thai nên được hợp pháp hóa trong ba tháng cuối của thai kỳ.
Ông Camosy là một giáo sư thần học luân lý tại Đại học Fordham, và đã phục vụ trong Hội đồng Dân Chủ vì Đời sống Hoa Kỳ từ năm 2014.
Tại một hội nghị của DFLA vào năm 2018, Camosy đã cảnh báo chống lại những diễn dịch sai lầm về các bài phát biểu của Đức Thánh Cha Phanxicô để biện minh cho việc phá thai, và khẳng định rằng giáo huấn chống phá thai, và lên án nền văn hóa vứt bỏ của Đức Phanxicô là nhất quán và phù hợp với truyền thống của Giáo Hội.
Trong một cuộc phỏng vấn với Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, vào tháng 11 vừa qua, Camosy đã gọi quan điểm của Đảng Dân Chủ về phá thai là “cực đoan đến mức tối đa”.
Ông cho biết nhiều người gia nhập đảng Dân Chủ là những người có niềm tin tôn giáo. Họ đã gia nhập đảng vì các chính sách kinh tế hoặc các chính sách gia đình khác.
Những đảng viên này là “những người thường minh định mình là người phò sinh hay ít nhất cũng là những người hoài nghi về phá thai”. Và trên thực tế, “tiếng nói của họ bị đàn áp bởi quan điểm cực đoan của Đảng Dân Chủ,” ông nói.
Camosy đã viết vào hôm thứ Năm rằng ông ủng hộ nhiều chính sách của Đảng Dân Chủ như nghỉ phép vì lý do gia đình có trả lương, hỗ trợ chăm sóc trẻ em, quyền công đoàn lao động, Đạo luật Chăm sóc Giá cả phải chăng, chống biến đổi khí hậu và chấp nhận người tị nạn và người nhập cư.
Tuy nhiên, “đảng đã không cho tôi lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ đi vì lập trường hỗ trợ cho phá thai của họ.” Ông đã trích dẫn một cuộc họp năm 2017 giữa chủ tịch Ủy Ban Quốc Gia của đảng Dân Chủ Tom Perez và DFLA, trong đó lãnh đạo đảng đã không lắng nghe ý kiến của chúng tôi một cách nghiêm túc.
“Khi chúng tôi trình bày cho ông ta thấy rằng các ứng viên có lập trường phò sinh của đảng Dân Chủ sẽ đánh bại những người Cộng hòa ở một số khu vực bầu cử nhất định, ông ta gạt ngang và nói đó không phải là vấn đề đáng quan tâm.”
“Ngay cả khi chúng tôi kêu gọi các chính sách cung cấp nhiều lựa chọn sinh sản hơn cho những phụ nữ mang thai gặp khó khăn thông qua các dịch vụ như chăm sóc y tế miễn phí cho các thai phụ, các nhà lãnh đạo đảng đã phớt lờ chúng tôi.”
Camosy cho biết ông không có ý định gia nhập đảng Cộng hòa vì “các giá trị rộng lớn hơn” của ông. Thay vào đó, ông sẽ tham gia Đảng Đoàn kết Hoa Kỳ với chủ trương hỗ trợ phụ nữ, bảo vệ trẻ em trước khi sinh và đoàn kết người lao động và người nghèo và những người dễ bị tổn thương.
Đảng Dân Chủ đã tỏ ra cực đoan hơn đối với phá thai trong những năm gần đây. Bất kể thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống, đại hội đảng năm 2016 đã tuyên bố niềm tin “không lay chuyển” đối với quan điểm ủng hộ “phá thai an toàn và hợp pháp” đối với tất cả phụ nữ và ủng hộ việc dùng tiền đóng thuế của dân tài trợ cho các dịch vụ phá thai.
Các ứng cử viên tổng thống của đảng Dân Chủ trong năm 2020 đều kêu gọi tái lập việc dùng tiền đóng thuế của dân tài trợ cho các dịch vụ phá thai. Một số ứng cử viên, chẳng hạn như Buttigieg, Andrew Yang, và các thượng nghị sĩ như Bernie Sanders và Elizabeth Warren nói rằng phá thai tại bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ nên tùy thuộc vào người mẹ và chính phủ không nên giới hạn sự lựa chọn đó.
Source:Catholic News Agency
Phản ứng của Giáo hội Đức đối với Tông huấn Querida Amazonia
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:32 18/02/2020
Trong cuộc gặp gỡ với các Giám Mục Hoa Kỳ hôm 13 tháng Hai, Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài rất buồn vì sau khi Tông huấn Querida Amazonia được công bố, có nhiều người chê là ngài “không có can đảm”. Edward Petin của hệ thống truyền hình EWTN có bài tường thuật sau giải thích ai những ai dám chê ngài như thế. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Phản ứng của Giáo hội Đức đối với Tông huấn Querida Amazonia
Bất chấp những nỗ lực tốt nhất của các tu sĩ Dòng Tên nhằm chỉ ra rằng cuộc tranh luận vẫn còn bỏ ngỏ, phản ứng của các nhà lãnh đạo Giáo hội Đức – là những người đã đầu tư rất nhiều vào Thượng Hội Đồng Amazon này với mục đích du nhập tình trạng giáo sĩ kết hôn và phó tế phụ nữ - là một sự thất vọng ê chề.
“Thật không may, [Đức Giáo Hoàng Phanxicô] không tìm được can đảm để thực hiện những cải cách thực sự liên quan đến các vấn đề phong chức cho những người đàn ông đã có gia đình và năng lực phụng vụ của phụ nữ, đã được thảo luận trong 50 năm qua.” Đó là nhận xét của Thomas Sternberg, chủ tịch của nhóm giáo dân đầy quyền thế, là Ủy ban Trung ương về Công Giáo Đức (ZdK), đang đóng một vai trò hàng đầu trong tiến trình công nghị gây tranh cãi tại đất nước này.
Sternberg nói thêm rằng “đã có các kỳ vọng rất cao đối với các bước cải cách cụ thể, đặc biệt liên quan đến việc tiếp cận chức tư tế thừa tác và vai trò của phụ nữ” và vì thế “Chúng tôi rất lấy làm tiếc là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không tiến lên một bước như thế trong Tông huấn này”. Ông nhận xét rằng thay vào đó, Đức Phanxicô “đã củng cố các quan điểm hiện có của Giáo hội Rôma, cả về khả năng tiếp cận chức tư tế và sự tham gia của phụ nữ trong các thừa tác vụ và chức vụ của Giáo hội.”
Đức Hồng Y Reinhard Marx, là chủ tịch sắp mãn nhiện của Hội Đồng Giám Mục Đức, đã đưa ra một nhận xét có tính phản kháng. Ngài nói rằng “cánh cửa dẫn đến việc phong chức cho phụ nữ không phải là dứt khoát đóng lại.” Ngài cũng nói thêm rằng, “điều đã rõ ràng là” Tông huấn của Đức Thánh Cha, “đã không đưa ra những câu trả lời dễ dàng nào cho những vấn đề khó khăn,” chẳng hạn như vấn đề luật độc thân linh mục. “Không ai có thể mong đợi điều gì đó như thế sẽ được giải quyết trong vòng một hoặc hai năm,” ngài nói như trên với các phóng viên ngày 12 tháng Hai.
Giám mục Franz-Josef Overbeck của giáo phận Essen, người đứng đầu cơ quan trợ giúp nhân đạo của các giám mục Đức tại Châu Mỹ Latinh đã tài trợ phần lớn cho sự chuẩn bị của Thượng hội đồng, bày tỏ sự thất vọng với tài liệu này vì thiếu sự ủng hộ cho đề nghị phong chức linh mục cho những người đã kết hôn, và nói rằng ngài ước gì Đức Giáo Hoàng tuân theo các quyết định của Thượng hội đồng và “cho phép việc phong chức linh mục cho những người nam đã kết hôn được chứng minh có đức hạnh (được gọi là viri probati) trong khu vực Amazon như một ngoại lệ.”
Tuy nhiên, Đức cha Overbeck, người đã tiên đoán Thượng hội đồng sẽ dẫn dắt Giáo hội đến “một điểm không thể quay trở lại”, và do đó, “không có gì sẽ giống như trước nữa”, đã hoan nghênh sự nhấn mạnh của Đức Giáo Hoàng đối với “tính chất khẩn cấp phải giải quyết các tình huống mục vụ khẩn trương” ở khu vực Amazon và hoan nghênh Đức Thánh Cha Phanxicô cho phép cuộc tranh luận được tiếp tục.
Source:National Catholic RegisterVatican Sends Mixed Signals at ‘Querida Amazonia’ Launch
Phản ứng của Giáo hội Đức đối với Tông huấn Querida Amazonia
Bất chấp những nỗ lực tốt nhất của các tu sĩ Dòng Tên nhằm chỉ ra rằng cuộc tranh luận vẫn còn bỏ ngỏ, phản ứng của các nhà lãnh đạo Giáo hội Đức – là những người đã đầu tư rất nhiều vào Thượng Hội Đồng Amazon này với mục đích du nhập tình trạng giáo sĩ kết hôn và phó tế phụ nữ - là một sự thất vọng ê chề.
“Thật không may, [Đức Giáo Hoàng Phanxicô] không tìm được can đảm để thực hiện những cải cách thực sự liên quan đến các vấn đề phong chức cho những người đàn ông đã có gia đình và năng lực phụng vụ của phụ nữ, đã được thảo luận trong 50 năm qua.” Đó là nhận xét của Thomas Sternberg, chủ tịch của nhóm giáo dân đầy quyền thế, là Ủy ban Trung ương về Công Giáo Đức (ZdK), đang đóng một vai trò hàng đầu trong tiến trình công nghị gây tranh cãi tại đất nước này.
Sternberg nói thêm rằng “đã có các kỳ vọng rất cao đối với các bước cải cách cụ thể, đặc biệt liên quan đến việc tiếp cận chức tư tế thừa tác và vai trò của phụ nữ” và vì thế “Chúng tôi rất lấy làm tiếc là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không tiến lên một bước như thế trong Tông huấn này”. Ông nhận xét rằng thay vào đó, Đức Phanxicô “đã củng cố các quan điểm hiện có của Giáo hội Rôma, cả về khả năng tiếp cận chức tư tế và sự tham gia của phụ nữ trong các thừa tác vụ và chức vụ của Giáo hội.”
Đức Hồng Y Reinhard Marx, là chủ tịch sắp mãn nhiện của Hội Đồng Giám Mục Đức, đã đưa ra một nhận xét có tính phản kháng. Ngài nói rằng “cánh cửa dẫn đến việc phong chức cho phụ nữ không phải là dứt khoát đóng lại.” Ngài cũng nói thêm rằng, “điều đã rõ ràng là” Tông huấn của Đức Thánh Cha, “đã không đưa ra những câu trả lời dễ dàng nào cho những vấn đề khó khăn,” chẳng hạn như vấn đề luật độc thân linh mục. “Không ai có thể mong đợi điều gì đó như thế sẽ được giải quyết trong vòng một hoặc hai năm,” ngài nói như trên với các phóng viên ngày 12 tháng Hai.
Giám mục Franz-Josef Overbeck của giáo phận Essen, người đứng đầu cơ quan trợ giúp nhân đạo của các giám mục Đức tại Châu Mỹ Latinh đã tài trợ phần lớn cho sự chuẩn bị của Thượng hội đồng, bày tỏ sự thất vọng với tài liệu này vì thiếu sự ủng hộ cho đề nghị phong chức linh mục cho những người đã kết hôn, và nói rằng ngài ước gì Đức Giáo Hoàng tuân theo các quyết định của Thượng hội đồng và “cho phép việc phong chức linh mục cho những người nam đã kết hôn được chứng minh có đức hạnh (được gọi là viri probati) trong khu vực Amazon như một ngoại lệ.”
Tuy nhiên, Đức cha Overbeck, người đã tiên đoán Thượng hội đồng sẽ dẫn dắt Giáo hội đến “một điểm không thể quay trở lại”, và do đó, “không có gì sẽ giống như trước nữa”, đã hoan nghênh sự nhấn mạnh của Đức Giáo Hoàng đối với “tính chất khẩn cấp phải giải quyết các tình huống mục vụ khẩn trương” ở khu vực Amazon và hoan nghênh Đức Thánh Cha Phanxicô cho phép cuộc tranh luận được tiếp tục.
Source:National Catholic Register
Giáo Hội Năm Châu 19/02/2020: Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng về Amazon
Giáo Hội Năm Châu
15:27 18/02/2020
1. Tòa Thượng thẩm Liên bang sẽ mở phiên tòa Đức Hồng Y George Pell vào tháng tới, nhưng Đức Hồng Y không được tham dự phiên tòa.
Tòa Thương thẩm Liên bang sẽ mở phiên tòa Đức Hồng Y George Pell vào tháng tới, nhưng Đức Hồng Y không được tham dự phiên tòa.
Theo tin từ News.com.au ngày 13 tháng 2 năm 2020 công bố lúc 11:42 đêm thì Đức Hồng Y George Pell sẽ vắng mặt trong phiên tái xử trường hợp lạm dụng tính dục của Ngài, với hy vọng ngài sẽ được minh oan và trắng án!
Đức Hồng Y đã bị cáo buộc lạm dụng tình dục một cậu ca viên trong ca đoàn của nhà thờ chính tòa khi ngài là Tổng giám mục Giáo phận Melbourne vào những năm 1990.
Ngài bị kết án về tội xâm nhập tình dục đối với một ca viên dưới 16 tuổi và bốn cáo buộc về những chuyện xàm xỡ sờ mó với một ca viên khác dưới 16 tuổi.
Đức Hồng Y đã kháng cáo lên Tòa án Tối cao Tiểu bang Victoria nhưng ngài đã bị Tòa án phúc thẩm Victoria bác bỏ với một phán quyết 2/1… Đức Hồng Y đã bị ngồi tù gần một năm nay! Đức Hồng Y vẫn cương quyết mình vô tội và đã kháng cáo lên Tòa Thượng Thẩm Liên bang. Tòa Thượng thẩm Liên bang đã chấp nhận mở lại vụ án của ngài và phiên tòa sẽ được khai mở tại Canberra vào tháng tới, nhưng Đức Hồng Y sẽ vắng mặt, không được tham dự!
Không giống như các tòa án khác, Tòa án Thương thẩm Liên bang sẽ không cung cấp video viễn liên tới nhà tù. Phiên điều trần cũng sẽ không được trực tiếp truyền hình như bất kỳ tòa án nào! Có nghĩa là ai muốn theo dõi phiên điều trần phải tham dự trực tiếp…
Đức Hồng Y Pell bày tỏ nỗi thất vọng vì ngài sẽ không được trực diện phiên tòa kháng cáo của mình.
Giáo sư Jeremy Gans, giảng dậy luật tại Đại học Melbourne, cho biết hầu hết các phiên điều trần của Tòa án Thượng thẩm được tổ chức tại Canberra, và vấn đề đáng tiếc là các tù nhân không được tham dự!
Nhưng ông cho hay tòa án thường sẽ công bố đầy đủ diễn tiến của phiên tòa qua các video trên trang web của toa, vì vậy, nếu được phép của ban quản trị nhà tù, Đức Hồng Y Pell có thể xem hết các diễn tiến của phiên tòa tái xét về ngài…
Chúng ta cầu nguyện cho công lý được sáng tỏ và thể hiện hầu minh oan cho Đức Hồng Y như Ngài vẫn xác quyết là vô tội và như một số chuyên viên báo giới và luật pháp xác tín là Đức Hồng Y vô tội, Ngài là một con chiên tế thần trước làn sóng truyền thông, vì ngài đã chống đối và lên tiếng mạnh mẽ tố giác những trào lưu vô luân như: đồng tính luyến ái, phá thai và tự do luyến ái.
2. Giấc mơ lớn cho vùng Amazon
Đức Thánh Cha Phanxicô mơ về một vùng Amazon: những bước tiến cụ thể bảo vệ hệ sinh thái của con người, nâng đỡ người nghèo, bảo tồn và trân quí các nền văn hóa địa phương và hướng về một Giáo hội truyền giáo với khuôn mặt người Amazon.
Sau những tìm tòi, học hỏi, chúng ta phải có những ước mơ.... Ngay cả Thiên Chúa cũng chọn những giấc mơ để biểu tỏ ý Ngài. Đó là những chia sẻ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta vào tháng 12 năm 2018. Ngài đã dùng hình ảnh Thánh Giuse để nói lên tâm tình ấy! Thánh nhân là người thầm lặng và thiết thực, giúp chúng ta hiểu về những suy tư của Đức Thánh Cha Phanxicô đối với vùng truyền giáo Amazon trong dịp lễ Khánh nhật Truyền giáo. Bài chia sẻ được diễn tả như một bức thư tình, không những được chải chuốt bằng văn thơ mà còn được diễn xuất như một bộ phim nói lên cuộc sống hàng ngày của khu vực. Tại sao Đức Thánh Cha giao phó việc đào sâu những giá trị phổ quát của vùng này cho Thượng hội đồng Giám mục về một khu vực địa lý cụ thể như thế? Amazon và định mệnh của nó có liên quan gì đến chúng ta?
Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng về Amazon. Câu trả lời rõ ràng nhất là mọi vấn đề đều có những kết nối với nhau như: sự cân bình của hành tinh phụ thuộc vào trạng thái bảo tồn vùng Amazon. Vì sự an sinh của những người sống nơi đó và hệ sinh thái không thể tách rời, không thể bỏ lơ những phong phú sang giàu của các nền văn hóa của các dân tộc sống nơi đó trước các thể chế chính trị, công nghiệp đang khai thác rừng...
Một yếu tố phổ quát khác đang ảnh hưởng rất nhiều trên vùng Amazon đó là một kinh tế toàn cầu hóa và một hệ thống kiếm tiền bất kể đến môi trường sinh thái; sự tồn vong của các sắc dân thổ địa, các nền văn hóa khác nhau của họ; đến việc di dời các nhóm dân mà không quan tâm đến những thương tổn không thể khắc phục của dân chúng!
Nhóm thổ dân Querida Amazonia, là những người đại diện nhận Tông huấn này của Đức Thánh Cha Phanxicô. Sắc dân này đang thách đố Giáo hội tìm ra những con đường mới cho việc truyền giáo, hầu rao truyền sứ điệp Kitô giáo là ‘Thiên Chúa nhân từ đã yêu thế gian đến nỗi đã sai Con Ngài đến và hy sinh chết trên thập giá’. Các sắc dân sống ở Amazon không phải là duyên cớ hủy hoại môi trường! ngược lại, với các nền văn hóa và truyền thống lâu dài họ luôn bảo vệ môi sinh... Họ cũng được mời gọi truyền giáo và tái sinh qua các Bí tích của Chúa Kitô.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đề cập tới các cuộc tranh luận sâu xa về khả năng phong chức cho những người nam đã kết hôn. Ngài nói: Chủ đề này đã được thảo luận trong một thời gian dài và xin được tiếp tục thảo luận trong tương lai nhằm đưa tới một quyết định hoàn hảo và trường cửu như Công đồng Vatican II đã viết: “Đức Thánh Cha, Đấng kế vị thánh Phêrô, sau khi cầu nguyện suy tư, hiệp thông với Giám mục nhìn vào bản chất của chức linh mục trong nhãn quan truyền giáo mà thay đổi hoặc ban phép ngoại lệ cho những điều đã được quy định bởi luật Giáo hội với một đức tin sâu sắc và với một ý thức truyền giáo được bắt nguồn từ ân sủng Chúa tác động thay vì dựa trên các đòi hỏi xu thời và ảnh hưởng của truyền thông...
Anh chị em rất yêu dấu trong vùng Amazon, anh chị em là những người đặc biệt dũng cảm, đang thao thức về Giáo hội hoàn vũ cũng như Giáo hội địa phương... Toàn thể Giáo hội nhìn nhận trách nhiệm của mình trước những vết thương rướm máu của các sắc dân trong vùng Amazon! Trước những khó khăn của những cộng đoàn không được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể vào Chúa Nhật vì thiếu các vị truyền giáo! Hãy tín thác vào ơn Chúa, vào sự linh hoạt của Chúa Thánh Linh… Đức Thánh Cha nhắc tới nhiều sứ vụ của các vị được truyền chức nay được ủy thách cho nam nữ tu sĩ và những người giáo dân tại các vùng xa xôi hẻo lành trong khắp vùng Amazon
3. Việc trì hoãn công bố Tông huấn
Vatican News đưa tin: Thư Ký Đặc Biệt của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Vùng Amazon, Đức Hồng Y Czerny, đã trình bầy Tông Huấn mà Đức Giáo Hoàng đã hoàn tất hồi tháng 12 năm ngoái, và được công bố hôm qua 12 tháng Hai năm 2020. Tông huấn này chứa 4 “giấc mơ” vĩ đại của Đức Phanxicô đối với vùng này, trong đó có giấc mơ về một Giáo Hội truyền giáo với khuôn mặt Amazon.
Vatican News, nhân dịp này, đã phỏng vấn Đức Hồng Y Michael Czerny với nội dung như sau:
Được hỏi về việc trì hoãn công bố Tông huấn mà có người cho là đã sẵn sàng vào cuối năm ngoái, Đức Hồng Y cho hay: “Trong bài phát biểu của ngài khi kết thúc Thượng hội đồng, Đức Thánh Cha nói: ‘Một lời từ Đức Giáo Hoàng về những gì ngài đã trải qua trong Thượng hội đồng có thể có ích đôi chút. Tôi muốn nói điều đó trước cuối năm nay, để không mất quá nhiều thì giờ’. Thực thế, đó là những gì đã xảy ra. Như đã hứa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chuyển bản văn cuối cùng của Tông Huấn hậu Thượng hội đồng vào ngày 27 tháng 12, như thế là trước khi kết thúc năm 2019. Sau đó, có các bước thiết yếu thông thường cần có thời gian để hoàn tất: tài liệu đã được xem lại, định dạng và dịch sang các ngôn ngữ khác nhau, và bây giờ cuối cùng nó đã được công bố”.
4. Tâm điểm của sứ điệp trong Tông Huấn
Về tâm điểm của sứ điệp trong Tông Huấn, Đức Hồng Y cho hay: “Tựa đề của Tông Huấn là Querida Amazonia, Amazon Thân Yêu, và tâm điểm của nó là tình yêu của Đức Giáo Hoàng dành cho Amazon và các hậu quả của tình yêu đó: sự đảo ngược cách suy nghĩ thông thường về mối tương quan giữa giàu và nghèo, giữa phát triển và quyền giá hộ, giữa việc bảo vệ gốc rễ văn hóa và việc cởi mở đối với người khác. Đức Giáo Hoàng mô tả cho chúng ta 'các cộng hưởng' mà diễn trình đồng nghị vốn gợi ra nơi ngài. Ngài làm như vậy dưới hình thức bốn 'giấc mơ vĩ đại'. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mơ ước rằng trong khu vực Amazon có thể có một cam kết của mọi người trong việc bảo vệ quyền lợi của những người nghèo nhất, của các dân tộc nguyên thủy, của những người bé nhỏ nhất. Ngài mơ về một Amazon có thể bảo tồn sự phong phú về văn hóa của nó. Giấc mơ sinh thái của ngài là một Amazon có khả năng chăm sóc sự dồi dào sức sống của nó. Cuối cùng, ngài mơ ước các cộng đồng Kitô giáo có khả năng nhập thân vào Amazon và vào việc xây dựng một Giáo Hội với khuôn mặt Amazon. Bản thân tôi, tôi đã có ấn tượng sâu sắc bởi rất nhiều trích dẫn đầy chất thơ và việc tham khảo các bản văn giáo hoàng trước đây”.
5. Các giấc mơ có thực tiễn không?
Được hỏi liệu đó có phải là các giấc mơ không thực tiễn, Đức Hồng Y trả lời: “Đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô thì không. Tôi muốn nhắc lại những lời lẽ ngài nói trong cuộc đối thoại với những người trẻ tuổi tại Circus Maximus vào ngày 11 tháng 8 năm 2018: ‘Các giấc mơ rất quan trọng. Chúng giữ cho quan điểm của chúng ta luôn rộng lớn, chúng giúp chúng ta nắm lấy chân trời, nuôi dưỡng hy vọng trong mọi hành động hàng ngày.... Các giấc mơ đánh thức các bạn, chúng làm các bạn say sưa, chúng là những ngôi sao sáng nhất, những ngôi sao chỉ ra một con đường khác cho nhân loại.... Kinh thánh nói với chúng ta rằng những giấc mơ vĩ đại là những giấc mơ có khả năng sinh hoa kết trái'. Vì vậy, để trả lời câu hỏi của bạn, tôi nghĩ rằng cách nhìn này và quan điểm này hoàn toàn không giống với một quan điểm không thực tế hoặc không tưởng. Giấc mơ ở đây là dấu chỉ con đường mà cuối cùng cả Giáo hội phải đi. Vẻ đẹp của nó nằm chính ở chỗ nhìn thấy một chân trời, chứ không phải trong việc đưa ra một loạt các giới luật. Không có lời tỏ tình nào có hình thức của một hợp đồng hoặc một cuốn sách nấu ăn cả.
“Trong chương đầu tiên, chương dành cho giấc mơ xã hội, xem xét sự tàn phá môi trường của Amazon và các đe dọa đối với phẩm giá con người của các dân tộc mà Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI vốn đã tố cáo, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta bất bình. Ngài nói: ‘Chúng ta cần phải cảm thấy bất bình', vì ‘thật không tốt khi chúng ta trở nên quen thuộc với cái ác’. Ngài mời gọi chúng ta xây dựng mạng lưới liên đới và phát triển nhằm vượt qua các não trạng thuộc địa khác nhau. Ngài mời gọi chúng ta tìm các giải pháp thay thế trong một số lĩnh vực như chăn nuôi và nông nghiệp bền vững, các dạng năng lượng không gây ô nhiễm và các sáng kiến kinh doanh không liên quan đến việc hủy hoại môi trường và văn hóa. Nói tóm lại, những 'giấc mơ vĩ đại' này không nhằm gây mê chúng ta mà đúng hơn để được nuôi dưỡng bằng hành động cụ thể và hàng ngày”.
Nhưng “cổ vũ” Vùng Amazon có nghĩa gì? Đức Hồng Y cho biết “Như Đức Giáo Hoàng giải thích, cổ vũ Amazon có nghĩa là bảo đảm rằng từ đó phát sinh ra những điều tốt đẹp nhất. Nó có nghĩa là không thuộc địa hóa nó, không cướp bóc nó với các dự án khai thác lớn phá hủy môi trường và đe dọa người dân bản địa. Tuy nhiên, đồng thời, nó cũng có nghĩa là tránh thần thoại hóa các nền văn hóa bản địa, loại bỏ bất cứ sự trộn lẫn xào xáo nào, hoặc rơi vào thứ chủ nghĩa duy môi trường ‘chỉ biết quan tâm đến sinh quần nhưng làm ngơ các dân tộc Amazon’. Bản sắc và đối thoại là hai từ chủ chốt, và Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích rằng chúng hoàn toàn không chống đối nhau. Việc quan tâm đến các giá trị văn hóa của người bản địa liên quan đến tất cả chúng ta: chúng ta phải cảm thấy đồng trách nhiệm đối với sự đa dạng của các nền văn hóa của họ.
“Từ các trang của Tông Huấn, cam kết Kitô giáo cũng xuất hiện rõ ràng, khác xa với chủ nghĩa bản xứ (nativism) khép kín hoặc chủ nghĩa duy môi trường vốn hạ giá con người, coi họ như sự hủy hoại của hành tinh. Ngoài ra, nó đề xuất một tinh thần truyền giáo táo bạo - nói về Chúa Giêsu và mang lời đề nghị sự sống mới của Người đến với người khác – sự sống viên mãn cho mỗi người và cho mọi người, trong khi chăm sóc sáng thế, trong mối tương quan với Thiên Chúa Tạo Hóa và với mọi anh chị em của chúng ta”.
6. Số phận của một vùng có chi ảnh hưởng đến chúng ta?
Với câu hỏi: Số phận của một vùng có chi ảnh hưởng đến chúng ta? Đức Hồng Y nói rằng “Số phận của Amazon ảnh hưởng đến tất cả chúng ta, vì mọi sự đều được nối kết qua lại với nhau và sự chăm sóc 'sinh quần quý giá này, một sinh quần hoạt động như một bộ lọc và giúp chúng ta tránh tăng nhiệt độ trái đất, là điều nền tảng cho sự lành mạnh của khí hậu hoàn cầu. Amazon, do đó, liên quan đến tất cả chúng ta một cách trực tiếp. Trong khu vực đó trên thế giới, chúng ta thấy tầm quan trọng của một hệ sinh thái toàn diện, kết hợp sự tôn trọng thiên nhiên với việc chăm sóc phẩm giá con người. Tương lai của Amazon và tương lai của các dân tộc của nó có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì sự cân bằng của hành tinh chúng ta. Trong viễn cảnh này, điều quan trọng là cho phép người dân bản địa ở lại trên các lãnh thổ của họ và chăm sóc vùng đất của họ. Khía cạnh giáo dục cũng có tầm quan trọng hàng đầu: cổ vũ các tác phong mới và thái độ mới nơi người ta. Nhiều người sống trong khu vực đó đã tiếp nhận nhiều phong tục tiêu biểu của các thành phố lớn nơi chủ nghĩa tiêu thụ và văn hóa vứt bỏ đang thống trị”.
Về khía cạnh mục vụ nói ở phần cuối Tông Huấn, Đức Hồng Y cho hay “Nó chiếm một nửa Tông Huấn, nên khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng chiều kích mục vụ là điều cốt yếu, nó bao gồm tất cả mọi điều, ngài quả có ý nói rõ ràng điều đó. Tôi có ấn tượng cao, trước hết, bởi viễn cảnh truyền giáo: không có việc 'công bố say mê' Tin Mừng, các dự án của giáo hội có nguy cơ trở thành bất phân biệt với các cơ quan phi chính phủ thế tục. Đức Giáo Hoàng giải thích rằng cam kết bảo vệ người nghèo, những người nhỏ bé nhất và những người bản địa ngụ hàm việc làm chứng cho Chúa Giêsu và đề xuất tình bạn với Người. Thông điệp xã hội bao gồm việc công bố Tin Mừng, và hạt nhân của nó, tức giáo lý sơ truyền (kerygma), bao gồm sự sống con người, phẩm giá con người, công lý và chăm sóc ngôi nhà chung. Nó công bố một Thiên Chúa vô cùng yêu thương mỗi con người và đã hy sinh Con của Người, Chúa Kitô bị đóng đinh, vì sự cứu rỗi của chúng ta”.
7. Việc hội nhập văn hóa
Về “việc hội nhập văn hóa”, một hạn từ năng được nhắc đến trong Tông Huấn, Đức Hồng Y cho hay: “Bằng cách công bố và làm chứng cho Tin Mừng, mọi thứ tốt và đẹp được mọi nền văn hóa sản sinh ra đều được trân quí, đem nó đến chỗ viên mãn dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo. Tin Mừng luôn được công bố ở một nơi chốn đặc thù, và nhờ thế hạt giống được gieo vãi. Đồng thời, Giáo hội học hỏi và làm giàu chính mình bằng cách tiếp xúc với những gì mà Chúa Thánh Thần đã gieo vãi trong nền văn hóa đặc thù đó. Đức Giáo Hoàng yêu cầu tiếng nói của người cao niên được lắng nghe và các giá trị hiện diện trong các cộng đồng nguyên thủy được nhìn nhận. Thật vậy, các dân tộc bản địa dạy chúng ta phải điều độ, hài lòng với những ít ỏi hiện có và cảm nhận được sự cần thiết phải đắm chìm trong cách sống cộng đoàn của cuộc sống chúng ta. Hội nhập văn hóa cũng có nghĩa là biết cách chấp nhận một số biểu tượng thổ dân đã tồn tại từ trước mà không ngay lập tức coi đó như một sai lạc ngoại đạo. Các biểu tượng, phong tục và văn hóa cần được liên tục thanh lọc và chín mùi. Nhưng những người thực sự hết lòng coi trọng việc công bố Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô luôn tìm cách đáp ứng các nguyện vọng của các dân tộc qua nền linh đạo hội nhập văn hóa”.
Về chủ đề được Thượng Hội Đồng Amazon đề cập tới nhiều tức việc khan hiếm linh mục khiến các cộng đồng này không được dịp cử hành Bí Tích Thánh Thể, Đức Hồng Y Czerny phát biểu rằng: “Đức Giáo Hoàng bày tỏ sự cần thiết mọi người phải sẵn sàng để phục vụ ngõ hầu gia tăng tần số các lần cử hành Thánh Thể, đặc biệt trong các khu vực xa xôi hẻo lánh. Đức Giáo Hoàng nhắc nhở chúng ta không nên tượng hình thừa tác vụ linh mục một cách độc khối. Tuy nhiên, chỉ có linh mục mới có thể truyền phép Thánh Thể và có thể ban Bí tích Hòa giải. Nhu cầu cấp thiết này là nguồn gốc của lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô ngỏ với mọi giám mục, ngoài việc cầu nguyện cho ơn gọi, họ có thể quảng đại hơn nữa trong việc quyết định gửi đến Amazon những người tỏ ra có ơn gọi truyền giáo. Điều cũng cần thiết là thiết kế việc đào tạo biết đối thoại với các nền văn hóa bản địa. Cần có nhiều phó tế vĩnh viễn hơn nữa, và vai trò của các nữ tu và giáo dân cần được phát triển hơn nữa”.
Còn về khả thể phong chức linh mục cho các Viri Probati, Đức Hồng Y cho rằng “Đức Giáo Hoàng Phanxicô vẫn trung thành với những gì ngài nói trước khi có Thượng hội đồng. Khả thể phong chức cho các người đàn ông có vợ có thể được Giáo hội thảo luận. Nó đã tồn tại, thí dụ, trong các Giáo hội Đông phương. Cuộc thảo luận này đã diễn ra trong nhiều thế kỷ, và Thượng hội đồng đã tự do bàn bạc tới nó, không phải trong sự cô lập, mà trong bối cảnh trọn vẹn của sinh hoạt Thánh Thể và thừa tác vụ. Đức Giáo Hoàng tuyên bố trong Tông Huấn rằng vấn đề không phải là con số, và sự hiện diện lớn hơn của các linh mục không phải là yêu cầu duy nhất. Điều cần thiết là cuộc sống mới trong cộng đồng, một động lực truyền giáo mới, các phục vụ mới của hàng ngũ giáo dân, việc đào tạo liên tục, tính táo bạo và sáng tạo. Điều cần thiết là sự hiện diện ở cấp địa phương các giáo dân được sinh động hóa bởi tinh thần truyền giáo và có khả năng đại diện cho bộ mặt chân chính của Giáo hội Amazon. Dường như ngài muốn chỉ rõ, điều này là cách duy nhất để ơn gọi trở lại. Đức Giáo Hoàng viết, Amazon thách thức chúng ta vượt qua các quan điểm hạn chế và không tự hài lòng với các giải pháp chỉ giải quyết một phần của tình huống. Nói cách khác, vấn đề lớn là trải nghiệm đức tin và truyền giảng Tin Mừng đổi mới”.
Về vai trò của nữ giới, Đức Hồng Y Czerny nói rằng “trong bản văn, Đức Giáo Hoàng nhắc nhớ rằng có những cộng đồng ở Amazon, trong nhiều thập niên, đã truyền tải đức tin mà không có các linh mục, nhờ những người phụ nữ mạnh mẽ và quảng đại, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã rửa tội, dạy giáo lý và dạy mọi người cách cầu nguyện. Chúng ta cần mở rộng quan điểm của mình và đừng suy nghĩ “một cách theo chức năng” theo đó một vai trò quan trọng hơn đối với phụ nữ chỉ có khi được liên kết với quyền được gia nhập Các Chức Thánh. Quan điểm này sẽ dẫn chúng ta tới việc giáo sĩ hóa phụ nữ, kết cục làm nghèo nàn sự đóng góp có tính nền tảng của họ. Chúng ta phải lồng điều này vào huấn quyền rộng lớn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người vốn nhấn mạnh sự cần thiết phải tách quyền lực khỏi thừa tác vụ linh mục, vì sự kết hợp này là nguồn gốc của chủ nghĩa giáo sĩ trị.
“Mối liên hệ giữa thừa tác vụ và quyền lực là điều khiến phụ nữ không có tiếng nói, không có quyền lợi và thường không có khả thể quyết định. Vì vậy, vấn đề không phải là cho họ quyền được gia nhập thừa tác vụ thụ phong để họ có được tiếng nói và bỏ phiếu, mà là tách quyền lực ra khỏi thừa tác vụ. Mặt khác, chúng ta phải được truyền cảm hứng bởi tấm gương của họ, một điều nhắc nhở chúng ta rằng quyền lực trong Giáo hội là việc phục vụ, quảng đại và tự do. Sự xuất hiện các việc phục vụ và đặc sủng khác của phụ nữ phải được khuyến khích. Đức Giáo Hoàng nói rằng phụ nữ phải được quyền nắm giữ các chức năng và dịch vụ giáo hội không đòi phải có các Chức Thánh; và các chức năng và dịch vụ như vậy phải ổn định và được công khai nhìn nhận bằng ủy nhiệm thư của giám mục. Có lẽ đã đến lúc phải duyệt lại các thừa tác vụ giáo dân đã tồn tại trong Giáo hội, trở về với các nền tảng của chúng và cập nhật chúng bằng cách đọc chúng dưới ánh sáng thực tại hiện nay và linh hứng của Chúa Thánh Thần, và, đồng thời, tạo ra các thừa vụ ổn định mới khác với việc ‘công khai nhìn nhận và ủy nhiệm của giám mục’”.
Như thế, đâu là mối tương quan giữa Tông Huấn và Tài Liệu Sau Cùng của Thượng Hội Đồng? Đức Hồng Y Czerny cho hay “Trong phần dẫn nhập vào Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng, Đức Giáo Hoàng giải thích rằng ngài không muốn thay thế hoặc lặp lại tài liệu đó. Ngài đã trình bày nó một cách chính thức. Ngài mời gọi chúng ta đọc toàn bộ. Ngài cầu xin để toàn thể Giáo hội tự cho phép mình được làm giàu và thách thức bởi công trình này. Ngài yêu cầu mọi mục tử, các người thánh hiến và tín hữu giáo dân trong vùng Amazon cam kết sẽ áp dụng nó và cuối cùng, mọi người có thiện chí sẽ được truyền cảm hứng từ Tài liệu Sau cùng và, chắc chắn, bởi cả Querida Amazonia đẹp đẽ nữa”.
8. Các vị lãnh đạo Ðông phi tạo sức ép trên Nam Sudan.
Hôm 10 tháng 02 năm 2020, các vị lãnh đạo các nước miền đông Phi Châu, nhóm họp thượng đỉnh tại Addis Abeba, thủ đô Etiopia, đã bác bỏ đề nghị kéo dài cuộc thương thảo giữa phe chính phủ và phe đối lập tại Nam Sudan.
Theo Hiệp định ký kết tại Addis Abeba hồi tháng 09 năm 2018 giữa tổng thống Nam Sudan, ông Salva Kiir, và lãnh tụ phe đối lập Riek Machar, nguyên là phó tổng thống, thì lẽ ra một chính phủ lâm thời thống nhất quốc gia Nam Sudan đã được thành hình từ lâu để chấm dứt cuộc nội chiến từ 6 năm nay, nhưng cứ bị hoãn lại vì lý do này hoặc lý do khác.
Trong những ngày qua, tổng thống Salva Kiir và lãnh tụ Riek Machar đã nhóm họp riêng với nhau, nhưng vẫn không đạt được sự đồng thuận để lập chính phủ chung, hạn chót là ngày 22 tháng 02 năm 2020 và họ đề nghị gia hạn thời gian thương thảo.
Tuy nhiên các vị lãnh đạo các nước láng giềng ở Nam Sudan bác bỏ để nghị này và tuyên bố rằng: “Việc gia hạn cuộc thương thảo như thế là điều không đáng mong ước và cũng không thể thực hiện được trong giai đoạn hiện nay của tiến trình hòa bình”. Các vị lãnh đạo ấy cũng đe dọa có những hành động nghiêm khắc chống lại bất kỳ phe nào cản trở tiến trình hòa bình.
Nguyên do sự bất thuận giữa hai bên là: phe tổng thống Salva Kiir muốn duy trì 32 bang hiện nay ở Nam Sudan với quyền tự trị rộng rãi, trong khi phe phiến quân đòi giảm số bang đó xuống còn 10 bang.
Ðức Thánh cha Phanxicô nhiều lần tuyên bố ngài sẽ viếng thăm Nam Sudan cùng với Ðức Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo, sau khi điều kiện tại nước này cho phép
Tiết lộ gây sững sờ của hai khoa học gia Trung Quốc: coronavirus là do phòng thí nghiệm mà ra
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:11 18/02/2020
Tính đến 10 giờ sáng thứ Ba 18 tháng Hai, số người chết vì coronavirus, hay chính thức phải gọi là COVID-19 đã lên đến 1,868 người, và số người nhiễm bệnh lến 72,436 người. Như thế, trong ngày thứ Hai đã có thêm 93 người bị thiệt mạng, và thêm 1,109 người được xác nhận là đã nhiễm bệnh.
Cuộc khủng hoảng coronavirus làm lung lay quyền lực của Tập Cận Bình. Đó là nhận xét của hai tờ báo Anh: tờ The Guardian và tờ Express.
Tờ The Guardian tường thuật rằng bọn cầm quyền Trung Quốc đã bắt giữ một nhà hoạt động nổi tiếng, và là một học giả pháp lý, sau khi ông này cáo buộc Tập Cận Bình là “ngu dốt”, và “sai lầm trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng coronavirus dẫn đến các nguy cơ đáng lo ngại cho Trung Quốc và toàn thế giới”.
Ông Từ Chí Dũng (Xu Zhiyong - 徐志勇), nguyên giảng viên tại Đại học Bưu chính Viễn thông Bắc Kinh, và là người sáng lập phong trào Công Dân Mới, đã bị cảnh sát bắt vào tối thứ Bảy 15 tháng Hai, khi ông đang tìm nơi ẩn náu tại nhà của một luật sư ở một thành phố phía nam tỉnh Quảng Châu. Hai nhà hoạt động Diệp Đốc (Ye Du - 叶笃) và Hoa Trạch (Hua Ze - 华泽) cho tờ The Guardian biết như trên.
“Đây có thể là tác phẩm cuối cùng tôi viết ra,” nhà phê bình nổi tiếng Từ Chí Dũng cho biết như trên trước khi bị cắt internet và trốn về Quảng Châu.
Người chứa chấp anh ta là nữ luật sư Dương Bân (Yang Bin - 杨斌), chồng và con trai của bà cũng đã bị bắt vì tội che giấu tội phạm, nhưng họ được thả ra sau 24 giờ tạm giam. Trước đó, bà Dương Bân cũng từng bị công an Trung Quốc cảnh cáo vì đã đăng các bài bình luận trực tuyến nẩy lửa, buộc các quan chức phải chịu trách nhiệm về cái chết của bác sĩ Lý văn Lương (Li Wenliang - 李文亮), là bác sĩ đầu tiên đưa ra cảnh báo về coronavirus và công an Trung Quốc đã bắt anh phải im lặng. Anh đã chết trong bệnh viện sau khi nhiễm bệnh từ các bệnh nhân.
Chỉ một vài giờ sau khi ông Từ Chí Dũng bị bắt, một dấu chỉ phản kháng khác đã được hai nhà trí thức khác của Trung Quốc đưa ra.
Tại cuộc họp báo ở Trung Tâm Thông Tin của Bắc Kinh, hai nhà sinh vật học Tiểu Ba Đào (Botao Xiao - 小波涛) và Tiểu Lôi (Lei Xiao - 小雷) đã bác bỏ các giải thích chính thức được phổ biến trên các phương tiện truyền thông nhà nước cho rằng dịch coronavirus đã phát sinh từ một chợ cá của Vũ Hán, và nói rằng dịch bệnh này thực ra phát sinh từ các phòng thí nghiệm ở thành phố này.
Trong một tài liệu có tựa đề “Nguồn gốc đáng tin cậy của 2019-nCoV coronavirus”, được in sẵn và được phát ngay cho các nhà báo có mặt trước khi cuộc họp báo bắt đầu, hai nhà khoa học này cho biết tại thành phố Vũ Hán có 2 phòng thí nghiệm sinh học của nhà nước. Một trong hai phòng thí nghiệm này chỉ cách chợ cá Vũ Hán chưa đến 280m.
Tài liệu này cho biết đã phỏng vấn 31 người dân địa phương và 28 du khách đã từng đến thăm khu chợ này. Họ cho biết tất cả 59 người được phỏng vấn đều bác bỏ các tuyên bố cho rằng những con dơi đã được bán tại ngôi chợ này. Những người được phỏng vấn nói “Dơi chưa từng được bán tại đây và dân chúng địa phương không có thói quen ăn dơi như một số vùng tại Trung Quốc.”
Tại tỉnh Hồ Bắc có các hang dơi, trong đó có một loại dơi gọi là “horseshoe bat”, tức là “dơi móng ngựa”, là loại dơi mang trong mình loại coronavirus mới này. Tuy nhiên, hang gần nhất cũng cách tâm chấn của dịch bệnh đến 600 dặm hay 965 km. Với một khoảng cách xa như thế, không thể có một con dơi nào có thể bay đến vùng này.
Trong khi đó, tài liệu này lại cho biết: “Phòng thí nghiệm gần chợ Vũ Hán, chỉ cách ngôi chợ có 280m, có 605 con dơi được nuôi ở đây để thí nghiệm.”
Hơn thế nữa, “Một nhà nghiên cứu tại phòng thí nghiệm gần chợ Vũ Hán, tên là Hoàng Diễm Linh (Huang Yanling -黄艳玲), đã cho biết rằng ông đã từng bị những con dơi tấn công và máu dơi rớt trên da của mình. Anh ta biết sự nguy hiểm cao độ của khả thể bị nhiễm trùng nên đã tự cách ly mình trong 14 ngày.”
“Trong một tai nạn khác, ông lại cách ly bản thân một lần nữa vì có một con dơi tiểu trúng vào người ông ta.”
Hai nhà khoa học này làm việc tại một Đại học có uy tín ở miền Nam gọi là Đại Học Công nghệ Quảng Châu. Giả thuyết của hai vị này là những nhân viên làm việc tại hai phòng thí nghiệm ở Vũ Hán đã bị lây nhiễm coronavirus từ những con dơi trong phòng thí nghiệm. Dịch bệnh, do đó, đã được phát sinh từ đây.
Tài liệu của hai nhà khoa học này cũng tiết lộ rằng mỗi phòng thí nghiệm Vũ Hán trị giá lên đến 300 triệu nhân dân tệ, tức là 44 triệu đô la Mỹ, và để giảm bớt những lo ngại về an toàn, nó được xây dựng xa vùng ngập lũ và có khả năng chịu được những trận động đất mạnh đến 7 độ Richter, mặc dù khu vực này không có lịch sử động đất mạnh. Hai ông đặt câu hỏi tại sao với chi phí cao như thế, phòng thí nghiệm lại không đủ điều kiện bảo vệ an toàn cho các nhân viên làm việc. Số tiền đầu tư lớn như thế được tập trung vào những hạng mục nào?
Lập luận này lập tức gây ra các lo ngại trên thế giới về khả năng Trung Quốc lưu trữ virus đã được tinh chế, đã được biến đổi gen cho các mục đích không thể công khai hóa.
Chúng ta không biết liệu cuộc khủng hoảng coronavirus có thể làm lung lay quyền lực của Tập Cận Bình hay không. Tuy nhiên, trước mắt tất cả các hàng hóa made in China và đặc biệt là các nhà hàng Tầu trên thế giới đã đột nhiên rơi vào tình trạng ế ẩm thê thảm như quý vị và anh chị em đang xem thấy đây.
Trong một diễn biến mới nhất, ngay trước khi chúng tôi thực hiện chương trình này, Tân Hoa Xã đã nhanh chóng tấn công hai ông Tiểu Ba Đào và Tiểu Lôi. Trích thuật Thách Chính Lập (Shi Zhengli - 石正立)và Trần Toàn Kiều (Chen Quanjiao - 陈全娇) là hai nhân viên làm việc tại 2 phòng thí nghiệm này, Tân Hoa Xã quả quyết không hề có nhà nghiên cứu nào tên là Hoàng Diễm Linh làm việc chung với họ tại Vũ Hán.
Source:Express