Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy yêu tha nhân như chính mình
Lm Jude Siciliano, OP
07:19 17/02/2011
CHÚA NHẬT 7 MÙA THƯỜNG NIÊN A
Lêvi 19: 1-2, 17-18; 1 Côrintô 3: 16-23; Matthêu: 5: 38-48
Khi mùa Chay đến sớm trong chu kỳ phụng vụ thông thường thì chúng ta không có Chúa Nhật VII cùng với những bài đọc hôm nay. Những Chúa Nhật mùa Chay trở thành tâm điểm và thay thế một số Chúa Nhật trong mùa Thường Niên. Nhưng mùa Chay năm nay đến trễ, vì thế chúng ta có cơ hội nghe những bài đọc Kinh Thánh mà lẽ ra bị bỏ qua nếu mùa Chay đến sớm hơn. Tôi nghĩ rằng quý vị sẽ thở phào nhẹ nhõm nếu mùa Chay đến sớm hơn và Tin Mừng hôm nay không nằm trong chu kỳ phụng vụ. Quả là khó khăn cho chúng ta!
Không chỉ riêng quý vị cảm thấy lúng túng đối với đoạn chọn từ Bài Giảng Trên Núi hôm nay. Chẳng phải là mọi Kitô hữu đều cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói: “Đừng chống cự người ác”, “giơ cả má bên trái”, “đưa cả áo bên ngoài”, “đi thêm một dặm”, “yêu thương kẻ thù”…hay sao? Chúng ta thực sự muốn giơ tay phản đối khi Đức Giêsu kết luận: “Hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Tôi có thể nghe một số người nói: “Thôi nào ông Giêsu, thực tế chút đi!”.
Thoạt tiên khi nghe, chúng ta có thể hiểu vì sao bài Phúc Âm hôm nay, thực ra là trọn vẹn Bài Giảng Trên Núi, làm cho Kitô giáo giống như một lối sống không thực tế và thực tiễn trên thế gian này. Hôm nay, thánh Phaolô diễn tả điều ấy như sau: “Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa…”. Chúng ta nói thêm rằng: “Và sự khôn ngoan của Thiên Chúa là sự điên rồ trước mắt thế gian”.
Vì vậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, phản ứng ban đầu của thế gian đối với Bài Giảng là xem lời dạy của Đức Giêsu hoàn toàn vô lý: phi thực tế trong “thế giới hiện thực”. Nhưng “thế giới hiện thực” chỉ là tình trạng hỗn độn và sự khôn ngoan của thế gian đã gây ra tình trạng hỗn độn ấy. Vì thế, trước khi con người vội vã ngoảnh mặt đi trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa được mạc khải trong Bài Giảng, thì có lẽ họ muốn dừng lại và xét xem đâu là sự khôn ngoan đích thực. Các bài đọc Kinh Thánh cho thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi. Trong đức tin, những ai đã từng cảm nghiệm, từng nhận ra và hiện nay hoàn toàn ở lại trong tình yêu ấy thì đều là những người có thể đáp trả như Thiên Chúa đã làm – yêu vô điều kiện. Đức Giêsu đang nói về một tình yêu đặc biệt – tình yêu chia sẻ. Đó là loại tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể trao tặng người khác một tình yêu như thế khi chúng ta thực sự biết về tình yêu đó, vì chính chúng ta đã cảm nghiệm nó từ chính Thiên Chúa.
Là những tín hữu, chúng ta cần hướng lòng mình để lắng nghe và tin tưởng vào những điều được loan báo hôm nay. Thật dễ hiểu rằng, cả trong bài đọc của Lêvi và Mát-thêu đều dạy chúng ta phải yêu thương những người thân cận. Nhưng Đức Giêsu xóa bỏ ranh giới giữa người thân cận và người không thân cận. Không có giới hạn nơi những người chúng ta yêu. Do đó, Ngài cho chúng ta biết rằng tình yêu của chúng ta không được giới hạn ở những người tốt (“đừng chống cự người ác”), không giới hạn ở gia đình và bạn bè (“yêu thương kẻ thù”) hay chỉ những người yêu thương chúng ta (“…nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?”). Điểm cốt yếu là, theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải yêu thương tha nhân như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Chúng ta cần trợ giúp để luôn lắng nghe và thấu hiểu sứ điệp Tin Mừng: Đức Giêsu là bằng chứng tích cực về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chỉ những ai đón nhận và hoàn toàn ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa thì mới có thể nghĩ đến việc đáp trả tình yêu đó bằng cách thi hành điều Thiên Chúa dạy – yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù cách vô điều kiện.
Chúng ta hãy xem bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Trong sách Xuất Hành (21,24) có “luật báo oán” – dạy rằng con người được yêu cầu xử phạt và đền bù tùy theo thiệt hại. Luật này thường được cộng đồng sử dụng để phân xử và đưa ra mức hình phạt. Hình phạt không được vượt quá tội. Nếu hình phạt vượt quá tội thì sẽ có nguy cơ càng gây ra thêm thù hận và ý muốn báo thù vô cùng tận. Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta không được có bất cứ kiểu báo thù nào. Nghĩa là chúng ta không thể để cho người khác định đoạt chúng ta sẽ đáp trả bằng cách nào. Có lẽ, Đức Giêsu đang nhấn mạnhvấn đề, nhưng Ngài đã rất cố gắng khi dạy chúng ta biết giơ cả má bên phải ra nữa.
Áo choàng là chiếc áo dài người ta mặc cả ngày. Nó cũng giữ ấm cho con người vào ban đêm. Một lần nữa Đức Giêsu lại nhấn mạnhvấn đề khi Ngài nói về việc đưa cả áo ngoài của mình cho ai muốn lấy áo trong. Không có áo ngoài thì con người sẽ trần truồng! Có lẽ Ngài muốn nói rằng người Kitô hữu không chỉ quan tâm đến quyền lợi của mình, nhưng còn cho đi nhiều hơn cả những gì luật công bình đòi buộc.
Lính La-mã có thể bắt những người thường dân phải phục vụ họ. Như vậy, họ có thể yêu cầu một người vác vật nặng đi một dặm – nhưng không được hơn. Đức Giêsu nói rằng: khi anh em bị yêu cầu làm như thế thì hãy đi thêm một dặm nữa. Nếu người Kitô hữu làm những điều quá phi thường, như chúng ta đang nói là “đi thêm một dặm”, thì điều đó sẽ có tác dụng thế nào trên người lính La-mã, là người sẽ nghĩ rằng mình có trách nhiệm với hoàn cảnh và con người?
Nó sẽ có tác dụng ra sao trên con người hiện đại, là những người nghĩ rằng họ có trách nhiệm với những hoạt động hay cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta tự quyết định đi thêm một dặm nữa?
Liên quan đến những người hành khất hay những ai đến với chúng ta trong lúc khó khăn: Luật tôn giáo đòi hỏi người Do Thái cho vay mà không đặt lãi. Điều này giúp ích cho những ai gặp khó khăn. Thay vào đó, Đức Giêsu không bảo các môn đệ của mình “cho vay”, nhưng là “cho”. Dường như Ngài đang mời gọi các môn đệ của mình tập thói quen quảng đại. Nếu chúng ta làm như thế thì hành động của chúng ta sẽ nổi bật lên, biểu hiện cho thứ khôn ngoan thách thức sự khôn ngoan của thế gian.
Chúng ta đã biết nhiều người vượt qua những ranh giới của lòng quảng đại thường ngày. Người già với số tiền trợ cấp mua đồ dùng cho các cha mẹ đơn thân; người thợ ở lại sau những giờ làm việc để giúp huấn luyện những thợ mới mà không cần thêm lương; những luật sư và giáo viên hy sinh thời gian của mình để giúp những người thất nghiệp và ít học…
Hôm nay chúng ta nghe từ sách Lê-vi lời yêu cầu: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Nhưng sách Lê-vi không nói ngươi phải “ghét kẻ thù”. Có lẽ đó là điều được thêm vào bởi lòng nhiệt thành quá mức và cực kỳ yêu nước vào thời Đức Giêsu. Tuy nhiên, “người thân cận” lại ám chỉ đến người trong cộng đồng. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta sản sinh ra thứ tình yêu dựa trên cảm xúc để dành cho người chúng ta không thích hay thậm chí là ghét. Thay vào đó, Ngài mời gọi chúng ta làm điều thiện cho con người – cho dù người đó là kẻ thù. Ngài nói với chúng ta: ngay cả người ác cũng đối xử tốt với đồng bạn. Vậy chúng ta cũng phải tiến xa hơn trong việc đối xử với tha nhân.
Sau cùng, chúng ta phải trở nên “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Chúng ta không thể thánh thiện như Thiên Chúa, vì thế Đức Giêsu không kêu gọi chúng ta đạt tới kiểu hoàn thiện đó. Nhưng, chúng ta phải tập noi theo tình yêu của Thiên Chúa và loại bỏ những đường lối và những chuẩn mực về yêu thương theo kiểu thế gian. Thiên Chúa yêu cả người tốt lẫn kẻ xấu – chúng ta cũng thế. Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi – chúng ta cũng tha thứ cho anh chị em mình. Thiên Chúa đáng tin cậy – chúng ta cũng vậy.
Cùng với giáo huấn này, chúng ta có thể thấy rằng Đức Giêsu không quan tâm đến các môn đệ thiếu nhiệt tình hay nửa vời. Chúng ta cũng không phải là những Kitô hữu chỉ tốt ở nhà và khi tụ họp ở nhà thờ. Không có ranh giới cho tình yêu của người Kitô hữu, vì Thiên Chúa không bị giới hạn hay vạch ra những ranh giới cho tình yêu của Thiên Chúa – một số người bị ở trong phạm vi của tình yêu, còn số khác thì không. Chúng ta phải nhìn vào và bắt chước cách thức yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải cách thức yêu của người ta.
Tôi có một vị thầy dạy thần học luân lý, người chia sẻ với chúng tôi về Bài Giảng Trên Núi. Khi chúng tôi bắt đầu cảm nhận được điều Đức Giêsu đang đòi hỏi chúng tôi thì vị thầy đã thấy nơi chúng tôi sự bối rối và chán nản. Cứ như thể là chúng tôi đang nói: “Ai có thể sống như vậy?”. Ông nói với chúng tôi rằng Bài Giảng sẽ đưa chúng tôi đến một lời nguyện rất giản dị và ông đã minh chứng. Ông giơ tay lên không trung, ngước mắt lên với giọng nói làm cho lớp học bên cạnh hoảng hốt, rồi la lớn: “Hãy cứu tôi!”. Thế rồi ông nói: “Đó là một lời kinh tuyệt vời để cầu nguyện khi bạn đọc Bài Giảng Trên Núi”.
Trở lại với sách Lê-vi, Thiên Chúa dạy Mô-sê nói với dân: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”. Có lẽ trong lúc nghe những lời này, người ta muốn làm theo những gì mà vị thầy dạy thần học của tôi dạy chúng tôi về lời cầu nguyện: giơ tay lên cao, ngước mắt lên trời và kêu “Hãy cứu tôi!”.
Nhưng sự thánh thiện của Israel không đến từ bất cứ đức hạnh có tính cố hữu và trịch thượng nào, hay chỉ là nỗ lực trong vai trò của con người. Thay vào đó, sự thánh thiện của Israel được hình thành là bởi Thiên Chúa đã thiết lập mối tương quan với họ. Thiên Chúa đã chọn họ, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ và thiết lập với họ một giao ước. Trong cảnh nô lệ, dân có thể kêu cầu với Thiên Chúa “Xin hãy cứu tôi!”; họ không thể tự cứu lấy mình. Họ cũng không thể tự mình tuân giữ một bộ luật nghiêm khắc về thái độ ứng xử như thế. Nhưng họ không đơn độc – Thiên Chúa đã chọn họ. Họ thuộc về Thiên Chúa và vì thế, nếu họ chịu mở lòng ra thì sự thánh thiện của Thiên Chúa sẽ thanh tẩy họ.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước vào một giao ước mới với chúng ta. Khi nghe những mệnh lệnh của Bài Giảng Trên Núi, chúng ta có thể giơ tay lên trong sự bối rối và chán nản, hay chúng ta có thể hướng về Đức Giêsu và cất lên lời cầu nguyện – “Xin hãy cứu con!”. Đức tin của chúng ta đảm bảo rằng trong mối tương quan với Ngài, chúng ta sẽ có thể làm như Ngài đã làm và những gì lúc này Người hướng dẫn chúng ta: hãy quảng đại với những ai khốn khó; đừng trả thù khi bị xúc phạm; cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta và thậm chí, với ân sủng của Thiên Chúa, hãy tha thứ cho kẻ thù của chúng ta.
Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp
Lêvi 19: 1-2, 17-18; 1 Côrintô 3: 16-23; Matthêu: 5: 38-48
Khi mùa Chay đến sớm trong chu kỳ phụng vụ thông thường thì chúng ta không có Chúa Nhật VII cùng với những bài đọc hôm nay. Những Chúa Nhật mùa Chay trở thành tâm điểm và thay thế một số Chúa Nhật trong mùa Thường Niên. Nhưng mùa Chay năm nay đến trễ, vì thế chúng ta có cơ hội nghe những bài đọc Kinh Thánh mà lẽ ra bị bỏ qua nếu mùa Chay đến sớm hơn. Tôi nghĩ rằng quý vị sẽ thở phào nhẹ nhõm nếu mùa Chay đến sớm hơn và Tin Mừng hôm nay không nằm trong chu kỳ phụng vụ. Quả là khó khăn cho chúng ta!
Không chỉ riêng quý vị cảm thấy lúng túng đối với đoạn chọn từ Bài Giảng Trên Núi hôm nay. Chẳng phải là mọi Kitô hữu đều cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói: “Đừng chống cự người ác”, “giơ cả má bên trái”, “đưa cả áo bên ngoài”, “đi thêm một dặm”, “yêu thương kẻ thù”…hay sao? Chúng ta thực sự muốn giơ tay phản đối khi Đức Giêsu kết luận: “Hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Tôi có thể nghe một số người nói: “Thôi nào ông Giêsu, thực tế chút đi!”.
Thoạt tiên khi nghe, chúng ta có thể hiểu vì sao bài Phúc Âm hôm nay, thực ra là trọn vẹn Bài Giảng Trên Núi, làm cho Kitô giáo giống như một lối sống không thực tế và thực tiễn trên thế gian này. Hôm nay, thánh Phaolô diễn tả điều ấy như sau: “Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa…”. Chúng ta nói thêm rằng: “Và sự khôn ngoan của Thiên Chúa là sự điên rồ trước mắt thế gian”.
Vì vậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, phản ứng ban đầu của thế gian đối với Bài Giảng là xem lời dạy của Đức Giêsu hoàn toàn vô lý: phi thực tế trong “thế giới hiện thực”. Nhưng “thế giới hiện thực” chỉ là tình trạng hỗn độn và sự khôn ngoan của thế gian đã gây ra tình trạng hỗn độn ấy. Vì thế, trước khi con người vội vã ngoảnh mặt đi trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa được mạc khải trong Bài Giảng, thì có lẽ họ muốn dừng lại và xét xem đâu là sự khôn ngoan đích thực. Các bài đọc Kinh Thánh cho thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi. Trong đức tin, những ai đã từng cảm nghiệm, từng nhận ra và hiện nay hoàn toàn ở lại trong tình yêu ấy thì đều là những người có thể đáp trả như Thiên Chúa đã làm – yêu vô điều kiện. Đức Giêsu đang nói về một tình yêu đặc biệt – tình yêu chia sẻ. Đó là loại tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể trao tặng người khác một tình yêu như thế khi chúng ta thực sự biết về tình yêu đó, vì chính chúng ta đã cảm nghiệm nó từ chính Thiên Chúa.
Là những tín hữu, chúng ta cần hướng lòng mình để lắng nghe và tin tưởng vào những điều được loan báo hôm nay. Thật dễ hiểu rằng, cả trong bài đọc của Lêvi và Mát-thêu đều dạy chúng ta phải yêu thương những người thân cận. Nhưng Đức Giêsu xóa bỏ ranh giới giữa người thân cận và người không thân cận. Không có giới hạn nơi những người chúng ta yêu. Do đó, Ngài cho chúng ta biết rằng tình yêu của chúng ta không được giới hạn ở những người tốt (“đừng chống cự người ác”), không giới hạn ở gia đình và bạn bè (“yêu thương kẻ thù”) hay chỉ những người yêu thương chúng ta (“…nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?”). Điểm cốt yếu là, theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải yêu thương tha nhân như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Chúng ta cần trợ giúp để luôn lắng nghe và thấu hiểu sứ điệp Tin Mừng: Đức Giêsu là bằng chứng tích cực về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chỉ những ai đón nhận và hoàn toàn ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa thì mới có thể nghĩ đến việc đáp trả tình yêu đó bằng cách thi hành điều Thiên Chúa dạy – yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù cách vô điều kiện.
Chúng ta hãy xem bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Trong sách Xuất Hành (21,24) có “luật báo oán” – dạy rằng con người được yêu cầu xử phạt và đền bù tùy theo thiệt hại. Luật này thường được cộng đồng sử dụng để phân xử và đưa ra mức hình phạt. Hình phạt không được vượt quá tội. Nếu hình phạt vượt quá tội thì sẽ có nguy cơ càng gây ra thêm thù hận và ý muốn báo thù vô cùng tận. Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta không được có bất cứ kiểu báo thù nào. Nghĩa là chúng ta không thể để cho người khác định đoạt chúng ta sẽ đáp trả bằng cách nào. Có lẽ, Đức Giêsu đang nhấn mạnhvấn đề, nhưng Ngài đã rất cố gắng khi dạy chúng ta biết giơ cả má bên phải ra nữa.
Áo choàng là chiếc áo dài người ta mặc cả ngày. Nó cũng giữ ấm cho con người vào ban đêm. Một lần nữa Đức Giêsu lại nhấn mạnhvấn đề khi Ngài nói về việc đưa cả áo ngoài của mình cho ai muốn lấy áo trong. Không có áo ngoài thì con người sẽ trần truồng! Có lẽ Ngài muốn nói rằng người Kitô hữu không chỉ quan tâm đến quyền lợi của mình, nhưng còn cho đi nhiều hơn cả những gì luật công bình đòi buộc.
Lính La-mã có thể bắt những người thường dân phải phục vụ họ. Như vậy, họ có thể yêu cầu một người vác vật nặng đi một dặm – nhưng không được hơn. Đức Giêsu nói rằng: khi anh em bị yêu cầu làm như thế thì hãy đi thêm một dặm nữa. Nếu người Kitô hữu làm những điều quá phi thường, như chúng ta đang nói là “đi thêm một dặm”, thì điều đó sẽ có tác dụng thế nào trên người lính La-mã, là người sẽ nghĩ rằng mình có trách nhiệm với hoàn cảnh và con người?
Nó sẽ có tác dụng ra sao trên con người hiện đại, là những người nghĩ rằng họ có trách nhiệm với những hoạt động hay cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta tự quyết định đi thêm một dặm nữa?
Liên quan đến những người hành khất hay những ai đến với chúng ta trong lúc khó khăn: Luật tôn giáo đòi hỏi người Do Thái cho vay mà không đặt lãi. Điều này giúp ích cho những ai gặp khó khăn. Thay vào đó, Đức Giêsu không bảo các môn đệ của mình “cho vay”, nhưng là “cho”. Dường như Ngài đang mời gọi các môn đệ của mình tập thói quen quảng đại. Nếu chúng ta làm như thế thì hành động của chúng ta sẽ nổi bật lên, biểu hiện cho thứ khôn ngoan thách thức sự khôn ngoan của thế gian.
Chúng ta đã biết nhiều người vượt qua những ranh giới của lòng quảng đại thường ngày. Người già với số tiền trợ cấp mua đồ dùng cho các cha mẹ đơn thân; người thợ ở lại sau những giờ làm việc để giúp huấn luyện những thợ mới mà không cần thêm lương; những luật sư và giáo viên hy sinh thời gian của mình để giúp những người thất nghiệp và ít học…
Hôm nay chúng ta nghe từ sách Lê-vi lời yêu cầu: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Nhưng sách Lê-vi không nói ngươi phải “ghét kẻ thù”. Có lẽ đó là điều được thêm vào bởi lòng nhiệt thành quá mức và cực kỳ yêu nước vào thời Đức Giêsu. Tuy nhiên, “người thân cận” lại ám chỉ đến người trong cộng đồng. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta sản sinh ra thứ tình yêu dựa trên cảm xúc để dành cho người chúng ta không thích hay thậm chí là ghét. Thay vào đó, Ngài mời gọi chúng ta làm điều thiện cho con người – cho dù người đó là kẻ thù. Ngài nói với chúng ta: ngay cả người ác cũng đối xử tốt với đồng bạn. Vậy chúng ta cũng phải tiến xa hơn trong việc đối xử với tha nhân.
Sau cùng, chúng ta phải trở nên “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Chúng ta không thể thánh thiện như Thiên Chúa, vì thế Đức Giêsu không kêu gọi chúng ta đạt tới kiểu hoàn thiện đó. Nhưng, chúng ta phải tập noi theo tình yêu của Thiên Chúa và loại bỏ những đường lối và những chuẩn mực về yêu thương theo kiểu thế gian. Thiên Chúa yêu cả người tốt lẫn kẻ xấu – chúng ta cũng thế. Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi – chúng ta cũng tha thứ cho anh chị em mình. Thiên Chúa đáng tin cậy – chúng ta cũng vậy.
Cùng với giáo huấn này, chúng ta có thể thấy rằng Đức Giêsu không quan tâm đến các môn đệ thiếu nhiệt tình hay nửa vời. Chúng ta cũng không phải là những Kitô hữu chỉ tốt ở nhà và khi tụ họp ở nhà thờ. Không có ranh giới cho tình yêu của người Kitô hữu, vì Thiên Chúa không bị giới hạn hay vạch ra những ranh giới cho tình yêu của Thiên Chúa – một số người bị ở trong phạm vi của tình yêu, còn số khác thì không. Chúng ta phải nhìn vào và bắt chước cách thức yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải cách thức yêu của người ta.
Tôi có một vị thầy dạy thần học luân lý, người chia sẻ với chúng tôi về Bài Giảng Trên Núi. Khi chúng tôi bắt đầu cảm nhận được điều Đức Giêsu đang đòi hỏi chúng tôi thì vị thầy đã thấy nơi chúng tôi sự bối rối và chán nản. Cứ như thể là chúng tôi đang nói: “Ai có thể sống như vậy?”. Ông nói với chúng tôi rằng Bài Giảng sẽ đưa chúng tôi đến một lời nguyện rất giản dị và ông đã minh chứng. Ông giơ tay lên không trung, ngước mắt lên với giọng nói làm cho lớp học bên cạnh hoảng hốt, rồi la lớn: “Hãy cứu tôi!”. Thế rồi ông nói: “Đó là một lời kinh tuyệt vời để cầu nguyện khi bạn đọc Bài Giảng Trên Núi”.
Trở lại với sách Lê-vi, Thiên Chúa dạy Mô-sê nói với dân: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”. Có lẽ trong lúc nghe những lời này, người ta muốn làm theo những gì mà vị thầy dạy thần học của tôi dạy chúng tôi về lời cầu nguyện: giơ tay lên cao, ngước mắt lên trời và kêu “Hãy cứu tôi!”.
Nhưng sự thánh thiện của Israel không đến từ bất cứ đức hạnh có tính cố hữu và trịch thượng nào, hay chỉ là nỗ lực trong vai trò của con người. Thay vào đó, sự thánh thiện của Israel được hình thành là bởi Thiên Chúa đã thiết lập mối tương quan với họ. Thiên Chúa đã chọn họ, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ và thiết lập với họ một giao ước. Trong cảnh nô lệ, dân có thể kêu cầu với Thiên Chúa “Xin hãy cứu tôi!”; họ không thể tự cứu lấy mình. Họ cũng không thể tự mình tuân giữ một bộ luật nghiêm khắc về thái độ ứng xử như thế. Nhưng họ không đơn độc – Thiên Chúa đã chọn họ. Họ thuộc về Thiên Chúa và vì thế, nếu họ chịu mở lòng ra thì sự thánh thiện của Thiên Chúa sẽ thanh tẩy họ.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước vào một giao ước mới với chúng ta. Khi nghe những mệnh lệnh của Bài Giảng Trên Núi, chúng ta có thể giơ tay lên trong sự bối rối và chán nản, hay chúng ta có thể hướng về Đức Giêsu và cất lên lời cầu nguyện – “Xin hãy cứu con!”. Đức tin của chúng ta đảm bảo rằng trong mối tương quan với Ngài, chúng ta sẽ có thể làm như Ngài đã làm và những gì lúc này Người hướng dẫn chúng ta: hãy quảng đại với những ai khốn khó; đừng trả thù khi bị xúc phạm; cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta và thậm chí, với ân sủng của Thiên Chúa, hãy tha thứ cho kẻ thù của chúng ta.
Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp
Luật yêu thương
Mic Cao Minh Viện
09:25 17/02/2011
Chúa Nhật 7 Thường Niên A)
Ngày xưa có vị Vua Yêu
Từ trời giáng thế dạy mười điều răn
Tựu trung xây đắp lòng nhân
Yêu thương tha thứ bao dung hiếu hòa
Tương sinh trong cõi người ta
Ân ân oán oán mới là phân minh
Vua Yêu dạy mỗi chử tình
Tình yêu tha thứ tình sinh ra tình
Yêu nhau quên bản thân mình
Yêu nhau chấp nhận đóng đinh cuộc đời
Yêu nhau không chỉ bằng lời
Yêu nhau dâng hiến cuộc đời cho nhau
Sự đời lẫn lộn vàng thau
Người đời tốt xấu cũng âu là người!
Là con chung một Cha Trời
Là đền thờ Chúa giữa đời nhiễu nhương
Tình yêu sáng tựa vầng dương
Soi trên kẽ tôt, sáng phường xấu xa
Tình yêu quy hướng Vua Cha
Vua Yêu dẫn lối an hòa thiện chân
À ơi ! qua lại mẹ răn
Tình tang ! nhịp hát trong ngần bên nôi
Yêu thương: Nhịp sống từ trời
Vua Yêu xây dựng bằng đời hiến thân.
Tình yêu cứu độ muôn dân.
Ngày xưa có vị Vua Yêu
Từ trời giáng thế dạy mười điều răn
Tựu trung xây đắp lòng nhân
Yêu thương tha thứ bao dung hiếu hòa
Tương sinh trong cõi người ta
Ân ân oán oán mới là phân minh
Vua Yêu dạy mỗi chử tình
Tình yêu tha thứ tình sinh ra tình
Yêu nhau quên bản thân mình
Yêu nhau chấp nhận đóng đinh cuộc đời
Yêu nhau không chỉ bằng lời
Yêu nhau dâng hiến cuộc đời cho nhau
Sự đời lẫn lộn vàng thau
Người đời tốt xấu cũng âu là người!
Là con chung một Cha Trời
Là đền thờ Chúa giữa đời nhiễu nhương
Tình yêu sáng tựa vầng dương
Soi trên kẽ tôt, sáng phường xấu xa
Tình yêu quy hướng Vua Cha
Vua Yêu dẫn lối an hòa thiện chân
À ơi ! qua lại mẹ răn
Tình tang ! nhịp hát trong ngần bên nôi
Yêu thương: Nhịp sống từ trời
Vua Yêu xây dựng bằng đời hiến thân.
Tình yêu cứu độ muôn dân.
Chúa Giêsu dậy: Chia sẻ tình yêu với tất cả mọi người
Jos. Tú Nac, NMS
09:26 17/02/2011
Chúa Nhật VII Mùa Thường Niên – Năm A (Leviticus 19: 1-2, 17-18; Psalm 103; 1 Corinthians 3: 16-23; Matthew 5: 38-48)
Thánh thiện có nghĩa là gì? Người ta thường nhắc đến từ này một cách vô tình nhưng khi bị thôi thúc để định nghĩa thuật ngữ này người ta lâm vào một tình trạng hụt hẫng. Trong Cựu Ước thuật ngữ này được mang ý nghĩa một cách riêng biệt – một điều gì đó đặc biệt và thuần khiết.
Sách Leviticus – chắc chắn không phải là một cuốn sách được mọi người ưa thích thuộc Kinh Thánh – có chứa đựng những lời yêu cầu thử thách và rất thú vị. Đoạn trích kể cho chúng ta rằng sự thánh thiện là một trong những cách mô tả được xác định bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa là thánh thiện và Thiên Chúa phán truyền dân Israel phải trở nên như vậy. Sự thánh thiện này được thể hiện bằng hành vi và thái độ mà khác với đặc trưng thông thường con người và văn bản này trình bày chi tiết sinh động. Sự thù ghét phải bị loại trừ. Vì sinh oán thù phải chuốc lấy oán thù. Điều đó duy nhất dẫn đến một thay đổi rất lớn của hành vi con người bình thường và nếu được thực hành sẽ cho một kết quả trong một thế giới vô cùng khác biệt. Nhưng sau đó dẫn đến một điều không kém phần quan trọng: bạn sẽ yêu thương những người lân cận của mình như chính bản thân. Điều đó nghe quen thuộc vì Chúa Giê-su tường thuật đoạn trích này trong những Tin Mừng như một phần của điều răn cao trọng nhất.
Ki-tô giáo không phát minh những nguyên tắc của tình yêu nhưng thông qua một truyền thống cổ đại. Tình yêu được hiểu không như tình cảm trữ tình ủy mị, đa sầu, đa cảm hoặc sở thích cá nhân mà là mối quan tâm thiết thực cho hạnh phúc và sung mãn của tha nhân và từ chối những mong muốn hoặc những cuộc thăm viếng tốn kém về chúng. Những nguyên tắc căn bản tối thiểu là nền tảng của bất kỳ xã hội loài người nào mong muốn được công bằng, nhân ái và hòa bình. Người ta nghĩ chúng không tưởng, không thực tế và không thể trong một thế giới phức tạp và hiện đại. Miễn là chúng ta tiếp tục nghĩ rằng chúng đang và sẽ thực sự bên kia tầm với của chúng ta. Khi chúng ta đưa nó vào thực hành, thậm chí trong một phương cách hoàn hảo, xã hội và con người được chuyển đổi.
Thánh phao-lô có khả năng hiểu biết một số sự việc tiềm ẩn trong việc đạt được mục đích của Leviticus. Duy nhất là từ bỏ sự cạnh tranh và cái tôi, cả hai trong chúng đều khích động mạnh đến sự oán giận, hận thù và ích kỷ. Thánh Phao-lô tạo cho nó minh nhiên rằng. Khi tất cả được nói và làm, con người rất hãn hữu phô trương đặc biệt là trước Thiên Chúa. Duy nhất nhìn vào thế giới chúng ta đã tạo ra nên đặt những kỳ vọng và ảo vọng loài người để nghỉ ngơi. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa và giá trị của Thiên Chúa cực kỳ khác so với chúng ta và điều này hiển nhiên tạo ra một cách khó khăn trong đời sống của chúng ta, những lời giáo huấn và cái chết của Chúa Giê-su. Còn có một lý do khác và sâu xa hơn cho việc đặt sang một bên tất cả những hận thù, oán hờn và ích kỷ. Cộng đồng những tín hữu là đền thờ của Thiên Chúa và là Thần Khí của Thiên Chúa ngự trị ở đó. Nó phải được gìn giữ tinh tuyền và thánh thiện – không bị hoen ố bởi sự ô nhiễm của tính phủ định loài người. Sự tàn nhẫn và bất công đối với tha nhân là dấu hiệu của sự thiếu tôn trọng và coi thường đối với những nạn nhân và cũng còn đối với Thiên Chúa nữa.
Gandhi đã đưa ra nhận định sâu sắc rằng khi chúng ta sống bằng nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền răng” thì toàn thế giới kết cục đui mù và móm mém và điều đó như được sinh ra trong thời đại của chính chúng ta. Điều này đã được trù tính một cách sáng tạo như một hạn chế bạo lực – người ta có thể đòi hỏi không gì hơn một tổng giá trị tương đương – và được phản ảnh trong nhiều bộ luật Trung Đông cổ đại. Chúa Giê-su nhấn mạnh rằng những môn đệ của Người phải từ bỏ bạo lực và để nhận biết trước những cốt lõi của vấn đề. Người một lần nữa quay về với giới răn yêu thương từ Leviticus. Điều răn yêu thương ấy không khước từ mà được mở rộng và vươn cao. Tình yêu không chỉ dành cho mối qun hệ ruột thịt, vợ chồng hoặc những thành viên gần gũi trong cộng đồng mà là cho tất cả, gần-xa. Theo tình yêu thánh thiện điển hình thì không phải là để giới hạn cho những ai xứng đáng, thân yêu với chúng ta hoặc biết ơn chúng ta. Tình yêu là cho những ngừời khiếm nhã, đồi bại, nghi ngờ đạo đức và chỉ là người tầm thường khó khăn hay lập dị. Ai sẽ là người giải thích ý nghĩa đó trong thời đại của chính chúng ta? Chỉ cần điền vào những chỗ trống với những ai từ trải nghiệm cá nhân của chính chúng ta hoặc những trang nhật báo. Chúng ta sống là để không có kẻ thù vì đối với Thiên chúa không ai là kẻ thù và giới răn yêu thương mở rộng ra cho họ.
Chúa Giê-su đã kết luận mọi điều với lời dạy là hoàn thiện như Thiên Chúa. Điều này nghe như một nhiệm vụ không thể. Nhưng ở đây văn tự Hy Lạp nghĩa là toàn bộ, hoàn chỉnh và không chia cắt. Nói một cách khác, chúng ta được mời gọi để biểu thị sự hoàn hảo bằng cách mà chúng ta yêu mến tha nhân. Thật khó để đoan chắc, nhưng không phải không thể - hằng ngày mang đến vô số những cơ hội để bắt đầu học những bài học về tình yêu. Một thế giới bị tổn thương đang chờ đợi.
(Nguồn: Regis College – the School of Theology)
Thánh thiện có nghĩa là gì? Người ta thường nhắc đến từ này một cách vô tình nhưng khi bị thôi thúc để định nghĩa thuật ngữ này người ta lâm vào một tình trạng hụt hẫng. Trong Cựu Ước thuật ngữ này được mang ý nghĩa một cách riêng biệt – một điều gì đó đặc biệt và thuần khiết.
Sách Leviticus – chắc chắn không phải là một cuốn sách được mọi người ưa thích thuộc Kinh Thánh – có chứa đựng những lời yêu cầu thử thách và rất thú vị. Đoạn trích kể cho chúng ta rằng sự thánh thiện là một trong những cách mô tả được xác định bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa là thánh thiện và Thiên Chúa phán truyền dân Israel phải trở nên như vậy. Sự thánh thiện này được thể hiện bằng hành vi và thái độ mà khác với đặc trưng thông thường con người và văn bản này trình bày chi tiết sinh động. Sự thù ghét phải bị loại trừ. Vì sinh oán thù phải chuốc lấy oán thù. Điều đó duy nhất dẫn đến một thay đổi rất lớn của hành vi con người bình thường và nếu được thực hành sẽ cho một kết quả trong một thế giới vô cùng khác biệt. Nhưng sau đó dẫn đến một điều không kém phần quan trọng: bạn sẽ yêu thương những người lân cận của mình như chính bản thân. Điều đó nghe quen thuộc vì Chúa Giê-su tường thuật đoạn trích này trong những Tin Mừng như một phần của điều răn cao trọng nhất.
Ki-tô giáo không phát minh những nguyên tắc của tình yêu nhưng thông qua một truyền thống cổ đại. Tình yêu được hiểu không như tình cảm trữ tình ủy mị, đa sầu, đa cảm hoặc sở thích cá nhân mà là mối quan tâm thiết thực cho hạnh phúc và sung mãn của tha nhân và từ chối những mong muốn hoặc những cuộc thăm viếng tốn kém về chúng. Những nguyên tắc căn bản tối thiểu là nền tảng của bất kỳ xã hội loài người nào mong muốn được công bằng, nhân ái và hòa bình. Người ta nghĩ chúng không tưởng, không thực tế và không thể trong một thế giới phức tạp và hiện đại. Miễn là chúng ta tiếp tục nghĩ rằng chúng đang và sẽ thực sự bên kia tầm với của chúng ta. Khi chúng ta đưa nó vào thực hành, thậm chí trong một phương cách hoàn hảo, xã hội và con người được chuyển đổi.
Thánh phao-lô có khả năng hiểu biết một số sự việc tiềm ẩn trong việc đạt được mục đích của Leviticus. Duy nhất là từ bỏ sự cạnh tranh và cái tôi, cả hai trong chúng đều khích động mạnh đến sự oán giận, hận thù và ích kỷ. Thánh Phao-lô tạo cho nó minh nhiên rằng. Khi tất cả được nói và làm, con người rất hãn hữu phô trương đặc biệt là trước Thiên Chúa. Duy nhất nhìn vào thế giới chúng ta đã tạo ra nên đặt những kỳ vọng và ảo vọng loài người để nghỉ ngơi. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa và giá trị của Thiên Chúa cực kỳ khác so với chúng ta và điều này hiển nhiên tạo ra một cách khó khăn trong đời sống của chúng ta, những lời giáo huấn và cái chết của Chúa Giê-su. Còn có một lý do khác và sâu xa hơn cho việc đặt sang một bên tất cả những hận thù, oán hờn và ích kỷ. Cộng đồng những tín hữu là đền thờ của Thiên Chúa và là Thần Khí của Thiên Chúa ngự trị ở đó. Nó phải được gìn giữ tinh tuyền và thánh thiện – không bị hoen ố bởi sự ô nhiễm của tính phủ định loài người. Sự tàn nhẫn và bất công đối với tha nhân là dấu hiệu của sự thiếu tôn trọng và coi thường đối với những nạn nhân và cũng còn đối với Thiên Chúa nữa.
Gandhi đã đưa ra nhận định sâu sắc rằng khi chúng ta sống bằng nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền răng” thì toàn thế giới kết cục đui mù và móm mém và điều đó như được sinh ra trong thời đại của chính chúng ta. Điều này đã được trù tính một cách sáng tạo như một hạn chế bạo lực – người ta có thể đòi hỏi không gì hơn một tổng giá trị tương đương – và được phản ảnh trong nhiều bộ luật Trung Đông cổ đại. Chúa Giê-su nhấn mạnh rằng những môn đệ của Người phải từ bỏ bạo lực và để nhận biết trước những cốt lõi của vấn đề. Người một lần nữa quay về với giới răn yêu thương từ Leviticus. Điều răn yêu thương ấy không khước từ mà được mở rộng và vươn cao. Tình yêu không chỉ dành cho mối qun hệ ruột thịt, vợ chồng hoặc những thành viên gần gũi trong cộng đồng mà là cho tất cả, gần-xa. Theo tình yêu thánh thiện điển hình thì không phải là để giới hạn cho những ai xứng đáng, thân yêu với chúng ta hoặc biết ơn chúng ta. Tình yêu là cho những ngừời khiếm nhã, đồi bại, nghi ngờ đạo đức và chỉ là người tầm thường khó khăn hay lập dị. Ai sẽ là người giải thích ý nghĩa đó trong thời đại của chính chúng ta? Chỉ cần điền vào những chỗ trống với những ai từ trải nghiệm cá nhân của chính chúng ta hoặc những trang nhật báo. Chúng ta sống là để không có kẻ thù vì đối với Thiên chúa không ai là kẻ thù và giới răn yêu thương mở rộng ra cho họ.
Chúa Giê-su đã kết luận mọi điều với lời dạy là hoàn thiện như Thiên Chúa. Điều này nghe như một nhiệm vụ không thể. Nhưng ở đây văn tự Hy Lạp nghĩa là toàn bộ, hoàn chỉnh và không chia cắt. Nói một cách khác, chúng ta được mời gọi để biểu thị sự hoàn hảo bằng cách mà chúng ta yêu mến tha nhân. Thật khó để đoan chắc, nhưng không phải không thể - hằng ngày mang đến vô số những cơ hội để bắt đầu học những bài học về tình yêu. Một thế giới bị tổn thương đang chờ đợi.
(Nguồn: Regis College – the School of Theology)
Chúa là ai con không quen?
Tuyết Mai
12:21 17/02/2011
Chúa Nhật Thứ 7 Mùa Thường Niên, Năm A
“Các con cũng đã nghe dạy rằng: 'Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời”. (Mt 5, 38-48).
Quả thật con người sống ở trên đời phức tạp lắm! Từ giầu có cho đến nghèo khổ; từ trí thức cho đến dốt nát; từ tàng tàng sống ở ngoài hay khùng khùng sống ở trong tù; tất cả đều có thể trở thành phiến loạn nếu sống không có Tình Yêu của Chúa. Nhờ có Tình Yêu của Chúa, là Kitô hữu sống cuộc đời đạo hạnh và mẫu mực, là tất cả mọi phẩm trật trong Hội Thánh biết trách nhiệm và bổn phận của mình, sẽ là Ánh Sáng là đuốc soi cho tất cả mọi người chung quanh. Ngay cả những người sống chung quanh chúng ta họ chẳng biết Chúa chúng ta là ai, nhưng vì cung cách sống và giữ Luật Chúa của mình, khi gặp biến loạn (bất cứ mọi biến loạn gì) hầu như họ sẽ cùng với mình để giúp một bàn tay làm những việc có hữu ích chung cho xã hội.
Phúc Âm tuần này Chúa dậy chúng ta những điều thật khó làm, nhưng nếu chúng ta hoàn toàn phó thác vào Chúa, để Chúa dìu dắt cuộc đời của chúng ta, thì chẳng có gì là khó cả!. Bởi nếu chúng ta sống một cách kiêu ngạo là dùng sức và tài năng riêng của mình, mà chẳng cần đến sự trợ giúp của Chúa, thì lẽ đương nhiên chúng ta sẽ thất bại; vì sức người có giới hạn; vì tiền của cũng chỉ có giới hạn mà thôi! Ngay cả sức khỏe của chúng ta cũng không thể kéo dài cho được. Bởi thế những điều Chúa dậy chúng ta thật là hay. Thấy khó mà chẳng khó. Thấy dễ mà chẳng dễ đâu thưa anh chị em!. Tất cả mọi sự chỉ trở nên dễ dàng là chúng ta phải kết hiệp với Chúa, thì tất cả mọi điều sẽ trở thành dễ dàng và mọi quyết định sẽ trở nên tốt đẹp, thánh thiện, được nhiều người đồng ý với những ý kiến của chúng ta. Điều này chúng ta đã được đọc, nghe, và thấy nhiều, qua tất cả những quá khứ mà các Thánh đã làm, các ngài đã làm được, và đã thành công trong những chiến trận. Các Ngài đã dùng cờ xí của Đức Mẹ. Các Ngài đã cầu nguyện thật nhiều khi ra chiến trường, mặt đấu mặt, tuy dù lính của phe ta rất ít và rất yếu. Nhất là câu chuyện của một thành trì nào đó rất kiên cố, rất khó có thể thắng được, nhưng nhờ vào lòng tin tưởng thật đậm sâu của những người lính, họ từng hàng một đi vòng vòng quanh rất thành khẩn, miệng râm ran với lời ca tiếng hát câu kinh, mà cả thành trì ấy với sức mạnh của Thiên Chúa, đã tự nhiên sụp đổ ngay trước mắt mà chẳng gây thiệt mạng cho một người lính nào.
Chúa dậy chúng ta là phải kiên nhẫn, nhịn nhục, khiêm nhường, thông cảm, nhẫn nại, khiêm tốn, giải hòa, đến tha thứ, xóa bỏ hận thù, và sau cùng là yêu thương kẻ thù của chúng ta. Như chính Chúa Giêsu, tông đồ của Ngài, cùng tất cả mọi tín hữu, đã bị kẻ thù hành hạ và giết chết, nhưng Chúa dậy chúng ta là hãy tha thứ cho họ vì chúng không biết việc chúng làm?. Chúng ta thử hỏi nếu sức người thì ai mà chịu được những tra tấn dã man của con người chế ra?. Và cái chết thật từ từ để làm chúng ta lung lạc đức tin vào Chúa? Nếu Chúa không ban thêm cho chúng ta sức để chịu đựng và lòng tin thật xác tín của mọi người là chỉ trong giây lát, các Thánh sẽ được về Trời diện kiến Thánh Nhan Chúa!?. Chúa dậy chúng ta chớ phải lo lắng để nói gì, vì Chúa sẽ ở cùng chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng.
Vậy có phải cuộc đời của chúng ta cần phải có Chúa luôn hiện diện và hiện hữu, vì Chúa là Áo Giáp và là sự Bảo Toàn Linh Hồn đời đời của chúng ta?. Vâng, chính thật là vậy! Vì chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa ở cùng, chúng ta mới có thể làm tất cả mọi sự, theo Thánh Ý Ngài. Không điều gì gọi là dễ nếu chúng ta không tập. Chúng ta ngại đau đớn ư? Chúng ta ngại nhục nhã ư? Chúng ta ngại bị chê cười ư? Xin cho được hỏi, ai bằng Thiên Chúa? Ngài là Vua của Trời Đất mà Ngài lãnh nhận mọi ê chề nhục nhã và cho đến chết. Chết trên Thập Giá mà chỉ có miếng vải quấn người? Chúng ta là người trần mắt thịt mà còn cảm thấy cái chết của Chúa thật nhục nhã, thật đê hèn, và thật nhát đảm. Đó có phải là lý do mà cho đến ngày hôm nay vẫn ít người chịu theo Chúa?. Vì Thiên Chúa của họ phải thật uy hùng, lừng lẫy, mạnh bạo, như một bạo Chúa thì mới xứng đáng cho họ tôn Chúa lên làm vua của họ. Còn Chúa của chúng ta ư? Thật bất xứng cho họ chẳng những chẳng xứng đáng cho họ tôn lên làm vua thì hà huống chi họ tôn làm Chúa của họ.
Thưa việc Chúa dậy chúng ta bắt chước theo gương của Ngài là những sự điên rồ đối với con người trần gian thì không có thể, nhưng đối với Thiên Chúa sự điên rồ ấy mới giúp chúng ta đến được Quê Trời. Vì cái khôn của con người là những hão huyền, là điều không tưởng. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta còn có rất nhiều người theo hai đạo; đạo Chúa Trời và đạo Tiền Tài Công Danh Sự Nghiệp. Đạo Tiền thì được nhiều người thiết tha hơn, bằng chứng là rất ít ai từ chối làm việc OT (thêm giờ). Càng OT nhiều thì càng nhiều tiền; tiền mà ai lại dám đi chê là người khùng nhất trần gian. Có Tiền nhiều sẽ mua được tất cả mọi thứ trên trần gian, trừ Nước Trời. Nhưng đến với Chúa ư!? Rõ thật khổ vì một tuần lễ Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta đến để Thờ Phượng Chúa ban cho chúng ta một tuần lễ sức khỏe, công ăn việc làm, cái ăn cái mặc dư đầy, và muôn vàn hồng ân những gì chúng ta có cảm nhận được và những gì chúng ta không cảm nhận được như: hơi thở, sức khỏe, gia đình vợ chồng con cái hạnh phúc, an bình, v….. Mà chúng ta lại ì xèo làm biếng muốn ở nhà để ngủ vì cả tuần cầy quá mệt???. Ngay cả tội nghiệp Chúa biết bao vì cái xác chúng ta mang đến nhà thờ mà một câu kinh, một cái làm dấu chúng ta cũng chẳng làm cho xong, và giờ Linh Mục giảng thì chúng ta lại ngủ; ngủ xong rồi thì chúng ta cứ lên đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa.
Quả thật ai từ chối Chúa để có được tất cả mọi sự trên trần gian mà mất linh hồn đời đời thì quả là điên rồ …..???? Vì có sức mạnh và Tình Yêu của Thiên Chúa từng ngày trong cuộc đời là chúng ta mới có tất cả! Cả đời này và cả đời sau. Xin tất cả hãy nên được điên rồ như Chúa của chúng ta. Amen.
“Các con cũng đã nghe dạy rằng: 'Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời”. (Mt 5, 38-48).
Quả thật con người sống ở trên đời phức tạp lắm! Từ giầu có cho đến nghèo khổ; từ trí thức cho đến dốt nát; từ tàng tàng sống ở ngoài hay khùng khùng sống ở trong tù; tất cả đều có thể trở thành phiến loạn nếu sống không có Tình Yêu của Chúa. Nhờ có Tình Yêu của Chúa, là Kitô hữu sống cuộc đời đạo hạnh và mẫu mực, là tất cả mọi phẩm trật trong Hội Thánh biết trách nhiệm và bổn phận của mình, sẽ là Ánh Sáng là đuốc soi cho tất cả mọi người chung quanh. Ngay cả những người sống chung quanh chúng ta họ chẳng biết Chúa chúng ta là ai, nhưng vì cung cách sống và giữ Luật Chúa của mình, khi gặp biến loạn (bất cứ mọi biến loạn gì) hầu như họ sẽ cùng với mình để giúp một bàn tay làm những việc có hữu ích chung cho xã hội.
Phúc Âm tuần này Chúa dậy chúng ta những điều thật khó làm, nhưng nếu chúng ta hoàn toàn phó thác vào Chúa, để Chúa dìu dắt cuộc đời của chúng ta, thì chẳng có gì là khó cả!. Bởi nếu chúng ta sống một cách kiêu ngạo là dùng sức và tài năng riêng của mình, mà chẳng cần đến sự trợ giúp của Chúa, thì lẽ đương nhiên chúng ta sẽ thất bại; vì sức người có giới hạn; vì tiền của cũng chỉ có giới hạn mà thôi! Ngay cả sức khỏe của chúng ta cũng không thể kéo dài cho được. Bởi thế những điều Chúa dậy chúng ta thật là hay. Thấy khó mà chẳng khó. Thấy dễ mà chẳng dễ đâu thưa anh chị em!. Tất cả mọi sự chỉ trở nên dễ dàng là chúng ta phải kết hiệp với Chúa, thì tất cả mọi điều sẽ trở thành dễ dàng và mọi quyết định sẽ trở nên tốt đẹp, thánh thiện, được nhiều người đồng ý với những ý kiến của chúng ta. Điều này chúng ta đã được đọc, nghe, và thấy nhiều, qua tất cả những quá khứ mà các Thánh đã làm, các ngài đã làm được, và đã thành công trong những chiến trận. Các Ngài đã dùng cờ xí của Đức Mẹ. Các Ngài đã cầu nguyện thật nhiều khi ra chiến trường, mặt đấu mặt, tuy dù lính của phe ta rất ít và rất yếu. Nhất là câu chuyện của một thành trì nào đó rất kiên cố, rất khó có thể thắng được, nhưng nhờ vào lòng tin tưởng thật đậm sâu của những người lính, họ từng hàng một đi vòng vòng quanh rất thành khẩn, miệng râm ran với lời ca tiếng hát câu kinh, mà cả thành trì ấy với sức mạnh của Thiên Chúa, đã tự nhiên sụp đổ ngay trước mắt mà chẳng gây thiệt mạng cho một người lính nào.
Chúa dậy chúng ta là phải kiên nhẫn, nhịn nhục, khiêm nhường, thông cảm, nhẫn nại, khiêm tốn, giải hòa, đến tha thứ, xóa bỏ hận thù, và sau cùng là yêu thương kẻ thù của chúng ta. Như chính Chúa Giêsu, tông đồ của Ngài, cùng tất cả mọi tín hữu, đã bị kẻ thù hành hạ và giết chết, nhưng Chúa dậy chúng ta là hãy tha thứ cho họ vì chúng không biết việc chúng làm?. Chúng ta thử hỏi nếu sức người thì ai mà chịu được những tra tấn dã man của con người chế ra?. Và cái chết thật từ từ để làm chúng ta lung lạc đức tin vào Chúa? Nếu Chúa không ban thêm cho chúng ta sức để chịu đựng và lòng tin thật xác tín của mọi người là chỉ trong giây lát, các Thánh sẽ được về Trời diện kiến Thánh Nhan Chúa!?. Chúa dậy chúng ta chớ phải lo lắng để nói gì, vì Chúa sẽ ở cùng chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng.
Vậy có phải cuộc đời của chúng ta cần phải có Chúa luôn hiện diện và hiện hữu, vì Chúa là Áo Giáp và là sự Bảo Toàn Linh Hồn đời đời của chúng ta?. Vâng, chính thật là vậy! Vì chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa ở cùng, chúng ta mới có thể làm tất cả mọi sự, theo Thánh Ý Ngài. Không điều gì gọi là dễ nếu chúng ta không tập. Chúng ta ngại đau đớn ư? Chúng ta ngại nhục nhã ư? Chúng ta ngại bị chê cười ư? Xin cho được hỏi, ai bằng Thiên Chúa? Ngài là Vua của Trời Đất mà Ngài lãnh nhận mọi ê chề nhục nhã và cho đến chết. Chết trên Thập Giá mà chỉ có miếng vải quấn người? Chúng ta là người trần mắt thịt mà còn cảm thấy cái chết của Chúa thật nhục nhã, thật đê hèn, và thật nhát đảm. Đó có phải là lý do mà cho đến ngày hôm nay vẫn ít người chịu theo Chúa?. Vì Thiên Chúa của họ phải thật uy hùng, lừng lẫy, mạnh bạo, như một bạo Chúa thì mới xứng đáng cho họ tôn Chúa lên làm vua của họ. Còn Chúa của chúng ta ư? Thật bất xứng cho họ chẳng những chẳng xứng đáng cho họ tôn lên làm vua thì hà huống chi họ tôn làm Chúa của họ.
Thưa việc Chúa dậy chúng ta bắt chước theo gương của Ngài là những sự điên rồ đối với con người trần gian thì không có thể, nhưng đối với Thiên Chúa sự điên rồ ấy mới giúp chúng ta đến được Quê Trời. Vì cái khôn của con người là những hão huyền, là điều không tưởng. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta còn có rất nhiều người theo hai đạo; đạo Chúa Trời và đạo Tiền Tài Công Danh Sự Nghiệp. Đạo Tiền thì được nhiều người thiết tha hơn, bằng chứng là rất ít ai từ chối làm việc OT (thêm giờ). Càng OT nhiều thì càng nhiều tiền; tiền mà ai lại dám đi chê là người khùng nhất trần gian. Có Tiền nhiều sẽ mua được tất cả mọi thứ trên trần gian, trừ Nước Trời. Nhưng đến với Chúa ư!? Rõ thật khổ vì một tuần lễ Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta đến để Thờ Phượng Chúa ban cho chúng ta một tuần lễ sức khỏe, công ăn việc làm, cái ăn cái mặc dư đầy, và muôn vàn hồng ân những gì chúng ta có cảm nhận được và những gì chúng ta không cảm nhận được như: hơi thở, sức khỏe, gia đình vợ chồng con cái hạnh phúc, an bình, v….. Mà chúng ta lại ì xèo làm biếng muốn ở nhà để ngủ vì cả tuần cầy quá mệt???. Ngay cả tội nghiệp Chúa biết bao vì cái xác chúng ta mang đến nhà thờ mà một câu kinh, một cái làm dấu chúng ta cũng chẳng làm cho xong, và giờ Linh Mục giảng thì chúng ta lại ngủ; ngủ xong rồi thì chúng ta cứ lên đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa.
Quả thật ai từ chối Chúa để có được tất cả mọi sự trên trần gian mà mất linh hồn đời đời thì quả là điên rồ …..???? Vì có sức mạnh và Tình Yêu của Thiên Chúa từng ngày trong cuộc đời là chúng ta mới có tất cả! Cả đời này và cả đời sau. Xin tất cả hãy nên được điên rồ như Chúa của chúng ta. Amen.
Thẩm quyền
Lm Vũđình Tường
15:20 17/02/2011
Vấn đề chấp vấn thẩm quyền quả là rắc rối cho dân nghèo. Dân thường không biết hoặc biết mà không dám chất vấn khi bị nhân viên công quyền hà hiếp, áp bức. Ấm ức nhịn mà không dám đối diện với kẻ lạm quyền vì sợ thua, gặp phiền toái, trả thù vặt về sau. Kiến thức về quyền hành hạn hẹp và yếu thế dẫn đến việc lo ngại, sợ sệt khi phải đụng chạm đến công quyền.
Biệt Phái, các Kinh Sư, phái Pharisêu, Kí Lục nhiều lần chất vấn Đức Kitô về quyền. Kinh thánh ghi rất rõ vấn đề chất vấn quyền hành Đức Kitô bắt nguồn từ các nhà lãnh đạo, kẻ nắm quyền bính trong tay. Không phải họ đặt vấn đề một mà nhiều lần.Không phải một mà nhiều nhóm khác nhau. Đức Giêsu xua đuổi bọn buôn bán trong đền thờ. Các Thượng Tế và Kì Mục không dám lên tiếng chất vấn vì sợ đám đông. Chờ cơ hội, lúc vắng người, họ gặp Ngài trong đền thờ, tiến lại chất vấn.
Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền đó để ông làm các điều ấy Mc 11,28.
Chất vấn Ngài không thành công, họ tìm cách bêu xấu, đặt điều, bịa chuyện khi Ngài chữa kẻ bị quỉ câm. Nhóm Pharisêu phao tin, xuyên tạc, nhằm gây hoang mang, nhục mạ và hạ uy tín Đức Kitô.
Ông ấy dựa vào thế quỷ vương mà trừ quỷ Mat 9,34; 12,24
Thất bại trong việc chất vấn thẩm quyền Chúa, họ đổi chiến thuật, quay sang tấn công môn đệ Chúa khi thầy trò, vào ngày sabat, đi ngang cánh đồng bứt lúa nhai cho đỡ đói. Hẳn họ có ý chê trách, thầy sao trò vậy.
Các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sabat. Mt 12,1
Về phía đại chúng, khi nói về quyền hành Đức Kitô. Họ đã không chất vấn, tranh tụng, đặt vấn đề mà hết lời ca tụng, ngợi khen. Họ kinh ngạc, tâm phục, khẩu phục. Sau khi nghe Ngài giảng
Đám đông sửng sốt về lời giảng dậy của người, vì người giảng dậy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ Mat 7,28-29
Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay, ý đẹp thốt ra từ miệng Người Lc 4,22
Dân chúng nhận ra giáo lí của Ngài tốt hảo, trọn lành. Theo họ Đức Kitô giảng dạy con đường dẫn đến trọn lành, sự sống trường sinh.
Thứ nhất giáo lí Ngài dậy thì mới mẻ.
Thứ Hai giáo huấn của Ngài đầy quyền năng. Ra lệnh cho thần ô uế mà chúng phải tuân theo.
Thứ ba không như các tiên tri hay ngôn sứ khác phải vay mượn ý tưởng, ngôn từ để giải thích, hỗ trợ cho giáo huấn của họ. Các Ngôn Sứ, Kinh sư dựa vào luật để giải thích như Luật xưa dậy……. truyền thống cho rằng. Đức Kitô, đầy uy quyền, dậy. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết.
Thứ tư phương pháp giảng dậy bình dân. Ngài dậy trong đền thờ, nơi bãi biển, cạnh sườn đồi, trong bữa tiệc.
Thứ năm ngôn từ Ngài dùng đơn giản, toàn lời hay ý đẹp. Người nghe thực hành điều giảng dậy thấy tâm hồn thanh thản, lòng thơ thới, hân hoan.
Thứ sáu hình ảnh dùng trong dụ ngôn quen thuộc gần gũi với đại chúng.
Thứ bảy Ngài dậy dân chúng cầu nguyện cùng Cha Ngài cũng là Chúa của họ. Như chúng ta thấy trong Kinh Lậy Cha.
Thứ tám Ngài cho biết ngày phán xét Ngài xuất hiện như vị thẩm phán, xét xử toàn thể nhân loại. Mt 7,23
Đạo lí của Ngài là nguồn sống duy nhất ban hạnh phúc, sự sống trường sinh, giúp mọi người trở thành con cái Chúa.
Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời c.44
Khác biệt
Có hai loại quyền hành rõ rệt. Một là quyền bẩm sinh, vĩnh cửu. Thời gian vô hạn. Hai là quyền ủy thác do cá nhân hay cộng đoàn trao ban, để thi hành thay cộng đoàn.
Quyền vĩnh cửu căn bản ai cũng có như quyền làm người, quyền sống, tự do tín ngưỡng, quyền được bảo vệ. Xúc phạm đến các quyền căn bản trên là lạm quyền. Giải thích cách nào cũng đều là lạm quyền. Sống tự do hay tù tội, người đó vẫn có quyền làm người. Cai tù có chửi bới thậm tệ, coi thường, đối xử độc ác người đó vẫn không mất quyền làm người. Quyền căn bản của con người bị xúc phạm, coi thường, chà đạp nhưng quyền làm người không bao giờ mất.
Quyền tạm thời, có giới hạn thời gian. Có ngày nhận quyền; sớm muộn cũng có ngày mất quyền. Mất vì quyền đó được trao vào tay kẻ khác. Đây là trường hợp của các quyền dân cử, đại diện dân. Hết nhiệm kì, thất cử, mất quyền. Quyền do đại chúng tin tưởng ủy thác; mất tin tưởng, dân biểu tình đòi lại quyền. Không trả lại biến thành độc tài. Dù là nhóm hay đảng cũng thế thôi.
Đầy quyền năng
Đức Kitô là Đấng đầy quyền năng. Ngài thể hiện quyền qua cách đối xử với đại chúng, với các nhà lãnh đạo. Qua giáo huấn, phép lạ Ngài thực hiện cho thấy Ngài là Đấng đầy quyền năng. Ma quỉ phủ phục khi gặp Ngài. Có lần chúng rên la: ông tới để tiêu diệt chúng tôi. Ngài có quyền trên bệnh tật, thiên nhiên. Quyền hoá bánh ra nhiều. Ra lệnh cho gió ngưng thổi, sóng ngưng vỗ. Ngài có quyền trên sự chết. Ngài có quyền ban sự sống trường sinh. Người trộm trên thập giá xin và Ngài ban sự sống trường sinh cho anh ta. Quyền của Ngài tồn tại muôn đời vì là Đấng tự bản chất có quyền mà không phải do ai uỷ thác.
Biệt Phái, các Kinh Sư, phái Pharisêu, Kí Lục nhiều lần chất vấn Đức Kitô về quyền. Kinh thánh ghi rất rõ vấn đề chất vấn quyền hành Đức Kitô bắt nguồn từ các nhà lãnh đạo, kẻ nắm quyền bính trong tay. Không phải họ đặt vấn đề một mà nhiều lần.Không phải một mà nhiều nhóm khác nhau. Đức Giêsu xua đuổi bọn buôn bán trong đền thờ. Các Thượng Tế và Kì Mục không dám lên tiếng chất vấn vì sợ đám đông. Chờ cơ hội, lúc vắng người, họ gặp Ngài trong đền thờ, tiến lại chất vấn.
Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền đó để ông làm các điều ấy Mc 11,28.
Chất vấn Ngài không thành công, họ tìm cách bêu xấu, đặt điều, bịa chuyện khi Ngài chữa kẻ bị quỉ câm. Nhóm Pharisêu phao tin, xuyên tạc, nhằm gây hoang mang, nhục mạ và hạ uy tín Đức Kitô.
Ông ấy dựa vào thế quỷ vương mà trừ quỷ Mat 9,34; 12,24
Thất bại trong việc chất vấn thẩm quyền Chúa, họ đổi chiến thuật, quay sang tấn công môn đệ Chúa khi thầy trò, vào ngày sabat, đi ngang cánh đồng bứt lúa nhai cho đỡ đói. Hẳn họ có ý chê trách, thầy sao trò vậy.
Các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sabat. Mt 12,1
Về phía đại chúng, khi nói về quyền hành Đức Kitô. Họ đã không chất vấn, tranh tụng, đặt vấn đề mà hết lời ca tụng, ngợi khen. Họ kinh ngạc, tâm phục, khẩu phục. Sau khi nghe Ngài giảng
Đám đông sửng sốt về lời giảng dậy của người, vì người giảng dậy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ Mat 7,28-29
Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay, ý đẹp thốt ra từ miệng Người Lc 4,22
Dân chúng nhận ra giáo lí của Ngài tốt hảo, trọn lành. Theo họ Đức Kitô giảng dạy con đường dẫn đến trọn lành, sự sống trường sinh.
Thứ nhất giáo lí Ngài dậy thì mới mẻ.
Thứ Hai giáo huấn của Ngài đầy quyền năng. Ra lệnh cho thần ô uế mà chúng phải tuân theo.
Thứ ba không như các tiên tri hay ngôn sứ khác phải vay mượn ý tưởng, ngôn từ để giải thích, hỗ trợ cho giáo huấn của họ. Các Ngôn Sứ, Kinh sư dựa vào luật để giải thích như Luật xưa dậy……. truyền thống cho rằng. Đức Kitô, đầy uy quyền, dậy. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết.
Thứ tư phương pháp giảng dậy bình dân. Ngài dậy trong đền thờ, nơi bãi biển, cạnh sườn đồi, trong bữa tiệc.
Thứ năm ngôn từ Ngài dùng đơn giản, toàn lời hay ý đẹp. Người nghe thực hành điều giảng dậy thấy tâm hồn thanh thản, lòng thơ thới, hân hoan.
Thứ sáu hình ảnh dùng trong dụ ngôn quen thuộc gần gũi với đại chúng.
Thứ bảy Ngài dậy dân chúng cầu nguyện cùng Cha Ngài cũng là Chúa của họ. Như chúng ta thấy trong Kinh Lậy Cha.
Thứ tám Ngài cho biết ngày phán xét Ngài xuất hiện như vị thẩm phán, xét xử toàn thể nhân loại. Mt 7,23
Đạo lí của Ngài là nguồn sống duy nhất ban hạnh phúc, sự sống trường sinh, giúp mọi người trở thành con cái Chúa.
Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời c.44
Khác biệt
Có hai loại quyền hành rõ rệt. Một là quyền bẩm sinh, vĩnh cửu. Thời gian vô hạn. Hai là quyền ủy thác do cá nhân hay cộng đoàn trao ban, để thi hành thay cộng đoàn.
Quyền vĩnh cửu căn bản ai cũng có như quyền làm người, quyền sống, tự do tín ngưỡng, quyền được bảo vệ. Xúc phạm đến các quyền căn bản trên là lạm quyền. Giải thích cách nào cũng đều là lạm quyền. Sống tự do hay tù tội, người đó vẫn có quyền làm người. Cai tù có chửi bới thậm tệ, coi thường, đối xử độc ác người đó vẫn không mất quyền làm người. Quyền căn bản của con người bị xúc phạm, coi thường, chà đạp nhưng quyền làm người không bao giờ mất.
Quyền tạm thời, có giới hạn thời gian. Có ngày nhận quyền; sớm muộn cũng có ngày mất quyền. Mất vì quyền đó được trao vào tay kẻ khác. Đây là trường hợp của các quyền dân cử, đại diện dân. Hết nhiệm kì, thất cử, mất quyền. Quyền do đại chúng tin tưởng ủy thác; mất tin tưởng, dân biểu tình đòi lại quyền. Không trả lại biến thành độc tài. Dù là nhóm hay đảng cũng thế thôi.
Đầy quyền năng
Đức Kitô là Đấng đầy quyền năng. Ngài thể hiện quyền qua cách đối xử với đại chúng, với các nhà lãnh đạo. Qua giáo huấn, phép lạ Ngài thực hiện cho thấy Ngài là Đấng đầy quyền năng. Ma quỉ phủ phục khi gặp Ngài. Có lần chúng rên la: ông tới để tiêu diệt chúng tôi. Ngài có quyền trên bệnh tật, thiên nhiên. Quyền hoá bánh ra nhiều. Ra lệnh cho gió ngưng thổi, sóng ngưng vỗ. Ngài có quyền trên sự chết. Ngài có quyền ban sự sống trường sinh. Người trộm trên thập giá xin và Ngài ban sự sống trường sinh cho anh ta. Quyền của Ngài tồn tại muôn đời vì là Đấng tự bản chất có quyền mà không phải do ai uỷ thác.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:26 17/02/2011
XƯƠNG CỦA NƯỚC
Tô Đông Pha hỏi Vương Kinh công chữ “pha坡” (1) xét cho cùng thì có ý nghĩa gì. Kinh công trả lời:
- “Chữ “pha” à, là “da皮” của “đất土” chứ gì !”
Thế là Tô Đông Pha ứng khẩu nói:
- “Nếu nói như thế thì chữ “hoạt滑” chính là “xương骨” (2) của “nước水” à ?”.
Kinh công hết lời để đối đáp.
Suy tư:
Đất không có da thì nước cũng không có xương, nếu đất có da thì nước cũng sẽ có xương, đó là cách chơi chữ của những người có học thức ngày xưa, họ đem thực tài của mình ra để đối đáp trang nhã với nhau, và giữ tình bạn bè với nhau.
Thời nay, cũng có những người kiến thức –như người ta nói- là không bằng ngọn lá mít, nhưng đi đâu cũng khoe khoang mình đi nước ngoài học trường này trường nọ, nhưng thực chất là những câu đối thoại thường nói bằng Anh ngữ cũng không biết, thì làm sao đậu bằng tiến sĩ này thạc sĩ nọ được, họ thích nói mạnh để che giấu cái lỗ hổng to lớn kiến thức của mình.
Người ta nói đó là người tự ti mặc cảm, mà người tự ti mặc cảm thường có hai thái độ:
- Một là luôn tỏ ra mình có quyền hành và hiểu biết hơn người khác, nên trong cách hành xử hành quyền đều hách dịch, kiêu căng và nóng nảy.
- Hai là người luôn an phận ai biểu gì làm nấy, hoặc khôn ngoan hơn thì cứ cười hi hi cho qua chuyện, gọi là ta biết nhưng ta không thích làm, không kiên quyết, không quả đoán khi quyết định, số đông sao ta vậy…
Nước không có xương nên nước rất mềm rất nhu, không có kẻ hở nào mà không thấm qua được; đất không có da nên đất trở nên màu mỡ tốt tươi, biến hóa theo bốn mùa xuân hạ thu đông để trở nên chỗ dựa của con người.
Người khiêm tốn và khôn ngoan thì mềm như nước và cứng như sắt, mềm để hiểu lòng dạ đối phương và cứng để đứng lên trong khó khăn gian nan. Ha ha ha, ai hiểu thì hiểu.
(1) Chữ “pha” tiếng Hoa viết là坡, do chữ “土thổ” và chữ ”皮da” ghép lại mà thành.
(2) Chữ “hoạt” tiếng Hoa viết là 滑, do chữ “水nước” và chữ “骨 xương” ghép lại mà thành.
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Tô Đông Pha hỏi Vương Kinh công chữ “pha坡” (1) xét cho cùng thì có ý nghĩa gì. Kinh công trả lời:
- “Chữ “pha” à, là “da皮” của “đất土” chứ gì !”
Thế là Tô Đông Pha ứng khẩu nói:
- “Nếu nói như thế thì chữ “hoạt滑” chính là “xương骨” (2) của “nước水” à ?”.
Kinh công hết lời để đối đáp.
Suy tư:
Đất không có da thì nước cũng không có xương, nếu đất có da thì nước cũng sẽ có xương, đó là cách chơi chữ của những người có học thức ngày xưa, họ đem thực tài của mình ra để đối đáp trang nhã với nhau, và giữ tình bạn bè với nhau.
Thời nay, cũng có những người kiến thức –như người ta nói- là không bằng ngọn lá mít, nhưng đi đâu cũng khoe khoang mình đi nước ngoài học trường này trường nọ, nhưng thực chất là những câu đối thoại thường nói bằng Anh ngữ cũng không biết, thì làm sao đậu bằng tiến sĩ này thạc sĩ nọ được, họ thích nói mạnh để che giấu cái lỗ hổng to lớn kiến thức của mình.
Người ta nói đó là người tự ti mặc cảm, mà người tự ti mặc cảm thường có hai thái độ:
- Một là luôn tỏ ra mình có quyền hành và hiểu biết hơn người khác, nên trong cách hành xử hành quyền đều hách dịch, kiêu căng và nóng nảy.
- Hai là người luôn an phận ai biểu gì làm nấy, hoặc khôn ngoan hơn thì cứ cười hi hi cho qua chuyện, gọi là ta biết nhưng ta không thích làm, không kiên quyết, không quả đoán khi quyết định, số đông sao ta vậy…
Nước không có xương nên nước rất mềm rất nhu, không có kẻ hở nào mà không thấm qua được; đất không có da nên đất trở nên màu mỡ tốt tươi, biến hóa theo bốn mùa xuân hạ thu đông để trở nên chỗ dựa của con người.
Người khiêm tốn và khôn ngoan thì mềm như nước và cứng như sắt, mềm để hiểu lòng dạ đối phương và cứng để đứng lên trong khó khăn gian nan. Ha ha ha, ai hiểu thì hiểu.
(1) Chữ “pha” tiếng Hoa viết là坡, do chữ “土thổ” và chữ ”皮da” ghép lại mà thành.
(2) Chữ “hoạt” tiếng Hoa viết là 滑, do chữ “水nước” và chữ “骨 xương” ghép lại mà thành.
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:27 17/02/2011
N2T |
27. Nếu tội nhân mà không biết hối cải, thì sẽ khiến cho quan án nổi lên cơn thịnh nộ.
(Thánh Hieronimus)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha nói: Đức Tin ban cho chúng ta sức mạnh
Bùi Hữu Thư
07:38 17/02/2011
VATICAN (CNS) -- Đức Thánh Cha Benedict XVI nói: Tin cậy nơi Chúa Giêsu Kitô ban cho mọi người sức mạnh để đối phó với các thách đố trong đời và không phải là một gánh nặng phải mang vác.
Đức Thánh Cha nói trong buổi triều kiến chung ngày 16 tháng 2: "Đồng hành với Đức Kitô – cùng đi con đường với Đức Kitô – không phải là một gánh nặng, gia tăng thêm cho những khổ cực chúng ta phải vác mang trong đời.”
Dẫn chứng gương mẫu của đời sống và những lời suy niệm của Thánh Gioan Thánh Giá, một nhà thần bí Tây Ban Nha thuộc thế kỷ 16, Đức Thánh Cha Benedict nói: Đức tin nới Chúa Kitô “là ánh sáng, là sức mạnh giúp chúng ta mang vác gánh nặng của chúng ta.”
Đức Thánh Cha nói với đám đông ước chừng 4.000 người tu tập trong buổi triều kiến: “Nếu một người có một tình yêu lớn lao, tình yêu này hầu như làm cho người ấy mọc cánh bay, và người ấy sẽ dễ dàng gánh chịu tất cả những thử thách trong đời.”
Buổi triều kiến giữa tháng Hai là lần thứ ba Đức Thánh Cha Benedict dành cho việc nhắc đến một trong các “Tiến Sĩ của Hội Thánh,” là những người nam và nữ đã đóng góp quan trọng cho việc tìm hiểu nền thần học Công Giáo.
Đức Thánh Cha Benedict nói: chúng ta có thể hiểu được khi người ta nhìn vào Thánh Gioan Thánh Giá, một trong những tác giả thần bí cao siêu nhất trong lịch sự Thiên Chúa giáo, và hỏi, “Ngài có gì để nói với chúng tôi, những Kitô hữu bình thường?”
Đức Thánh Cha nói trong buổi triều kiến chung ngày 16 tháng 2: "Đồng hành với Đức Kitô – cùng đi con đường với Đức Kitô – không phải là một gánh nặng, gia tăng thêm cho những khổ cực chúng ta phải vác mang trong đời.”
Dẫn chứng gương mẫu của đời sống và những lời suy niệm của Thánh Gioan Thánh Giá, một nhà thần bí Tây Ban Nha thuộc thế kỷ 16, Đức Thánh Cha Benedict nói: Đức tin nới Chúa Kitô “là ánh sáng, là sức mạnh giúp chúng ta mang vác gánh nặng của chúng ta.”
Đức Thánh Cha nói với đám đông ước chừng 4.000 người tu tập trong buổi triều kiến: “Nếu một người có một tình yêu lớn lao, tình yêu này hầu như làm cho người ấy mọc cánh bay, và người ấy sẽ dễ dàng gánh chịu tất cả những thử thách trong đời.”
Buổi triều kiến giữa tháng Hai là lần thứ ba Đức Thánh Cha Benedict dành cho việc nhắc đến một trong các “Tiến Sĩ của Hội Thánh,” là những người nam và nữ đã đóng góp quan trọng cho việc tìm hiểu nền thần học Công Giáo.
Đức Thánh Cha Benedict nói: chúng ta có thể hiểu được khi người ta nhìn vào Thánh Gioan Thánh Giá, một trong những tác giả thần bí cao siêu nhất trong lịch sự Thiên Chúa giáo, và hỏi, “Ngài có gì để nói với chúng tôi, những Kitô hữu bình thường?”
Đức Thánh Cha đón nhận chiếc balô hành hương Đại hội Giới trẻ Thế giới 2011
Tiền Hô
09:22 17/02/2011
VATICAN, 15 Tháng Hai 2011 (Zenit.org) - Đức Hồng Y Antonio Maria Rouco - tổng giám mục của Madrid vừa trao đến Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chiếc balô đầu tiên trong số hàng ngàn chiếc balô của Đại hội Giới trẻ Thế giới được phát cho những ai tham gia sự kiện này vào Tháng Tám năm nay.
Đức Thánh Cha đã nhận từ tay vị Hồng Y người Tây Ban Nha trong một buổi gặp gỡ hôm thứ Hai, trong đó Đức Hồng Y trình báo với Đức Thánh Cha về công tác chuẩn bị cho đại hội lần này, sẽ diễn ra từ ngày 16-21 Tháng Tám tại Madrid.
Balô Đại hội Giới trẻ Thế giới có màu vàng và đỏ - là hai màu sắc của quốc kỳ Tây Ban Nha, trên đó có in logo chính thức của đại hội. Ở bên trong balô, các tham dự viên sẽ tìm thấy một chuỗi tràng hạt, một cẩm nang hành hương, một quyển sách hướng dẫn tham gia đại hội, một quyển YouCat (sách giáo lý giới trẻ), một thẻ quyền sử dụng phương tiện giao thông công cộng, một chiếc mũ và một chiếc quạt.
Đức Thánh Cha đã nhận từ tay vị Hồng Y người Tây Ban Nha trong một buổi gặp gỡ hôm thứ Hai, trong đó Đức Hồng Y trình báo với Đức Thánh Cha về công tác chuẩn bị cho đại hội lần này, sẽ diễn ra từ ngày 16-21 Tháng Tám tại Madrid.
Balô Đại hội Giới trẻ Thế giới có màu vàng và đỏ - là hai màu sắc của quốc kỳ Tây Ban Nha, trên đó có in logo chính thức của đại hội. Ở bên trong balô, các tham dự viên sẽ tìm thấy một chuỗi tràng hạt, một cẩm nang hành hương, một quyển sách hướng dẫn tham gia đại hội, một quyển YouCat (sách giáo lý giới trẻ), một thẻ quyền sử dụng phương tiện giao thông công cộng, một chiếc mũ và một chiếc quạt.
Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng Thống Nga
LM Trần Đức Anh OP chuyển ý
10:47 17/02/2011
VATICAN -. Sáng 17-2-2011, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nga, Ông Dmitrij Medvedev.
Đây là lần thứ 2 ĐTC tiếp tổng thống Medvedev từ khi ông lên làm tổng thống Nga năm 2008 và lần đầu tiên kể từ khi Tòa Thánh và Liên bang Nga thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau trên cấp Đại Sứ và Sứ Thần hồi năm 2009.
Thông cáo của Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết sau khi gặp ĐTC trong vòng 35 phút, Tổng thống Nga và ngoại trưởng Sergei Levrov, đã hội kiến với ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh, và Đức TGM Dominique Mamberti, ngoại trưởng Tòa Thánh.
Trong các cuộc trao đổi thân mật, các vị tỏ ra hài lòng vì quan hệ song phương tốt đẹp và nhấn mạnh ý chí củng cố thêm các quan hệ này, cả sau khi quan hệ ngoại giao giữa hai bên được thiết lập. Các vị cũng nhìn nhận sự cộng tác rộng rãi giữa Tòa Thánh và Liên bang Nga trong việc thăng tiến các giá trị nhân bản và Kitô, cũng như trong lãnh vực văn hóa và xã hội. Ngoài ra hai bên cũng nhấn mạnh sự đóng góp tích cực mà cuộc đối thoại liên tôn có thể mang lại cho xã hội. Sau cùng, các vị nói đến tình hình quốc tế, đặc biệt là tại Trung Đông.
Sau cuộc hội kiến riêng với tổng thống Medvedev, ĐTC đã chào phu nhân Svetlana Medvedava của tổng thống và đoàn tùy tùng. Tổng thống đã tặng ĐTC một cuốn tài liệu về các thư của Tổng thống Boris Jelsin từ năm 1996 đến 1999 với các vị quốc trưởng trong đó có cả thư gửi Đức Gioan Phaolô 2. Ngoài ra Ông cũng tặng ngài cuốn tự điển bách khoa về Chính Thống Nga và một bức họa điện Kremli. ĐTC tặng tổng thống Nga bức tranh khảm về Vatican và các mề đai Giáo Hoàng của ngài.
Tổng thống Medvedev đến viếng chính thức tại Italia trong 2 ngày, nhân dịp khai mạc năm Văn hóa Nga tại Italia và ngược lại.
Đức Ông Kilbokas, Bí thư thứ I tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Mascơva nói rằng cuộc gặp gỡ này là cơ hội để ĐTC và Tổng thống Nga trao đổi quan điểm chung của hai bên về việc bảo vệ sự sống con người và các giá trị luân lý trong lãnh vực quốc tế. Cuộc gặp gỡ cũng để ý đến quan hệ thân hữu và huynh đệ giữa Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Nga.
Sau khi Đức TGM Antonio Mennini, Sứ thần Tòa Thánh tại Mascơva, được bổ nhiệm làm tân Sứ thần Tòa Thánh tại Anh quốc, ĐTC sắp bổ nhiệm một vị Sứ thần Tòa Thánh tại Liên bang Nga trong thời gian tới đây.
Trong những ngày qua, giới báo chí cho rằng một cuộc gặp gỡ giữa ĐTC và Đức Thượng Phụ Kirill I của Chính Thống Nga là điều có thể diễn ra trong tương lai gần đây, nhưng nguồn tin từ Vatican không xác nhận gì về điều này (SD 17-2-2011)
Đây là lần thứ 2 ĐTC tiếp tổng thống Medvedev từ khi ông lên làm tổng thống Nga năm 2008 và lần đầu tiên kể từ khi Tòa Thánh và Liên bang Nga thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau trên cấp Đại Sứ và Sứ Thần hồi năm 2009.
Thông cáo của Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết sau khi gặp ĐTC trong vòng 35 phút, Tổng thống Nga và ngoại trưởng Sergei Levrov, đã hội kiến với ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh, và Đức TGM Dominique Mamberti, ngoại trưởng Tòa Thánh.
Trong các cuộc trao đổi thân mật, các vị tỏ ra hài lòng vì quan hệ song phương tốt đẹp và nhấn mạnh ý chí củng cố thêm các quan hệ này, cả sau khi quan hệ ngoại giao giữa hai bên được thiết lập. Các vị cũng nhìn nhận sự cộng tác rộng rãi giữa Tòa Thánh và Liên bang Nga trong việc thăng tiến các giá trị nhân bản và Kitô, cũng như trong lãnh vực văn hóa và xã hội. Ngoài ra hai bên cũng nhấn mạnh sự đóng góp tích cực mà cuộc đối thoại liên tôn có thể mang lại cho xã hội. Sau cùng, các vị nói đến tình hình quốc tế, đặc biệt là tại Trung Đông.
Sau cuộc hội kiến riêng với tổng thống Medvedev, ĐTC đã chào phu nhân Svetlana Medvedava của tổng thống và đoàn tùy tùng. Tổng thống đã tặng ĐTC một cuốn tài liệu về các thư của Tổng thống Boris Jelsin từ năm 1996 đến 1999 với các vị quốc trưởng trong đó có cả thư gửi Đức Gioan Phaolô 2. Ngoài ra Ông cũng tặng ngài cuốn tự điển bách khoa về Chính Thống Nga và một bức họa điện Kremli. ĐTC tặng tổng thống Nga bức tranh khảm về Vatican và các mề đai Giáo Hoàng của ngài.
Tổng thống Medvedev đến viếng chính thức tại Italia trong 2 ngày, nhân dịp khai mạc năm Văn hóa Nga tại Italia và ngược lại.
Đức Ông Kilbokas, Bí thư thứ I tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Mascơva nói rằng cuộc gặp gỡ này là cơ hội để ĐTC và Tổng thống Nga trao đổi quan điểm chung của hai bên về việc bảo vệ sự sống con người và các giá trị luân lý trong lãnh vực quốc tế. Cuộc gặp gỡ cũng để ý đến quan hệ thân hữu và huynh đệ giữa Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Nga.
Sau khi Đức TGM Antonio Mennini, Sứ thần Tòa Thánh tại Mascơva, được bổ nhiệm làm tân Sứ thần Tòa Thánh tại Anh quốc, ĐTC sắp bổ nhiệm một vị Sứ thần Tòa Thánh tại Liên bang Nga trong thời gian tới đây.
Trong những ngày qua, giới báo chí cho rằng một cuộc gặp gỡ giữa ĐTC và Đức Thượng Phụ Kirill I của Chính Thống Nga là điều có thể diễn ra trong tương lai gần đây, nhưng nguồn tin từ Vatican không xác nhận gì về điều này (SD 17-2-2011)
Đức Gioan Phaolô II và Mùa Xuân Tự Do
Vũ Văn An
22:03 17/02/2011
Càng gần đến ngày ngài được tôn phong lên hàng Á Thánh, Đức Gioan Phaolô II càng được quần chúng nhắc đến với thật nhiều tình cảm nồng hậu, nhất là quần chúng Ba Lan, đồng hương của ngài. Ngày 17 vừa qua, linh mục Mariusz Frukacz, chủ bút tuần báo Công Giáo Niedziela của Tổng Giáo Phận Czestochowa, Ba Lan, có dành cho Zenit một cuộc phỏng vấn, trong đó ngài cho hay: đối với dân tộc Ba Lan, tưởng nhớ Đức Gioan Phaolô II là tưởng nhớ một con người đã đem lại cho dân tộc “buổi khởi đầu của mùa xuân tự do”. Việc bầu cử vị Giáo Hoàng Đầu Tiên Người Slav đã đem “ánh sáng Ba Lan soi sáng cho các thay đổi vĩ đại tại Ba Lan và toàn bộ Âu Châu” và cách riêng, đã đem lại cho “dân tộc Ba Lan sức mạnh tâm linh và tinh thần để từ kháng chiến chống bất công tiến qua chiến thắng sự ác bằng sự thiện”.
Theo Cha Frukacz, năm 1978, khi Đức Hồng Y Karol Wojtyla được bầu làm giáo hoàng với tước hiệu Gioan Phaolô II, thì Ba Lan đang quằn quại dưới ách thống trị của chế độ cộng sản. Bởi thế, việc bầu cử này có một tầm quan trọng hết sức lớn lao, không phải chỉ riêng đối với Ba Lan, mà còn đối với cả khối Trung và Đông Âu nữa. Dân chúng Ba Lan và dân chúng các nước vừa kể không những cảm thấy niềm vui mà cả tinh thần tự do nữa. Đức Gioan Phaolô II mang theo ngài lòng trung tín đối với Tin Mừng và lòng can đảm đối với niềm tin vào sự thật. Theo cha, câu “đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” của ngài đã bật đèn xanh cho các thay đổi có tính thời đại tại Ba Lan và khắp Âu Châu. Việc bầu ngài làm giáo hoàng quả đã khởi đầu cả một mùa xuân cho tự do. Ngài đã bật đèn xanh cho cuộc cách mạng tâm linh và tinh thần tại Ba Lan và các nước khác tại Trung và Đông Âu.
Được hỏi phải chăng vì Wojtyla làm giáo hoàng mà Liên Xô không dám xâm lăng Ba Lan, Cha Frukacz cho hay: đối với câu hỏi này, ta không thể trả lời một cách đơn giản được. Hiện nay, ta không biết hết các tài liệu của chế độ cộng sản, càng biết ít hơn về thời kỳ Tướng Wojciech Jaruzelski thiết quân luật khiến các quyền dân sự bị hạn chế và các nhà tranh đấu của Phong Trào Đoàn Kết bị bắt và bị cầm tù. Theo Cha, một số sử gia nghĩ đúng khi họ viết rằng người Nga không xâm lăng Ba Lan vì họ không muốn lặp lại hoàn cảnh năm 1968 lúc họ xâm lăng Tiệp Khắc. Tướng Wojciech Jaruzelski chủ trương rằng vào ngày 13 tháng 12 năm 1981, ông ta phải thiết quân luật tại Ba Lan, vì nếu không người Nga chắc chắn sẽ xâm lăng Ba Lan. Ngày nay, ta biết rằng điều ông ta tuyên bố lúc đó không đúng sự thật. Từ quan điểm của một số tài liệu cũng như dựa vào vào một số nhân chứng, các sử gia tại Ba Lan cho rằng chế độ cộng sản, nhất là Leonid Brezhnev, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô, muốn Tướng General Jaruzelski và chế độ cộng sản tại Ba Lan phải giải quyết vấn đề “Đoàn Kết” bằng chính các lực lượng của mình. Ngày nay, ta cũng biết rằng suốt trong thời kỳ thiết quân luật tại Ba Lan, Đức Gioan Phaolô II có các tiếp xúc ngoại giao gần gũi với tổng thống Hoa Kỳ, Ronald Reagan, và ngài từng viết một lá thư cho Leonid Brezhnev để thuyết phục ông ta đừng xâm lăng Ba Lan. Dù thế mặc lòng, ta vẫn không thể quả quyết một cách đầy đủ và chắn chắn rằng người Nga không xâm lăng Ba Lan là vì Đức Hồng Y Wojtyla được bầu làm giáo hoàng.
Về lý do tại sao cả chủ nghĩa quốc xã lẫn chủ nghĩa cộng sản đều không thành công trong việc tách rời Ba Lan ra khỏi gốc rễ Kitô Giáo và tiêu diệt đức tin Công Giáo của họ, Cha Frukacz cho rằng nguồn mạch dứt khoát cứu được đức tin Công Giáo chính là việc các gia đình Ba Lan đã luôn luôn tôn kính và lưu truyền cho con cái họ gia tài thiêng liêng của các thế hệ đi trước. Trong suốt thời Quốc Xã và sau đó thời Cộng Sản, trong các gia đình Ba Lan, người ta thấy mối liên hệ của đức tin với văn hóa Kitô Giáo và văn hóa quốc gia luôn luôn sống động và mạnh mẽ. Đối với dân tộc Ba Lan, đức tin luôn nối kết với lòng yêu nước chân chính nghĩa là yêu Chúa và yêu quê hương. Cha cũng nghĩ rằng các phong trào và hiệp hội Kitô Giáo đóng một vai trò rất lớn trong việc duy trì gốc rễ Kitô Giáo trong xã hội Ba Lan, như Phong Trào Đời Sống Và Ánh Sáng của Tôi Tớ Chúa là Cha Franciszek Blachnicki. Các câu lạc bộ Công Giáo như Câu Lạc Bộ Trí Thức Công Giáo, Tuần Lễ Văn Hóa Kitô Giáo, cũng góp nhiều đóng góp học thuật và mục vụ cho việc sống đức tin vì tại đây, các nghệ sĩ liên tục trình bày và truyền bá nền văn hóa và văn chương quốc gia cho tín hữu tại các nhà thờ.
Và không ai quên vai trò lớn lao của Đức Hồng Y Stefan Wyszynski (1), người mà cha gọi là “giáo phẩm của thiên niên kỷ”. Chính ngài là người tổ chức “Các Lời Hứa Jasna Gora” vào năm 1956, tức chín năm chuẩn bị kỷ niệm 1,000 năm Kitô Giáo có mặt tại Ba Lan (1957-1966). Chính ngài đã sâu sắc hóa và truyền bá điều vốn được gọi là nền thần học về quốc gia (theology of the nation) để củng cố căn tính Công Giáo của người Ba Lan. Đức Gioan Phaolô II cũng làm chứng cho tầm quan trọng và sự cao cả của Đức Hồng Y Wyszynski khi phát biểu: “Có thể đã không có một vị Giáo Hoàng Người Ba Lan trên tòa Phêrô nếu không có đức tin của Đức Hồng Y Wyszynski cũng như việc ngài bị cầm tù và Jasna Gora” (2)
Về hai người con sáng chói của Ba Lan, tức chân phúc Jerzy Popieluszko (3) và chuẩn chân phúc Karol Wojtyla, Cha Frukacz cho rằng có nhiều yếu tố chung giữa hai vị anh hùng thời đại này về lòng can đảm và việc làm chứng anh hùng của họ. Yếu tố thứ nhất là cả hai vị cùng có một đức tin vững mạnh. Các vị đều là người của đức tin theo nghĩa hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. Yếu tố thứ hai: cả hai vị đều thể hiện trong đời mình lòng trung tín chân thực đối với Tin Mừng và các giá trị Kitô Giáo. Nhân danh Tin Mừng và nhân danh việc tôn trọng các giá trị Kitô Giáo trong lãnh vực sinh hoạt công cộng, cả hai vị đều đã bênh vực nhân quyền và phẩm giá nhân vị. Cả hai đều đã làm chứng một cách đích thực và đầy can đảm cho Chúa Kitô đến độ đổ máu mình ra. Chân Phúc Jerzy Popiełuszko bị công an chìm của chế độ cộng sản sát hại, còn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì bị tấn công tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô ngày 13 tháng 5 năm 1981.
Cha Popieluszko và Đức Gioan Phaolô II đều đã cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền, quyền lợi công nhân và phẩm giá nhân vị, tất cả dưới ánh sáng Tin Mừng. Đối với Ba Lan và đối với toàn thế giới, họ đều đã thực hành và làm chứng cho nhân đức can đảm, lòng trung tín đối với Thiên Chúa, với Thánh Giá Chúa Kitô và với Tin Mừng, tình yêu Thiên Chúa và quê hương. Cả hai đều đại biểu cho lòng yêu nước theo nghĩa Kitô Giáo, coi nó như một nhân đức văn hóa và xã hội. Một yếu tố chung khác nữa là cả hai vị đều có một linh đạo về Đức Mẹ và hoàn toàn tín thác vào ngài. Chân phúc Popieluszko lấy Thánh Maximilian Kolbe làm gương mẫu, còn đối với Đức Gioan Phaolô II, gương mẫu đó chính là Thánh Louis Mary Grignion de Montfort.
Nhưng thực ra, đâu là các đặc tính đặc trưng của Đức Gioan Phaolô II? Cha Frukacz cho hay: ngài biết Đức Gioan Phaolô II từ lúc lên 8 khi Đức Giáo Hoàng về thăm quê hương hồi tháng 6 năm 1979. Hình ảnh còn rõ nét trong cha là một nhân vật mặc đồ trắng với cánh tay rộng mở. Không khí hôm ấy là một không khí hân hoan của những ngày vui lịch sử. Cha mẹ cha nước mắt đầm đìa, nhất là thân phụ cha, một đoàn viên của Phong Trào Đoàn Kết. Rồi những năm sau đó, cha được cùng gia đình gặp gỡ Đức Gioan Phaolô II tại Đền Thờ Jasna Gora và tại Czestochowa trong các năm 1983, 1987, 1991, 1997, 1999. Điều hết quan trọng đối với linh đạo của cha là lần gặp vào tháng 8 năm 1991, lúc Đức Gioan Phaolô II tới làm phép đại chủng viện Czestochowa. Lúc ấy cha đang học năm thứ hai tại chủng viện này. Cha rất cảm động khi nghe Đức Giáo Hoàng phát biểu: “với lòng tận tụy trọn vẹn và hoàn toàn, xứng hợp với thái độ của Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá, … các con hãy công bố Tin Mừng của Con ngài và làm chứng cho Tin Mừng ấy trong đời sống, một cách quảng đại, không hề thỏa hiệp với tinh thần thế gian và đừng sợ hãi”. Theo cha, vị giáo hoàng người Ba Lan này là một con người của cầu nguyện. Cha vẫn luôn ghi nhớ trong tâm hồn Thánh Lễ cha được đồng tế với Đức Gioan Phaolô II tại nhà nguyện riêng của tòa khâm sứ vào ngày 7 tháng 9 năm 2000. Cha cho rằng Đức Gioan Phaolô II là một con người của niềm vui Kitô Giáo đích thực. Trong suốt thời gian du học tại Rôma (2000-2007), cha có dịp được gặp Đức Giáo Hoàng và chuyện trò với ngài dịp lễ Giáng Sinh. Nhờ thế, ngài thường được nghe Đức Giáo Hoàng ngâm ngợi các ca khúc Giáng Sinh. Đức Gioan Phaolô II cũng là một con người có một tình yêu lớn lao đối với người lân cận, đối với Chúa Kitô và đối với Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng có lòng yêu kính đặc biệt đối với Đức Mẹ, năng đọc kinh Mân Côi.
Về lễ phong chân phúc cho Đức Gioan Phaolô II, Cha Frukacz không biết sẽ có bao nhiêu người Ba Lan qua Rôma tham dự, nhưng chắc một điều: cả nước Ba Lan đang được huy động. Các phương tiện truyền thông đại chúng ước lượng sẽ có chừng 1 triệu người Ba Lan qua Rôma tham dự thánh lễ phong chân phúc cho người đồng hương rất yêu quí của họ, người vốn được họ coi là đại biểu của mùa xuân tự do.
Ghi chú
(1) Stefan Wyszyński (3 tháng 8 năm 1901 - 28 tháng 5 năm 1981) là giáo chủ Ba Lan, được Đức Piô XII nâng lên hàng hồng y năm 1953, và thường được gọi là giáo chủ của thiên niên kỷ. Thời ngài, Giáo Hội Công Giáo tích cực hỗ trợ phong trào chống cộng. Một trong các vấn đề hàng đầu là việc cộng sản tịch thu đất đai của Giáo Hội. Năm 1950, Đức TGM Wyszyński quyết định hòa hoãn với cộng sản, nhờ thế, Giáo Hội được quyền duy trì một số tài sản và một số biện pháp khác. Tuy nhiên, năm 1953, cộng sản lại mở một đợt bách hại mới và khi các giám mục tiếp tục ủng hộ phong trào kháng chiến, thì nhiều cuộc đấu tố và giam cầm giáo sĩ đã diễn ra, chính Đức Hồng Y cũng cùng chung số phận này và chỉ được thả ngày 26 tháng 10 năm 1956. Ngài không bao giờ ngưng các công trình tôn giáo và xã hội của mình. Thành tựu lớn nhất của ngài là việc cử hành năm 1966, để kỷ niệm 1,000 năm Đạo Công Giáo du nhập Ba Lan. Nhà nước Cộng Sản không cho phép Đức Phaolô VI qua Ba Lan tham dự. Tuy nhiên, vẻ vang nhất đối với ngài là lúc Karol Wojtyła được bầu làm giáo hoàng. Ngài qua đời ngày 28 tháng 5 năm 1981, lúc 79 tuổi và năm 2001, được quốc hội Ba Lan tuyên dương là “Người Ba Lan, tuyên uý và chính khách vĩ đại”. Năm ấy cũng được Quốc Hội Ba Lan mừng là Năm Hồng Y Stefan Wyszyński.
(2) Đan viện Jasna Góra (nghĩa là Núi Sáng) tọa lạc tại Częstochowa, Ba Lan, là đền thánh nổi tiếng nhất dâng kính Đức Mẹ tại Ba Lan và là trung tâm hành hương của cả nước, được nhiều người coi là thủ đô tinh thần. Được các đan sĩ dòng Thánh Phaolô thiết lập từ năm 1382, từ đó trở thành địa điểm hành hương nhờ bức ảnh Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng mà người ta quen gọi là Đức Mẹ Đen Częstochowa. Người ta vẫn cho rằng nhờ Đức Mẹ mà Jasna Gora thoát cuộc xâm lăng của Thụy Điển vào thế kỷ 17. Và chính vì thế, nó trở thành biểu tượng của cuộc kháng chiến Ba Lan. Ngày 1 tháng 4 năm 1656, Jan Kazimierz, Vua Ba Lan, đã long trọng đọc lời thề hứa dâng cả nước cho sự che chở của Mẹ Thiên Chúa và tuyên xưng ngài là Quan Thầy và là Nữ Vương mọi lãnh thổ thuộc vương quyền của ông.
(3) Jerzy Popiełuszko (ngày 14 tháng 9 năm 1947 – ngày 19 tháng 10 năm 1984) là một linh mục Công Giáo Ba Lan, có liên hệ với Nghiệp Đoàn Đoàn Kết. Ngài bị ba nhân viên của sở tình báo cộng sản Ba Lan hạ sát, được Giáo Hội nhìn nhận là tử đạo và được phong chân phúc ngày 6 tháng 6 năm 2010. Cha nổi tiếng chống cộng, có tài thu hút và được phái tới với những người đình công tại hãng sắt ở Warsaw, sau đó, liên hệ với các công nhân và nhân viên của nghiệp đoàn Đoàn Kết, là những người chống chế độ cộng sản tại Ba Lan. Trong các bài giảng, ngài luôn đan kết các lời khuyên thiêng liêng với các sứ điệp chính trị, chỉ trích hệ thống cộng sản và khuyến khích người ta lên tiếng phản đối. Các bài giảng của ngài được Đài Âu Châu Tự Do phát đi, trở thành nổi tiếng khắp Ba Lan như tuyên ngôn bất khoan nhượng chống lại chế độ. Sau nhiều mưu toan bất thành, tình báo Ba Lan đã bắt cóc cha ngày 19 tháng 10 năm 1984. Cha bị tra tấn dã man và bị thảm sát bởi 3 viên tình báo. Xác ngài bị ném xuống đập nước Vistula và được tìm thấy ngày 30 cùng tháng. Tin ấy làm rúng động Ba Lan. Hơn 250,000 người, trong đó có Lech Wałęsa, đã tham dự đám tang của cha. Năm 1997, Giáo Hội Công Giáo khởi đầu án phong chân phúc cho cha và lễ phong chân phúc này đã diễn ra ngày 6 tháng 6 năm 2010 tại Quảng Trường Piłsudski. Mẹ cha là bà Marianna Popiełuszko, người trước đó mấy ngày vừa tròn 100 tuổi, đã tham dự thánh lễ này.
Theo Cha Frukacz, năm 1978, khi Đức Hồng Y Karol Wojtyla được bầu làm giáo hoàng với tước hiệu Gioan Phaolô II, thì Ba Lan đang quằn quại dưới ách thống trị của chế độ cộng sản. Bởi thế, việc bầu cử này có một tầm quan trọng hết sức lớn lao, không phải chỉ riêng đối với Ba Lan, mà còn đối với cả khối Trung và Đông Âu nữa. Dân chúng Ba Lan và dân chúng các nước vừa kể không những cảm thấy niềm vui mà cả tinh thần tự do nữa. Đức Gioan Phaolô II mang theo ngài lòng trung tín đối với Tin Mừng và lòng can đảm đối với niềm tin vào sự thật. Theo cha, câu “đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” của ngài đã bật đèn xanh cho các thay đổi có tính thời đại tại Ba Lan và khắp Âu Châu. Việc bầu ngài làm giáo hoàng quả đã khởi đầu cả một mùa xuân cho tự do. Ngài đã bật đèn xanh cho cuộc cách mạng tâm linh và tinh thần tại Ba Lan và các nước khác tại Trung và Đông Âu.
Được hỏi phải chăng vì Wojtyla làm giáo hoàng mà Liên Xô không dám xâm lăng Ba Lan, Cha Frukacz cho hay: đối với câu hỏi này, ta không thể trả lời một cách đơn giản được. Hiện nay, ta không biết hết các tài liệu của chế độ cộng sản, càng biết ít hơn về thời kỳ Tướng Wojciech Jaruzelski thiết quân luật khiến các quyền dân sự bị hạn chế và các nhà tranh đấu của Phong Trào Đoàn Kết bị bắt và bị cầm tù. Theo Cha, một số sử gia nghĩ đúng khi họ viết rằng người Nga không xâm lăng Ba Lan vì họ không muốn lặp lại hoàn cảnh năm 1968 lúc họ xâm lăng Tiệp Khắc. Tướng Wojciech Jaruzelski chủ trương rằng vào ngày 13 tháng 12 năm 1981, ông ta phải thiết quân luật tại Ba Lan, vì nếu không người Nga chắc chắn sẽ xâm lăng Ba Lan. Ngày nay, ta biết rằng điều ông ta tuyên bố lúc đó không đúng sự thật. Từ quan điểm của một số tài liệu cũng như dựa vào vào một số nhân chứng, các sử gia tại Ba Lan cho rằng chế độ cộng sản, nhất là Leonid Brezhnev, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô, muốn Tướng General Jaruzelski và chế độ cộng sản tại Ba Lan phải giải quyết vấn đề “Đoàn Kết” bằng chính các lực lượng của mình. Ngày nay, ta cũng biết rằng suốt trong thời kỳ thiết quân luật tại Ba Lan, Đức Gioan Phaolô II có các tiếp xúc ngoại giao gần gũi với tổng thống Hoa Kỳ, Ronald Reagan, và ngài từng viết một lá thư cho Leonid Brezhnev để thuyết phục ông ta đừng xâm lăng Ba Lan. Dù thế mặc lòng, ta vẫn không thể quả quyết một cách đầy đủ và chắn chắn rằng người Nga không xâm lăng Ba Lan là vì Đức Hồng Y Wojtyla được bầu làm giáo hoàng.
Về lý do tại sao cả chủ nghĩa quốc xã lẫn chủ nghĩa cộng sản đều không thành công trong việc tách rời Ba Lan ra khỏi gốc rễ Kitô Giáo và tiêu diệt đức tin Công Giáo của họ, Cha Frukacz cho rằng nguồn mạch dứt khoát cứu được đức tin Công Giáo chính là việc các gia đình Ba Lan đã luôn luôn tôn kính và lưu truyền cho con cái họ gia tài thiêng liêng của các thế hệ đi trước. Trong suốt thời Quốc Xã và sau đó thời Cộng Sản, trong các gia đình Ba Lan, người ta thấy mối liên hệ của đức tin với văn hóa Kitô Giáo và văn hóa quốc gia luôn luôn sống động và mạnh mẽ. Đối với dân tộc Ba Lan, đức tin luôn nối kết với lòng yêu nước chân chính nghĩa là yêu Chúa và yêu quê hương. Cha cũng nghĩ rằng các phong trào và hiệp hội Kitô Giáo đóng một vai trò rất lớn trong việc duy trì gốc rễ Kitô Giáo trong xã hội Ba Lan, như Phong Trào Đời Sống Và Ánh Sáng của Tôi Tớ Chúa là Cha Franciszek Blachnicki. Các câu lạc bộ Công Giáo như Câu Lạc Bộ Trí Thức Công Giáo, Tuần Lễ Văn Hóa Kitô Giáo, cũng góp nhiều đóng góp học thuật và mục vụ cho việc sống đức tin vì tại đây, các nghệ sĩ liên tục trình bày và truyền bá nền văn hóa và văn chương quốc gia cho tín hữu tại các nhà thờ.
Và không ai quên vai trò lớn lao của Đức Hồng Y Stefan Wyszynski (1), người mà cha gọi là “giáo phẩm của thiên niên kỷ”. Chính ngài là người tổ chức “Các Lời Hứa Jasna Gora” vào năm 1956, tức chín năm chuẩn bị kỷ niệm 1,000 năm Kitô Giáo có mặt tại Ba Lan (1957-1966). Chính ngài đã sâu sắc hóa và truyền bá điều vốn được gọi là nền thần học về quốc gia (theology of the nation) để củng cố căn tính Công Giáo của người Ba Lan. Đức Gioan Phaolô II cũng làm chứng cho tầm quan trọng và sự cao cả của Đức Hồng Y Wyszynski khi phát biểu: “Có thể đã không có một vị Giáo Hoàng Người Ba Lan trên tòa Phêrô nếu không có đức tin của Đức Hồng Y Wyszynski cũng như việc ngài bị cầm tù và Jasna Gora” (2)
Về hai người con sáng chói của Ba Lan, tức chân phúc Jerzy Popieluszko (3) và chuẩn chân phúc Karol Wojtyla, Cha Frukacz cho rằng có nhiều yếu tố chung giữa hai vị anh hùng thời đại này về lòng can đảm và việc làm chứng anh hùng của họ. Yếu tố thứ nhất là cả hai vị cùng có một đức tin vững mạnh. Các vị đều là người của đức tin theo nghĩa hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. Yếu tố thứ hai: cả hai vị đều thể hiện trong đời mình lòng trung tín chân thực đối với Tin Mừng và các giá trị Kitô Giáo. Nhân danh Tin Mừng và nhân danh việc tôn trọng các giá trị Kitô Giáo trong lãnh vực sinh hoạt công cộng, cả hai vị đều đã bênh vực nhân quyền và phẩm giá nhân vị. Cả hai đều đã làm chứng một cách đích thực và đầy can đảm cho Chúa Kitô đến độ đổ máu mình ra. Chân Phúc Jerzy Popiełuszko bị công an chìm của chế độ cộng sản sát hại, còn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì bị tấn công tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô ngày 13 tháng 5 năm 1981.
Cha Popieluszko và Đức Gioan Phaolô II đều đã cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền, quyền lợi công nhân và phẩm giá nhân vị, tất cả dưới ánh sáng Tin Mừng. Đối với Ba Lan và đối với toàn thế giới, họ đều đã thực hành và làm chứng cho nhân đức can đảm, lòng trung tín đối với Thiên Chúa, với Thánh Giá Chúa Kitô và với Tin Mừng, tình yêu Thiên Chúa và quê hương. Cả hai đều đại biểu cho lòng yêu nước theo nghĩa Kitô Giáo, coi nó như một nhân đức văn hóa và xã hội. Một yếu tố chung khác nữa là cả hai vị đều có một linh đạo về Đức Mẹ và hoàn toàn tín thác vào ngài. Chân phúc Popieluszko lấy Thánh Maximilian Kolbe làm gương mẫu, còn đối với Đức Gioan Phaolô II, gương mẫu đó chính là Thánh Louis Mary Grignion de Montfort.
Nhưng thực ra, đâu là các đặc tính đặc trưng của Đức Gioan Phaolô II? Cha Frukacz cho hay: ngài biết Đức Gioan Phaolô II từ lúc lên 8 khi Đức Giáo Hoàng về thăm quê hương hồi tháng 6 năm 1979. Hình ảnh còn rõ nét trong cha là một nhân vật mặc đồ trắng với cánh tay rộng mở. Không khí hôm ấy là một không khí hân hoan của những ngày vui lịch sử. Cha mẹ cha nước mắt đầm đìa, nhất là thân phụ cha, một đoàn viên của Phong Trào Đoàn Kết. Rồi những năm sau đó, cha được cùng gia đình gặp gỡ Đức Gioan Phaolô II tại Đền Thờ Jasna Gora và tại Czestochowa trong các năm 1983, 1987, 1991, 1997, 1999. Điều hết quan trọng đối với linh đạo của cha là lần gặp vào tháng 8 năm 1991, lúc Đức Gioan Phaolô II tới làm phép đại chủng viện Czestochowa. Lúc ấy cha đang học năm thứ hai tại chủng viện này. Cha rất cảm động khi nghe Đức Giáo Hoàng phát biểu: “với lòng tận tụy trọn vẹn và hoàn toàn, xứng hợp với thái độ của Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá, … các con hãy công bố Tin Mừng của Con ngài và làm chứng cho Tin Mừng ấy trong đời sống, một cách quảng đại, không hề thỏa hiệp với tinh thần thế gian và đừng sợ hãi”. Theo cha, vị giáo hoàng người Ba Lan này là một con người của cầu nguyện. Cha vẫn luôn ghi nhớ trong tâm hồn Thánh Lễ cha được đồng tế với Đức Gioan Phaolô II tại nhà nguyện riêng của tòa khâm sứ vào ngày 7 tháng 9 năm 2000. Cha cho rằng Đức Gioan Phaolô II là một con người của niềm vui Kitô Giáo đích thực. Trong suốt thời gian du học tại Rôma (2000-2007), cha có dịp được gặp Đức Giáo Hoàng và chuyện trò với ngài dịp lễ Giáng Sinh. Nhờ thế, ngài thường được nghe Đức Giáo Hoàng ngâm ngợi các ca khúc Giáng Sinh. Đức Gioan Phaolô II cũng là một con người có một tình yêu lớn lao đối với người lân cận, đối với Chúa Kitô và đối với Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng có lòng yêu kính đặc biệt đối với Đức Mẹ, năng đọc kinh Mân Côi.
Về lễ phong chân phúc cho Đức Gioan Phaolô II, Cha Frukacz không biết sẽ có bao nhiêu người Ba Lan qua Rôma tham dự, nhưng chắc một điều: cả nước Ba Lan đang được huy động. Các phương tiện truyền thông đại chúng ước lượng sẽ có chừng 1 triệu người Ba Lan qua Rôma tham dự thánh lễ phong chân phúc cho người đồng hương rất yêu quí của họ, người vốn được họ coi là đại biểu của mùa xuân tự do.
Ghi chú
(1) Stefan Wyszyński (3 tháng 8 năm 1901 - 28 tháng 5 năm 1981) là giáo chủ Ba Lan, được Đức Piô XII nâng lên hàng hồng y năm 1953, và thường được gọi là giáo chủ của thiên niên kỷ. Thời ngài, Giáo Hội Công Giáo tích cực hỗ trợ phong trào chống cộng. Một trong các vấn đề hàng đầu là việc cộng sản tịch thu đất đai của Giáo Hội. Năm 1950, Đức TGM Wyszyński quyết định hòa hoãn với cộng sản, nhờ thế, Giáo Hội được quyền duy trì một số tài sản và một số biện pháp khác. Tuy nhiên, năm 1953, cộng sản lại mở một đợt bách hại mới và khi các giám mục tiếp tục ủng hộ phong trào kháng chiến, thì nhiều cuộc đấu tố và giam cầm giáo sĩ đã diễn ra, chính Đức Hồng Y cũng cùng chung số phận này và chỉ được thả ngày 26 tháng 10 năm 1956. Ngài không bao giờ ngưng các công trình tôn giáo và xã hội của mình. Thành tựu lớn nhất của ngài là việc cử hành năm 1966, để kỷ niệm 1,000 năm Đạo Công Giáo du nhập Ba Lan. Nhà nước Cộng Sản không cho phép Đức Phaolô VI qua Ba Lan tham dự. Tuy nhiên, vẻ vang nhất đối với ngài là lúc Karol Wojtyła được bầu làm giáo hoàng. Ngài qua đời ngày 28 tháng 5 năm 1981, lúc 79 tuổi và năm 2001, được quốc hội Ba Lan tuyên dương là “Người Ba Lan, tuyên uý và chính khách vĩ đại”. Năm ấy cũng được Quốc Hội Ba Lan mừng là Năm Hồng Y Stefan Wyszyński.
(2) Đan viện Jasna Góra (nghĩa là Núi Sáng) tọa lạc tại Częstochowa, Ba Lan, là đền thánh nổi tiếng nhất dâng kính Đức Mẹ tại Ba Lan và là trung tâm hành hương của cả nước, được nhiều người coi là thủ đô tinh thần. Được các đan sĩ dòng Thánh Phaolô thiết lập từ năm 1382, từ đó trở thành địa điểm hành hương nhờ bức ảnh Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng mà người ta quen gọi là Đức Mẹ Đen Częstochowa. Người ta vẫn cho rằng nhờ Đức Mẹ mà Jasna Gora thoát cuộc xâm lăng của Thụy Điển vào thế kỷ 17. Và chính vì thế, nó trở thành biểu tượng của cuộc kháng chiến Ba Lan. Ngày 1 tháng 4 năm 1656, Jan Kazimierz, Vua Ba Lan, đã long trọng đọc lời thề hứa dâng cả nước cho sự che chở của Mẹ Thiên Chúa và tuyên xưng ngài là Quan Thầy và là Nữ Vương mọi lãnh thổ thuộc vương quyền của ông.
(3) Jerzy Popiełuszko (ngày 14 tháng 9 năm 1947 – ngày 19 tháng 10 năm 1984) là một linh mục Công Giáo Ba Lan, có liên hệ với Nghiệp Đoàn Đoàn Kết. Ngài bị ba nhân viên của sở tình báo cộng sản Ba Lan hạ sát, được Giáo Hội nhìn nhận là tử đạo và được phong chân phúc ngày 6 tháng 6 năm 2010. Cha nổi tiếng chống cộng, có tài thu hút và được phái tới với những người đình công tại hãng sắt ở Warsaw, sau đó, liên hệ với các công nhân và nhân viên của nghiệp đoàn Đoàn Kết, là những người chống chế độ cộng sản tại Ba Lan. Trong các bài giảng, ngài luôn đan kết các lời khuyên thiêng liêng với các sứ điệp chính trị, chỉ trích hệ thống cộng sản và khuyến khích người ta lên tiếng phản đối. Các bài giảng của ngài được Đài Âu Châu Tự Do phát đi, trở thành nổi tiếng khắp Ba Lan như tuyên ngôn bất khoan nhượng chống lại chế độ. Sau nhiều mưu toan bất thành, tình báo Ba Lan đã bắt cóc cha ngày 19 tháng 10 năm 1984. Cha bị tra tấn dã man và bị thảm sát bởi 3 viên tình báo. Xác ngài bị ném xuống đập nước Vistula và được tìm thấy ngày 30 cùng tháng. Tin ấy làm rúng động Ba Lan. Hơn 250,000 người, trong đó có Lech Wałęsa, đã tham dự đám tang của cha. Năm 1997, Giáo Hội Công Giáo khởi đầu án phong chân phúc cho cha và lễ phong chân phúc này đã diễn ra ngày 6 tháng 6 năm 2010 tại Quảng Trường Piłsudski. Mẹ cha là bà Marianna Popiełuszko, người trước đó mấy ngày vừa tròn 100 tuổi, đã tham dự thánh lễ này.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hiệp thông với ĐTC Bênêđictô XVI
+GM Gioan B. Bùi Tuần
09:17 17/02/2011
Ngày 22 tháng 2 hằng năm là lễ kính nhớ việc lập Tông Toà Thánh Phêrô. Năm nay, lễ này mang đến cho tôi một ý nghĩa mới. Đó là trong hiện tình Đấng kế vị thánh Phêrô đang có nhiều trăn trở, lễ này nên trở thành cơ hội tốt, để đốt nóng lên bổn phận hiệp thông với Người Cha chung.
Trong ý hướng đó, Chúa đã cho hiện lên trong lòng tôi một hình ảnh về Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Tất nhiên đây là một hình ảnh có những nét thiêng liêng. Hình ảnh đó ví như một sức mạnh kỳ diệu, mở hồn tôi ra, để tôi nhận thấy bầu trời hiệp thông với Đức Thánh Cha là rất phong phú.
Tôi xin được chia sẻ vắn gọn một số nét của hình ảnh đó.
1. Con người trao tặng
Đức Bênêđictô XVI là con người đơn sơ, giản dị. Ấn tượng rõ nhất khi gặp Ngài, không phải là con người quyền lực, nhưng là con người trao tặng. Quà, mà Ngài trao tặng là chân lý và tình yêu.
Chân lý và tình yêu do Ngài trao tặng không phải là những lý thuyết về chân lý và tình yêu, nhưng là chân lý và tình yêu đã trở thành sự sống nơi Ngài. Những giá trị tinh thần cao quý ấy đã chảy vào hồn Ngài từ nhiều nguồn như Triết học, Thần học, Kinh Thánh, nhất là từ đức tin, đức cậy, đức mến.
Chân lý đó, tình yêu đó có bề sâu, bề cao, bề rộng phi thường.
Chân lý đó, tình yêu đó có sức giải cứu con người.
Chúng là lương thực nuôi dưỡng tinh thần.
Chúng mở rộng phạm vi tinh thần, để đón nhận Chúa và để Chúa ở lại.
Chúng đổi mới con người từ những lớp thẳm sâu nhất.
Chính vì vậy, mà nhiều người, khi được gặp Đức Bênêđictô XVI, đã nhận được một ấn tượng lạ lùng. Như thể họ đã gặp được bầu khí thiêng có Thiên Chúa hiện diện. Bầu khí thiêng đó không chỉ do chân lý và do tình yêu, mà do chính Thiên Chúa là nguồn chân lý và tình yêu cứu độ.
Một nét đặc biệt nữa của hình ảnh Đức Bênêđictô XVI là sự gắn kết. Ngài là con người gắn kết.
2. Con người gắn kết
Qua những hoạt động của Đức Bênêđictô XVI, tôi thấy Ngài rất ý thức về những dây liên hệ của Ngài. Ý thức sâu sắc về sự mình sống trong một hệ thống những dây liên hệ, đó là một trí thức cao. Sống có trách nhiệm với từng dây liên hệ của mình, đó là một đạo đức sâu.
Trước hết, Đức Thánh Cha sống gắn kết với Chúa một cách hết sức khiêm nhường. Ngài sống hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa. Luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa. Luôn tựa nương vào ơn Chúa. Luôn gắn bó với Chúa trong tâm tình tạ ơn phó thác.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với những người đau khổ, nghèo túng, bệnh tật, bị áp bức. Ngài gắn kết với họ bằng tâm tình liên đới, chia sẻ, đồng hành.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với những người lầm lạc. Ngài gắn kết bằng sự xót thương, kiên trì chờ đợi.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với các nền văn hoá, các dân tộc, các tôn giáo. Ngài gắn kết bằng sự tôn trọng những gì là tốt đẹp nơi họ, đồng thời cũng giới thiệu Tin Mừng của mình một cách tế nhị.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với tất cả mọi thành phần Dân Chúa. Ngài gắn kết qua mọi phục vụ của người chăn chiên tốt lành.
Tất cả mọi gắn kết với mọi người đều được thực hiện trong chân lý và tình yêu. Nhưng con người vẫn phức tạp. Lịch sử mà con người sinh sống cũng phức tạp. Vì thế, mọi liên hệ với con người trong lịch sử đều phải thực hiện trong sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Thánh Thần không miễn cho Đức Thánh Cha khỏi phải chiến đấu.
3. Con người chiến đấu
Là người đứng đầu Hội Thánh, Đức Thánh Cha đứng trước vô số vấn đề. Thấy được vấn đề đã là khó. Giải quyết được vấn đề càng khó hơn. Không có giải pháp sẵn. Không có giải pháp dễ dàng.
Phải suy tư. Phải nghiên cứu. Phải tìm tòi. Phải có kế hoạch. Riêng những vấn đề trong lãnh vực đạo đức, mục vụ, truyền giáo lại rất cần đến ơn Chúa để có thể giải quyết.
Trên con đường tìm tòi, nhất là trên con đường thực hiện giải quyết, sẽ không thiếu đủ thứ cản trở, từ ma quỷ, thế gian, xác thịt, đến chính nội bộ. Đó là một thực tế đau lòng. Chiến đấu với những cản trở là việc không dễ. Chiến đấu với những lực lượng phá hoại do Satan càng không dễ chút nào.
Tới đây, tôi nhớ lại một lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Hôm đó, trong buổi tiếp kiến riêng, tôi trình với Ngài những suy nghĩ của tôi về những việc Toà Thánh nên làm cho các hội thánh xa xôi, nghèo túng, bé nhỏ. Đức Gioan Phaolô II nghe một cách chăm chú. Ngài xúc động, thông cảm và trả lời một cách chân thành khiêm tốn: "Từ khi nhận chức Giáo Hoàng, tôi cũng có những ý nghĩ như Đức Cha. Nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa thực hiện được". Tôi hiểu là Đức Thánh Cha muốn nói đến những trở ngại. Mặc dù Ngài đã phấn đấu, nhưng những trở ngại vẫn còn và biết đâu lại tăng thêm.
Kinh nghiệm riêng tôi giúp tôi hiểu rõ ý Ngài. Với những gì là kinh nghiệm của tôi cũng như lời của Đức Gioan Phaolô II, tôi tin là Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI của chúng ta hiện nay cũng đã và đang phải chiến đấu rất nhiều. Những chiến đấu ấy không có tính cách đổ máu, nhưng là những chiến đấu nội tâm, tập trung trong đó nhiều đớn đau âm thầm. Từ ý muốn thánh thiện đến việc thực hiện ý muốn đó là cả một hành trình phức tạp. Cần hiểu sự thực đó, để tấm lòng hiệp thông của chúng ta đối với Đức Thánh Cha không những không bị suy giảm về những trở ngại, mà càng tăng thêm tâm tình đỡ nâng gắn bó.
4. Con người hành hương
Từ nhiều năm nay, mỗi chiều Chúa nhật, tôi thường mở truyền hình, tìm đài Ý, để tham dự giờ đọc kinh trưa của Đức Bênêđictô XVI với khách hành hương.
Đúng 12 giờ trưa của Ý, Đức Thánh Cha xuất hiện trước đám đông. Họ là những khách hành hương đến từ nhiều nước. Ngài chào thăm họ, đọc kinh chung với họ, và ban phép lành cho họ. Tôi có cảm tưởng Ngài cũng là một người hành hương. Tất cả cha con đều gọi Mẹ Maria, và cùng với Mẹ hướng về Thiên Chúa. Cha con thương yêu nhau, nâng đỡ nhau, đi theo Mẹ Maria, cầu nguyện với Cha trên trời.
Tôi cảm thấy hạnh phúc, vì có Ngài là người cha dẫn đầu cuộc hành hương. Tôi cảm thấy sung sướng, vì có Đức Mẹ Maria ở giữa đoàn con hành hương.
Có Đức Mẹ Maria và có Đức Thánh Cha trên đường hành hương trần thế này, đó là một ân huệ tuyệt vời, tôi sẽ muôn đời cảm tạ Chúa.
***
Trên đây là hình ảnh Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong lòng tôi. Chắc chắn hình ảnh Ngài còn nhiều nét đẹp khác. Tuy nhiên, mấy nét tinh thần tôi mạo muội diễn tả vẫn được tôi coi là do ơn Chúa. Từ những nét đó, tôi tiến sâu trong việc tin mến Đức Thánh Cha. Sự tin mến này mở đường cho nhiều sáng kiến cộng tác với Ngài. Thiết tưởng đó là một sự hiệp thông mà Chúa muốn.
Trong ý hướng đó, Chúa đã cho hiện lên trong lòng tôi một hình ảnh về Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Tất nhiên đây là một hình ảnh có những nét thiêng liêng. Hình ảnh đó ví như một sức mạnh kỳ diệu, mở hồn tôi ra, để tôi nhận thấy bầu trời hiệp thông với Đức Thánh Cha là rất phong phú.
Tôi xin được chia sẻ vắn gọn một số nét của hình ảnh đó.
1. Con người trao tặng
Đức Bênêđictô XVI là con người đơn sơ, giản dị. Ấn tượng rõ nhất khi gặp Ngài, không phải là con người quyền lực, nhưng là con người trao tặng. Quà, mà Ngài trao tặng là chân lý và tình yêu.
Chân lý và tình yêu do Ngài trao tặng không phải là những lý thuyết về chân lý và tình yêu, nhưng là chân lý và tình yêu đã trở thành sự sống nơi Ngài. Những giá trị tinh thần cao quý ấy đã chảy vào hồn Ngài từ nhiều nguồn như Triết học, Thần học, Kinh Thánh, nhất là từ đức tin, đức cậy, đức mến.
Chân lý đó, tình yêu đó có bề sâu, bề cao, bề rộng phi thường.
Chân lý đó, tình yêu đó có sức giải cứu con người.
Chúng là lương thực nuôi dưỡng tinh thần.
Chúng mở rộng phạm vi tinh thần, để đón nhận Chúa và để Chúa ở lại.
Chúng đổi mới con người từ những lớp thẳm sâu nhất.
Chính vì vậy, mà nhiều người, khi được gặp Đức Bênêđictô XVI, đã nhận được một ấn tượng lạ lùng. Như thể họ đã gặp được bầu khí thiêng có Thiên Chúa hiện diện. Bầu khí thiêng đó không chỉ do chân lý và do tình yêu, mà do chính Thiên Chúa là nguồn chân lý và tình yêu cứu độ.
Một nét đặc biệt nữa của hình ảnh Đức Bênêđictô XVI là sự gắn kết. Ngài là con người gắn kết.
2. Con người gắn kết
Qua những hoạt động của Đức Bênêđictô XVI, tôi thấy Ngài rất ý thức về những dây liên hệ của Ngài. Ý thức sâu sắc về sự mình sống trong một hệ thống những dây liên hệ, đó là một trí thức cao. Sống có trách nhiệm với từng dây liên hệ của mình, đó là một đạo đức sâu.
Trước hết, Đức Thánh Cha sống gắn kết với Chúa một cách hết sức khiêm nhường. Ngài sống hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa. Luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa. Luôn tựa nương vào ơn Chúa. Luôn gắn bó với Chúa trong tâm tình tạ ơn phó thác.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với những người đau khổ, nghèo túng, bệnh tật, bị áp bức. Ngài gắn kết với họ bằng tâm tình liên đới, chia sẻ, đồng hành.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với những người lầm lạc. Ngài gắn kết bằng sự xót thương, kiên trì chờ đợi.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với các nền văn hoá, các dân tộc, các tôn giáo. Ngài gắn kết bằng sự tôn trọng những gì là tốt đẹp nơi họ, đồng thời cũng giới thiệu Tin Mừng của mình một cách tế nhị.
Đức Thánh Cha sống gắn kết với tất cả mọi thành phần Dân Chúa. Ngài gắn kết qua mọi phục vụ của người chăn chiên tốt lành.
Tất cả mọi gắn kết với mọi người đều được thực hiện trong chân lý và tình yêu. Nhưng con người vẫn phức tạp. Lịch sử mà con người sinh sống cũng phức tạp. Vì thế, mọi liên hệ với con người trong lịch sử đều phải thực hiện trong sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Thánh Thần không miễn cho Đức Thánh Cha khỏi phải chiến đấu.
3. Con người chiến đấu
Là người đứng đầu Hội Thánh, Đức Thánh Cha đứng trước vô số vấn đề. Thấy được vấn đề đã là khó. Giải quyết được vấn đề càng khó hơn. Không có giải pháp sẵn. Không có giải pháp dễ dàng.
Phải suy tư. Phải nghiên cứu. Phải tìm tòi. Phải có kế hoạch. Riêng những vấn đề trong lãnh vực đạo đức, mục vụ, truyền giáo lại rất cần đến ơn Chúa để có thể giải quyết.
Trên con đường tìm tòi, nhất là trên con đường thực hiện giải quyết, sẽ không thiếu đủ thứ cản trở, từ ma quỷ, thế gian, xác thịt, đến chính nội bộ. Đó là một thực tế đau lòng. Chiến đấu với những cản trở là việc không dễ. Chiến đấu với những lực lượng phá hoại do Satan càng không dễ chút nào.
Tới đây, tôi nhớ lại một lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Hôm đó, trong buổi tiếp kiến riêng, tôi trình với Ngài những suy nghĩ của tôi về những việc Toà Thánh nên làm cho các hội thánh xa xôi, nghèo túng, bé nhỏ. Đức Gioan Phaolô II nghe một cách chăm chú. Ngài xúc động, thông cảm và trả lời một cách chân thành khiêm tốn: "Từ khi nhận chức Giáo Hoàng, tôi cũng có những ý nghĩ như Đức Cha. Nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa thực hiện được". Tôi hiểu là Đức Thánh Cha muốn nói đến những trở ngại. Mặc dù Ngài đã phấn đấu, nhưng những trở ngại vẫn còn và biết đâu lại tăng thêm.
Kinh nghiệm riêng tôi giúp tôi hiểu rõ ý Ngài. Với những gì là kinh nghiệm của tôi cũng như lời của Đức Gioan Phaolô II, tôi tin là Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI của chúng ta hiện nay cũng đã và đang phải chiến đấu rất nhiều. Những chiến đấu ấy không có tính cách đổ máu, nhưng là những chiến đấu nội tâm, tập trung trong đó nhiều đớn đau âm thầm. Từ ý muốn thánh thiện đến việc thực hiện ý muốn đó là cả một hành trình phức tạp. Cần hiểu sự thực đó, để tấm lòng hiệp thông của chúng ta đối với Đức Thánh Cha không những không bị suy giảm về những trở ngại, mà càng tăng thêm tâm tình đỡ nâng gắn bó.
4. Con người hành hương
Từ nhiều năm nay, mỗi chiều Chúa nhật, tôi thường mở truyền hình, tìm đài Ý, để tham dự giờ đọc kinh trưa của Đức Bênêđictô XVI với khách hành hương.
Đúng 12 giờ trưa của Ý, Đức Thánh Cha xuất hiện trước đám đông. Họ là những khách hành hương đến từ nhiều nước. Ngài chào thăm họ, đọc kinh chung với họ, và ban phép lành cho họ. Tôi có cảm tưởng Ngài cũng là một người hành hương. Tất cả cha con đều gọi Mẹ Maria, và cùng với Mẹ hướng về Thiên Chúa. Cha con thương yêu nhau, nâng đỡ nhau, đi theo Mẹ Maria, cầu nguyện với Cha trên trời.
Tôi cảm thấy hạnh phúc, vì có Ngài là người cha dẫn đầu cuộc hành hương. Tôi cảm thấy sung sướng, vì có Đức Mẹ Maria ở giữa đoàn con hành hương.
Có Đức Mẹ Maria và có Đức Thánh Cha trên đường hành hương trần thế này, đó là một ân huệ tuyệt vời, tôi sẽ muôn đời cảm tạ Chúa.
***
Trên đây là hình ảnh Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong lòng tôi. Chắc chắn hình ảnh Ngài còn nhiều nét đẹp khác. Tuy nhiên, mấy nét tinh thần tôi mạo muội diễn tả vẫn được tôi coi là do ơn Chúa. Từ những nét đó, tôi tiến sâu trong việc tin mến Đức Thánh Cha. Sự tin mến này mở đường cho nhiều sáng kiến cộng tác với Ngài. Thiết tưởng đó là một sự hiệp thông mà Chúa muốn.
Tổng giáo phận Sài Gòn sẽ tổ chức một hội đồng cấp giáo phận
VietCatholic chuyển ngữ
09:23 17/02/2011
UCANEWS, 17 Tháng Hai 2011 - Một giáo phận ở miền Nam Việt Nam có kế hoạch tổ chức một hội đồng cấp giáo phận vào cuối năm nay, nhằm thúc đẩy sự đổi mới trong đời sống của Giáo Hội địa phương và nâng cao tình đoàn kết và hiệp nhất giữa những người Công giáo.
"Hội đồng này của tổng giáo phận là cần thiết để tạo cơ hội cho tất cả người Công giáo địa phương nuôi dưỡng sự hiệp thông, tình huynh đệ, sự hiệp nhất, và thúc đẩy sự đổi mới trong đời sống đức tin của họ", Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn của TPHCM nói.
Hội đồng sẽ diễn ra từ ngày 21-25 Tháng Mười Một tại Trung tâm Mục vụ của thành phố. Khoảng 250 linh mục địa phương, tu sĩ và lãnh đạo giáo dân dự kiến sẽ tham dự.
Đức Hồng Y Mẫn - 76 tuổi - cho biết ban thư ký của hội đồng gồm các chuyên gia trong lĩnh vực thần học, thánh kinh, phụng vụ, giáo luật và truyền giáo sẽ sớm được thành lập, tạo điều kiện đổi mới trong giới giáo chức, cách thức thực hành đức tin và tổ chức sứ vụ của Giáo Hội, giáo đoàn, tu hội và các giáo xứ, cùng những phương thức để cầu nguyện. "Những sáng kiến đó nhằm mục đích làm cho gia đình tổng giáo phận của Giáo Hội Chúa Kitô đến với mọi người và giữa đất nước", Đức Hồng Y lưu ý.
Ngài còn cho biết, trên cơ sở các đề xuất tại Đại hội Dân Chúa vào năm ngoái và Sứ điệp từ Đại hội này, người Công giáo địa phương dự kiến sẽ đưa ra những ý tưởng của riêng mình trước hội đồng.
Đức Hồng Y lưu ý rằng, sống dưới chế độ cộng sản từ năm 1975, nhiều người Công giáo địa phương hành động tự vệ để tồn tại, những người khác thì ủng hộ chính sách của chính phủ và một số người thì thấy việc thực hành đức tin của họ bị giới hạn và các Giáo Hội địa phương bị chính phủ đàn áp.
Ngài nói, sau năm 1975, 120.000 người Công giáo và 300 linh mục đã chuyển đi nơi khác hoặc bỏ ra nước ngoài. 400 cơ sở Giáo Hội địa phương bị tịch thu.
Từ khi tổng giáo phận được thành lập vào năm 1960 cho đến năm 2009, đã có 662.000 giáo dân trong 200 giáo xứ, với 650 linh mục phục vụ và 4.750 tu sĩ. 79 giáo đoàn và tu hội địa phương điều hành 190 trường dạy nghề, tổ chức bác ái và các trung tâm chăm sóc bệnh nhân.
(Nguồn: http://www.ucanews.com/2011/02/17/archdiocesan-synod-to-stimulate-innovations-in-church-life)
"Hội đồng này của tổng giáo phận là cần thiết để tạo cơ hội cho tất cả người Công giáo địa phương nuôi dưỡng sự hiệp thông, tình huynh đệ, sự hiệp nhất, và thúc đẩy sự đổi mới trong đời sống đức tin của họ", Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn của TPHCM nói.
Hội đồng sẽ diễn ra từ ngày 21-25 Tháng Mười Một tại Trung tâm Mục vụ của thành phố. Khoảng 250 linh mục địa phương, tu sĩ và lãnh đạo giáo dân dự kiến sẽ tham dự.
Đức Hồng Y Mẫn - 76 tuổi - cho biết ban thư ký của hội đồng gồm các chuyên gia trong lĩnh vực thần học, thánh kinh, phụng vụ, giáo luật và truyền giáo sẽ sớm được thành lập, tạo điều kiện đổi mới trong giới giáo chức, cách thức thực hành đức tin và tổ chức sứ vụ của Giáo Hội, giáo đoàn, tu hội và các giáo xứ, cùng những phương thức để cầu nguyện. "Những sáng kiến đó nhằm mục đích làm cho gia đình tổng giáo phận của Giáo Hội Chúa Kitô đến với mọi người và giữa đất nước", Đức Hồng Y lưu ý.
Ngài còn cho biết, trên cơ sở các đề xuất tại Đại hội Dân Chúa vào năm ngoái và Sứ điệp từ Đại hội này, người Công giáo địa phương dự kiến sẽ đưa ra những ý tưởng của riêng mình trước hội đồng.
Đức Hồng Y lưu ý rằng, sống dưới chế độ cộng sản từ năm 1975, nhiều người Công giáo địa phương hành động tự vệ để tồn tại, những người khác thì ủng hộ chính sách của chính phủ và một số người thì thấy việc thực hành đức tin của họ bị giới hạn và các Giáo Hội địa phương bị chính phủ đàn áp.
Ngài nói, sau năm 1975, 120.000 người Công giáo và 300 linh mục đã chuyển đi nơi khác hoặc bỏ ra nước ngoài. 400 cơ sở Giáo Hội địa phương bị tịch thu.
Từ khi tổng giáo phận được thành lập vào năm 1960 cho đến năm 2009, đã có 662.000 giáo dân trong 200 giáo xứ, với 650 linh mục phục vụ và 4.750 tu sĩ. 79 giáo đoàn và tu hội địa phương điều hành 190 trường dạy nghề, tổ chức bác ái và các trung tâm chăm sóc bệnh nhân.
(Nguồn: http://www.ucanews.com/2011/02/17/archdiocesan-synod-to-stimulate-innovations-in-church-life)
Giáo hạt Gia Định họp mặt Tân Niên Tân Mão
Lê Hoàng
12:01 17/02/2011
SAIGÒN - Theo truyền thống, Giáo hạt Gia định – TGP Sài Gòn tổ chức buổi họp mặt Tân Niên vào thứ Ba đầu tuần sau Tết Cổ truyền.
Xem hình ảnh
Ngày 15/02/2011, gần 20 Linh mục, đại diện các Dòng Tu và Hội đồng Mục vụ của 14 giáo xứ thuộc Giáo hạt Gia Định đã về Nhà Thờ Thanh Đa để gặp mặt và trao đổi về kinh nghiệm mục vụ.
Năm nay có thêm thành viên mới là Giáo xứ Martinô, trước là một Giáo khu của Giáo xứ Thị Nghè do Linh mục Phêrô Vũ Minh Hùng làm Cha Sở đầu tiên.
Đức Cha Phụ tá Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã chủ trì buổi họp mặt, Ngài đã chia sẻ và phân tích Sứ Điệp Đại hội Dân Chúa vừa qua cách rõ ràng, dễ hiểu.
Sau khi tóm lược Sứ điệp ĐHDC, Đức Cha đã khơi gợi ý thức về vai trò của người giáo dân ngày nay:
Đức Cha Phụ tá cũng lưu ý: tương quan cộng tác giữa HĐMV và Cha Sở phải là tương quan tốt đẹp và hài hòa, chấp nhận hy sinh, chịu đựng và tha thứ cho nhau.
Tương quan giữa các thành viên trong HĐMV với nhau: phải lấy lợi ích chung làm mục đích, để cùng liên kết, hiệp thông trong công việc. Đồng thời, mỗi thành viên phải trau dồi đời sống đạo đức, mẫu mực, gia tăng sự hiểu biết với các vấn đề của Giáo hội.
Sau Thánh lễ, Đức Cha Phụ tá đã chụp hình lưu niệm chung với các Linh mục, đại diện các Dòng Tu và Hội đồng Mục vụ của 14 Giáo xứ.
Mọi người cùng tạ ơn Chúa và dùng cơm thân mật tại Hội trường Giáo xứ trong bầu khí hân hoan của tình hiệp thông và liên đới.
Xem hình ảnh
Ngày 15/02/2011, gần 20 Linh mục, đại diện các Dòng Tu và Hội đồng Mục vụ của 14 giáo xứ thuộc Giáo hạt Gia Định đã về Nhà Thờ Thanh Đa để gặp mặt và trao đổi về kinh nghiệm mục vụ.
Năm nay có thêm thành viên mới là Giáo xứ Martinô, trước là một Giáo khu của Giáo xứ Thị Nghè do Linh mục Phêrô Vũ Minh Hùng làm Cha Sở đầu tiên.
Đức Cha Phụ tá Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã chủ trì buổi họp mặt, Ngài đã chia sẻ và phân tích Sứ Điệp Đại hội Dân Chúa vừa qua cách rõ ràng, dễ hiểu.
Sau khi tóm lược Sứ điệp ĐHDC, Đức Cha đã khơi gợi ý thức về vai trò của người giáo dân ngày nay:
- Tất cả mọi người đều bình đẳng trong các sinh hoạt tại Nhà Thờ, không phân biệt chức vụ, giàu sang.
- Mọi tín hữu phải ý thức mình là một thành viên của Giáo hội, cùng tham gia vào công việc chung của giáo xứ, chứ không phải đến ngày Chúa Nhật đến dự lễ rồi ra về mà không hề quan tâm các sinh hoạt khác của giáo xứ.
Đức Cha Phụ tá cũng lưu ý: tương quan cộng tác giữa HĐMV và Cha Sở phải là tương quan tốt đẹp và hài hòa, chấp nhận hy sinh, chịu đựng và tha thứ cho nhau.
Tương quan giữa các thành viên trong HĐMV với nhau: phải lấy lợi ích chung làm mục đích, để cùng liên kết, hiệp thông trong công việc. Đồng thời, mỗi thành viên phải trau dồi đời sống đạo đức, mẫu mực, gia tăng sự hiểu biết với các vấn đề của Giáo hội.
Sau Thánh lễ, Đức Cha Phụ tá đã chụp hình lưu niệm chung với các Linh mục, đại diện các Dòng Tu và Hội đồng Mục vụ của 14 Giáo xứ.
Mọi người cùng tạ ơn Chúa và dùng cơm thân mật tại Hội trường Giáo xứ trong bầu khí hân hoan của tình hiệp thông và liên đới.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tác phẩm: Hội Đồng Qúy Chức - Chương I
Lm . Mai Đức Vinh
09:34 17/02/2011
HỘI ĐỒNG QUÝ CHỨC
Quý Chức Họ Đạo Ở Việt Nam
Tham Gia Vào Thừa Tác Vụ Của Linh Mục.
MỪNG NGÂN KHÁNH
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
GIÁO XỨ VIỆT NAM – PARIS
1983 – 2008
Tái bản lần 1, có tu bổ và cải tiến
Ấn bản tin học
Paris
2011
HỘI ĐỒNG QUÝ CHỨC
Quý Chức Họ Đạo Ở Việt Nam
Tham Gia Vào Thừa Tác Vụ Của Linh Mục.
MỪNG NGÂN KHÁNH
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
GIÁO XỨ VIỆT NAM – PARIS
1983 – 2008
Paris
2008
HỘI ĐỒNG QUÝ CHỨC
Chủ trương:
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
Phối trí:
Mai Đức Vinh
Chuyển ngữ:
Trần Thị Kim Chi, Phạm Hòa Hiệp, Bùi Trọng Khang, Đoàn Quốc Khánh, Mai Đức Vinh
Phụ lục:
Trần Văn Cảnh, Lê Đình Thông
Đọc và tu chính bản Văn:
Bùi Thị Lý, Thân Thị Kim Liên, Mai Đức Vinh
Trình bày nội dung:
Thân Thị Kim Liên, Nguyễn Văn Thạch.
Trình bày bìa:
Ngô Thị Kim Đào, Vũ Đình Khiêm
An phí:
Giáo Xứ Việt Nam - Paris
M ỤC L ỤC
LỜI NGỎ / Lê đình Thông
XÁC ĐỊNH MỘT SỐ DANH TỪ / Mai Đức Vinh
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT / Mai Đức Vinh
NHẬP ĐỀ / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG I: Lịch sử đại cương của Giáo Hội Việt Nam / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG II: Diễn tiến lịch sử công trình tổ chức HĐQC Họ đạo Việt Nam / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG III: Khuôn mặt một Họ đạo Việt Nam / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG IV: Tham gia vào Thừa Tác Vụ Thánh Hóa / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG V: Tham gia vào Thừa Tác Vụ Giảng Huấn / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG VI: Tham gia vào Thừa Tác Vụ Quản Trị / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG VII: Hội Đồng Quý Chức dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II / Mai Đức Vinh
T ỔNG K ẾT / Mai Đức Vinh
PH Ụ LỤC I: Tiến trình thành lập HĐMV – GXVN Paris / Trần Văn Cảnh
PH Ụ LỤC II: Hình thành và tu chính Nội Quy HĐMV / Lê Đình Thông
PH Ụ LỤC III: Hội Đồng Mục Vụ (thơ) / Cung Chi
PH Ụ LỤC IV: Sứ mệnh và công tác của HĐMV / Trần Văn Cảnh
PH Ụ LỤC V: Niềm vui chung / Mai Đức Vinh
TÀI LIỆU THAM KHẢO / Mai Đức Vinh
LỜI NGỎ
Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Việt Nam Paris, vui mừng gửi đến Quý Độc Giả cuốn sách ‘HỘI ĐỒNG QUÍ CHỨC’, (Quý Chức họ đạo ở Việt Nam tham gia vào thừa tác vụ của Linh Mục). Cuốn sách này được chuyển ngữ từ luận án Tiến Sĩ Thần Học Mục Vụ «La Participation des Notables de Chrétientés Vietnamiennes aux Ministères des Prêtres» của cha Giuse Mai Đức Vinh. Ngài đã bảo vệ luận án này tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinô quen gọi là đại học Angelicum, tại Roma năm 1977. Chúng tôi làm chung công việc này với những mục đích sau đây:
• Cảm tạ Thiên Chúa, Đức Mẹ Lavang về bao nhiêu hồng ân đổ xuống trên Dân Tộc Việt Nam, Giáo Hội Việt Nam và tiêu biểu là một đoàn ngũ giáo dân Việt Nam ưu tuyển mang danh là ‘Hội Đồng Chức Việc’ hay ‘Hội Đồng Quí Chức’ của các Họ Đạo Việt Nam.
• Ghi ơn các Linh Mục, Tu Sĩ Thừa Sai dấn thân cho công trình Truyền Giáo tại Việt Nam với sức mạnh niềm tin bất khuất, với tinh thần hy sinh cao cả và với phương pháp truyền giáo tuyệt vời.
• Nêu bật tấm gương sống đạo của Tổ Tiên mà tiêu biểu là những Chức Việc hay Quý Chức thành viên của các Hội Đồng Chức Việc hay Hội Đồng Quý Chức của Họ Đạo. Quý ngài là những người đã thực sự ‘bền vững sống đức tin, can đảm bênh vực đức tin và nhiệt thành truyền bá đức tin’ (Giáo Lý Thêm Sức).
• Nêu bật sự hợp tác tông đồ giữa Giáo Sĩ và Giáo Dân, nói khác sự tham gia tích cực và đa diện của Hội Đồng Quí Chức vào các Thừa Tác Thánh hóa, Giáo huấn và Quản trị (officium sanctificandi, docendi et regendi) của các linh mục. Sự hợp tác này là một điểm son của lịch sử Truyền Giáo tại Việt Nam, vì nó đã củng cố và phát triển Giáo Hội Việt Nam ngay trong những thời kỳ bách, và hơn thế, nó thích hợp với giáo huấn của Công Đồng Vatican II về hoạt động tông đồ giáo dân, nó là kiểu mẫu cho Hội Đồng Giáo Xứ vào các thập niên 1950-1970 và Hội Đồng Mục Vụ hiện nay ở Việt Nam.
• Góp phần cung ứng tài liệu ‘huấn luyện tông đồ giáo dân’, ‘đào tạo nhân sự’ đang thể hiện trong các Chủng Viện và các Phong Trào Tông Đồ Giáo Dân… tại Việt Nam.
• Đặc biệt để Mừng lễ Ngân Khánh của Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Việt Nam Paris đã tích cực sinh hoạt từ 25 năm qua (1983-2008). Các thành viên của Hội Đồng Mục Vụ là những giáo dân sốt sắng sống đạo, nhiệt tình xây dựng Giáo Xứ… theo tinh thần tông đồ giáo dân của Công Đồng Vatican II và theo gương mẫu của các Bậc Tiền Bối.
Với những thiện ý như trên, chúng tôi chân thành xin Quý Độc Giả xa gần miện tình cho những thiếu sót, và hết lòng cám ơn những Người đã cộng tác thực hiện, cũng như mội Độc Giả thịnh tình đón nhận cuốn sách này.
Tất cả vì Vinh Danh Thiên Chúa và Giáo Hội.
Paris, Phục Sinh 2008, thay mặt Hội Đồng Mục Vụ:
Ls. Phanxicô Xavie Lê Đình Thông
Chủ Tịch HĐMV – GXVNP
XÁC ĐỊNH MỘT SỐ DANH TỪ
I. Về mấy cụm từ chính thức : Vì đây không phải là cuốn sách chuyên đề lịch sử và muốn đơn giản hóa cho người đọc ‘khỏi rối trí’, nên trong cuốn sách này, thay vì dùng những cụm từ chính thức, như ‘Điạ phận Đàng Trong’, ‘địa phận Đàng Ngoài’, ‘địa phận Tây Đàng Ngoài’, ‘địa phận Đông Đàng Trong’… chúng tôi mạn phép dùng những cụm từ quen thuộc và đơn giản hơn, như ‘giáo phận Sài Gòn’, ‘giáo phận Hà Nội’, ‘giáo phận Hải Phòng’….
II. Giáo Phận, Giám Mục.
Dựa vào Giáo Luật:
• Điều 368: Các Giáo Hội địa phương, trong đó và từ đó mà Giáo Hội Công Giáo duy nhất hiện hữu, ám chỉ trước hết là các giáo phận, các lãnh thổ thuộc giám hạt tòng thổ và đan viện tòng thổ, Đại diện Tông Toà và Phủ Doãn Tông Tòa và cả Giám Quản Tông Tòa được thiết lập cách thường trực cũng được đồng hóa với các giáo phận, trừ khi đã rõ cách nào khác.
• Điều 371: 1) Hạt Đại Diện Tông Tòa, hoặc Hạt Phủ Doãn Tông Tòa, là một phần nhất định của dân Chúa, mà vì hoàn cảnh đặc biệt, chưa được thiết lập như là một giáo phận, và việc chăn dắt được giao cho một Đại Diện Tông Tòa hoặc cho một Phủ Doãn Tông Tòa để quản trị thay mặt đức thánh cha.
Và dựa vào thói quen ở Việt Nam:
• Trừ trong những văn kiện chính thức, còn trong thực tế, từ đầu đến trước 1960, khi Tòa Thánh chính thức lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, người ta không dùng cụm từ ‘Hạt Đại Diện Tông Tòa’ nhưng là ĐỊA PHẬN hay GIÁO PHẬN.
• Cũng không dùng cụm từ ‘Giám Quản Tông Tòa’ mà vắn gọn hơn là ‘Giám Mục’.
Trong cuốn sách này chúng tôi dùng từ ‘GIÁO PHẬN’ thay cụm từ Hạt Đại Diện Tông Tòa và từ ‘GIÁM MỤC’ thay cụm từ ‘Giám Quản Tông Tòa’.
III. Về Công Nghị: cũng vậy, thay vì viết ‘Công Nghị Tonkin’, ‘Công Nghị Cochinchine’, chúng tôi dùng cụm từ ‘Công Nghị Bắc Kỳ’, ‘Công Nghị Nam Kỳ’…
IV. Họ Đạo
Dựa vào Giáo Luật
• Điều 516,1) Trừ khi luật quy định cách khác, chuẩn giáo xứ cũng được đồng hoá với giáo xứ. Chuẩn giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu ở trong Giáo Hội địa phương được ủy thách cho một tư tế như là chủ chăn riêng, nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt chưa được thiết lập thành giáo xứ.
• 2) Ở đâu các cộng đoàn không thể thành lập giáo xứ hay chuẩn giáo xứ được, thì giám mục giáo phận phải dự liệu việc săn sóc mục vụ cho họ bằng cách khác.
Và vào thói quen ở Việt Nam:
• Trong thời truyền giáo, kể cả trước năm 1960, ở Việt Nam chưa có giáo xứ theo Giáo Luật, chỉ có ‘chuẩn giáo xứ’, và mỗi chuẩn giáo xứ lại có nhiều ‘cộng đoàn không thể lập thành chuẩn giáo xứ’.
• Tại Việt Nam, người ta quen dùng từ HỌ ĐẠO để chỉ chung về các họ chánh và họ lẻ.
Vì thế, trong cuốn sách này chúng tôi dùng chung một từ HỌ ĐẠO (Chrétienté) thay vì dùng nhiều từ tách biệt ‘chuẩn giáo xứ, họ chánh, họ lẻ…’
V. Quý Chức hay Chức Việc, Chức Sở là ba từ mà chúng tôi, dựa các văn bản chính thức vào thói quen ở Việt Nam, dùng để chỉ chung những giáo dân được đề cử hay tuyển chọn làm nên Hội Đồng Quý Chức, Hội Đồng Chức Việc hay Hội Đồng Chức Sở, để cộng tác với linh mục trong việc điều hành Họ Đạo. Chúng tôi muốn dành từ Chức Sắc hay Kỳ Mục cho những người có thế giá và chức phận trong các làng, xã dân sự.
VI. Sau cuốn Chức Sở Mục Lệ (1884), còn có những tài liệu chính thức khác có hệ đến Hội Đồng Quí Chức, chúng tôi mạn phép phân biệt:
• Từ CHỈ NAM (Directoire) cho những cuốn ‘Directoires’ của nhiều giáo phận đã ban hành sau Công Đồng Đông Dương (1934): như cuốn Chỉ Nam của giáo phận Quy Nhơn…
• Từ QUY CHẾ (Statut) cho những cuốn ‘Quy Chế Hội Đồng Giáo Xứ của hầu hết các giáo phận ở Miền Nam đã ban hành sau Công Đồng Vatican II (1965).
• Từ NỘI QUY (règlement) cho cuốn ‘Nội Quy Hội Đồng Mục Vụ’ của hầu hết các giáo phận hiện nay.
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
AD: Acta et Decreta Primae Regionalis Tunquini (1990).
AME: Archives des Missions Etrangères de Paris
APF: Annales de la Propagande de la Foi
ASME: Annales de la Société des Missions Etrangères de Paris
Bull.MEP: Bulletin des Missions Etrangères de Paris.
CNNK: Công Nghị Nam Kỳ (Synode de Cochinchine, 1880)
CNF: Công Nghị Faifo (Synode de Faifo, 1672)
CSML: Chức Sở Mục Lệ (Le Règlement des Notables, 1884)
DCO: Directoire pour la Cochinchine Occidentale (Chỉ Nam giáo phận Sàigòn) (1922)
DH: Directoire du Vicariat Apostolique de Huế (Chỉ Nam Giáo Phận Huế) (1941)
DHN: Directorium Vicariatus Apostolici de Hà–Nội (1941).
DQN: Directoire du Vicariat Apostolique de Quy–Nhơn (1941)
ĐT: Đào Tạo các Linh Mục (Sắc lệnh Optatam Totius, 28.10.1965)
ES: Ecclesiae Sanctae (Motu proprio, 1966)
GH: Giáo Hội (Constitutio Lumen Gentium, 21.11.1964).
GM: Sắc lệnh về nhiệm vụ của các Giám Mục (Drec. Christus Dominus 28. 10. 1965)
HN: Sắc lệnh về Hiệp Nhất (Dcret. Unitatis Redintegratio, 21.11.1964).
LM: Sắc lệnh về chức vụ và đời sống Linh Mục (Dec. Presbyterorum Ordinis, 7. 2. 1965)
MBTC: Sách Mười Bảy Thư Chung của ba Giám Mục Sàigòn (1958)
MC: Les Missions Catholiques (báo).
MV: Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới ngày nay (Const. Gaudium et Spes, 7. 12. 1965)
NKĐP: Nam Kỳ Địa Phận (Báo của giáo phận Sài Gòn)
PCI: Primum Concilium Indoniense (1934).
PV: Hiến chế về Phụng Vụ (Decretum Sacra Liturgia, 4.13.1963).
QCHĐGX / CT, ĐL, H, LX, NT, PC, SG, XL: Quy Chế Hội Đồng Giáo Xứ / (giáo phận) Cần Thơ (1972), Đà Lạt (1973), Huế (1969), Long Xuyên (1971), Nha Trang (1970), Phú Cường (1971), Sài Gòn (1971), Xuân Lộc (1971).
SCPFMR: Sacrae Congregationis de Propaganda Fide Memoria Rerum (3 cuốn, 1972-1975)
SI: Sacerdos Indoniensis (Báo)
TCĐPT: Thơ Chung Địa Phận Thanh (1920)
TCĐPĐN: Thơ Chung Địa Phận Tây Đàng Ngoài (1901 – 1908)
TĐ: Sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân (Decr. Apostolicam Actuositatem, 18.11.1965)
TG: Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội (Decr. Ad Gentes, 7. 12. 1965)
TH: Sách Tử Hầu (1942)
sd: sách dẫn
tr.: trang
trg.: trong
Luận án tiến sĩ thần học của cha Giuse Mai Đức Vinh, Xuân Bích,
dưới sự hướng dẫn của cha Raphaël MOYA, Đa-Minh
trình năm 1977
tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thoma Aquino, Roma, Ý Đại Lợi
NHẬP ĐỀ
‘QUÝ CHỨC CỦA CÁC HỌ ĐẠO TẠI VIỆT NAM THAM GIA VÀO THỪA TÁC VỤ CỦA LINH MỤC’ (La participation des Notables de Chrétientés Vietnamiennes aux Ministères des Prêtres) (1) là đề tài luận án của chúng tôi.
Những lý do thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài này thì đơn giản và cụ thể: sau nhiều năm làm việc tại Đại Chủng Viện Giáo Tỉnh Huế, chúng tôi luôn ưu tư về việc huấn luyện mục vụ cho các chủng sinh (2). Trong các giáo phận gửi chủng sinh đến chủng viện, có nhiều vấn đề trầm trọng đặt ra về việc đào tạo giáo dân, cách riêng các thành viên của các Hội Đồng Giáo Xứ, để họ dấn thân làm việc tông đồ (3). Từ mối ưu tư đó, tôi ý thức nhiều về tầm quan trọng lớn lao của việc tông đồ giáo dân gắn liền với thừa tác mục vụ của linh mục. Đang khi đó, Hội Đồng Quí Chức Họ Đạo là tổ chức tuyệt hảo trong việc tông đồ có tương quan thường xuyên với các linh mục. Vì thế tôi quyết tâm đào sâu một vấn đề nào trực tiếp tương quan như vậy trong sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội.
Trong hoàn cảnh riêng của Giáo Hội Việt Nam, việc tổ chức Hội Đồng Giáo Xứ theo giáo huấn Công Đồng Vatican II, không phải là một sáng kiến hoàn toàn mới mẻ. Đúng ra chúng ta có thể nói tổ chức này chỉ là một việc đổi mới, việc thích ứng hay canh tân một hệ thống đã có ngay từ buổi đầu của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam: Hội Đồng Quí Chức hay Hội Đồng Chức Việc của Họ Đạo. Chính vì thế, chúng tôi cảm nghiệm sâu đậm rằng: việc nghiên cứu lịch sử và mục vụ của tổ chức tông đồ giáo dân này đối với chúng tôi, là thiết yếu.
Công việc nghiên cứu này được đóng khung giữa hai niên tuế quan trọng 1533 và 1953. Năm 1533 chính là năm khởi đầu công trình Truyền Giáo tại Việt Nam, hay đúng hơn là năm chào đời của Giáo Hội Việt Nam. Chính vì đời sống của Giáo Hội này mà Hội Đồng Quí Chức được thiết lập. Tổ chức này tiến triển và gầy tạo nhiều sự nghiệp tông đồ sáng giá. Còn năm 1953 là năm ấn hành lần cuối cùng một tài liệu liên quan trực tiếp đến tổ chức các Hội Đồng Quí Chức. Đó là cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert đã soạn và xuất bản năm 1884. rồi đức cha Phêrô Ngô Đình Thục, bấy giờ là giám mục giáo phận Vĩnh Long, đã tu chính lại đôi chút trước khi tái bản, năm 1953. Hơn thế 1953, là niên tuế giáp cận với một biến cố lớn trong Lịch Sử Nước Việt Nam: Ngày 20.07.1954, hiệp định đình chiến tại Genève chia đôi nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17, Miền Bắc thuộc chính phủ Cộng Sản và Miền Nam thuộc chính phủ Quốc Gia. Đương nhiên Giáo Hội Việt Nam cũng bị chia thành hai: Giáo Hội Miền Bắc nằm dưới chế độ Cộng Sản, và Giáo Hội Miền Nam dưới chế độ Quốc Gia (4).
Công việc làm của chúng tôi nhằm vào những mốc điểm rõ ràng: Trước tiên chúng tôi trình bày đại cương lịch sử của Giáo Hội Việt Nam (Ch. I) và sự tiến triển lịch sử của Hội Đồng Quý Chức (Ch. II). Hội Đồng Quí Chức không được thành hình trên bình diện quốc gia hay giáo phận, mà thực tế chỉ ở trên bình diện mỗi họ đạo. Vì thế, sau khi trình bày những đường nét chung lịch sử, chúng tôi quan tâm đến khuôn mặt của một họ đạo tại Việt Nam: Một trong những đặc tính đáng chú ý của các họ đạo Việt Nam, là được tổ chức theo khuôn khổ của một làng xã cổ truyền và hành chánh. Vì thế chúng tôi phải trình bày khuôn mặt của một làng xã hành chánh và cổ truyền trước khi vẽ lại khuôn mặt của một họ đạo Việt Nam (Ch. III). Tuy đơn giản, nội dung trình bày của ba chương đầu cho phép chúng tôi đề cập đến việc tham gia của Quí Chức vào các Thừa Tác Vụ của Linh Mục: Thừa Tác Vụ Thánh Hóa (officium sanctificandi) (Ch. IV), Thừa Tác Vụ Giảng Huấn (officium docendi) (Ch. V), và Thừa Tác Vụ Quản Trị (officium regendi) (Ch. VI). Những dữ kiện trình bày trong các chương trước, cho phép chúng tôi nhận định Hội Đồng Quí Chức dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II, nghĩa là trước hết trình bày những tương quan giữa Hội Đồng Quí Chức với việc tông đồ giáo dân theo quan điểm và giáo huấn của Công Đồng Vatican II, đồng thời trình bày về những điểm tương đồng và những điểm dị biệt so chiếu với Hội Đồng Giáo Xứ ngày nay (Ch. VII). Sau cùng, chúng tôi kết thúc công việc nghiên cứu bằng mấy nhận định vắn gọn về sự khôn ngoan mục vụ và phương pháp truyền giáo chính thống của các Linh Mục và Tu Sĩ Thừa Sai, về địa vị thiết yếu của họ đạo và của giáo xứ, và nhất là về sự hợp tác của giáo dân vào việc tông đồ tại các xứ truyền giáo hôm qua và ngày nay (Tổng kết).
Về phương pháp làm việc, chúng tôi nói đơn sơ rằng: chúng tôi đọc chăm chú một số sách và bài báo viết về Giáo Hội Việt Nam, và đặc biệt về tổ chức Hội Đồng Quí Chức, chúng tôi tập trung các dữ kiện và các sự việc lịch sử và mục vụ làm nền tảng cho việc nghiên cứu. Phải thú nhận rằng, trước Công Đồng Vatican II, hoạt động tông đồ giáo dân hầu như bị quên lãng, người ta không quý trọng đủ chỗ đứng, việc làm, sự cộng tác truyền giáo của giáo dân mà những giáo dân ưu tuyển chính là các Quí Chức họ đạo (5). Chắc chắn có nhiều tài liệu khác được giữ cẩn thận trong các văn khố của các Hội Thừa Sai Paris hay của Bộ Truyền Giáo (6), nhưng những ước nguyện tham khảo của một sinh viên nhỏ bé như chúng tôi đã không được chấp nhận. Đó là lý do tại sao việc nghiên cứu của chúng tôi còn nghèo nàn về tài liệu.
Ý thức về những điểm thiếu sót và những điểm mơ hồ (imprécis) tản mát trong các chương trình bày của chúng tôi, chúng tôi thành thực cáo lỗi, và mong có những người khác bổ túc lại.
Roma, Lễ Thánh Cả Giuse, 19.03.1997
Giuse Mai Đức Vinh xb.
-----------------------------
Chú thích
(1) Theo thói quen tại Việt Nam, chúng tôi sẽ dùng danh từ ‘HỌ ĐẠO’ (La Chrétienté) để chỉ chung về các họ đạo chính hay họ lẻ của một Giáo Xứ (Quasi-paroisse), là những nơi có nhà thờ hay nhà nguyện, có tập đoàn tín hữu đưọc hướng dẫn bởi các Chức Việc hay Quí Chức, linh mục cư ngụ tại đó hay hàng năm đến làm phúc, thăm viếng…
(2) Xem: ĐT 4, 5, 11, 19 trg AAS 58 (1966), tr. 716-717, 722, 725; GM 30 trg AAS 58 (1966) tr.688; TĐ 10, 18, 30 trg AAS 58 (1966) tr. 847, 852, 861.
(3) Xem: GH 37 trg AAS 57 (1965) tr. 43; TĐ 24-26 trg AAS 58 (1966) tr.856-859; GM 15 trg AAS 58 (1966) tr.679; LM 9 trg AAS 58 (1966) tr. 726; ĐT 20 trg AAS 58 (1966) tr.726.
(4) Sau trận Điện Biên Phủ, chính phủ Pháp điều đình với chính phủ Cộng Sản Việt Nam. Kết quả là Hiệp định đình chiến ký ngày 20.07.1954 chia đôi Nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm danh giới: Miền Bắc thuộc về Cộng Sản và Miền Nam thuộc về Quốc Gia.
(5) Sau đây là một trường hợp: Năm 1972, nhân dịp kỷ niệm 350 năm thiết lập Bộ Truyền Giáo, tại Sài Gòn, đã tổ chức một cuộc triển lãm lớn về công trình phát triển Giáo Hội Việt Nam với rất nhiều lược đồ, sách vở, hình ảnh và tài liệu đủ loại… nói lên những hoạt động truyền giáo của các linh mục thừa sai, của các dòng tu, với những con số gia tăng các họ đạo, giáo xứ, các hội đoàn công giáo tiến hành… nhưng hoàn toàn không có một chỗ nào trưng bày, không một bài bản nào nói đến sự nghiệp truyền giáo của giáo dân nói chung và Hội Đồng Quí Chức Họ Đạo nói riêng. Ngày 15.03.1974, tôi đến nhà ông Phaolô Nguyễn Văn Nghĩa, Trùm cả của Hội Đồng Chức Việc xứ Chợ Quán, xin ông một vài tài liệu, tôi được nghe những lời phàn nàn từ tốn về sự quên lãng đáng tiếc này. Ngày 01.04.1974, tôi đã đến nhà ông Micae Lê Văn Đời, chánh thư ký của Hội Đồng Chức Việc xứ Cầu Kho, mượn ông bản văn đầu tiên của cuốn Chức Sở Mục Lệ đi làm ‘photocopi’, tôi được nghe lại những lời than phiền như trên.
(6) Văn khố của Hội Thừa Sai Paris nằm tại 128 rue du Bac, 75007 Paris; Văn khố của Bộ Truyền Giáo nằm tại Piazza di Spagna 48, Roma.
LỊCH SỬ ĐẠI CƯƠNG
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày ba mục chính:
I. Những bước đầu dò dẫm và những mùa lúa đầu tiên
II. Lớn lên trong bách hại
III. Tái thiết và phát triển.
MỤC I
NHỮNG BƯỚC DÒ DẪM
VÀ NHỮNG MÙA LÚA ĐẦU TIÊN
(1533-1659).
I. Những bước dò dẫm đầu tiên của công trình truyền giáo
1) I-ni-Khu (Ignatio), nhà truyền giáo đầu tiên đến Việt Nam
Niên giám chính thức của Nước Annam (Dạ Lục) năm 1533 ghi rằng: «Trong tháng thứ ba của năm thứ nhất triều đại Nguyễn Hòa (1533), Lê Trang Tôn, có một người Âu Châu tên là I-ni-Khu đã đến các làng Ninh Cường và Quần An thuộc quận Nam Chân và Châu Lư (tỉnh Nam Định) và lẩn lút rao giảng tà đạo Gia Tô» (1).
I-ni-Khu là phiên âm tiếng trung hoa từ chữ tây ban nha ‘Inigo’. Có lẽ đây là một linh mục dòng Đaminh hay dòng Phanxicô người Bồ Đào Nha. Rồi không ai nói gì đến thời gian khởi thủy của công trình truyền giáo tại Việt Nam. Tuy nhiên một cách chính thức, I-ni-Khu vẫn được coi là nhà truyền giáo có mặt trước tiên trên xứ sở này (2).
2) Các cha dòng Đaminh và dòng Phanxicô đầu tiên đến Việt Nam
Mười bảy năm sau, 1550, cha Gaspard de Santa Cruz, dòng Đaminh, người Bồ Đào Nha, đã từ Goa đến truyền giáo tại Cao Miên, rồi vượt biên giới vào Việt Nam qua cửa Cần Cao, hiện nay là tỉnh Hà Tiên. Cha đã kêu gọi nhiều anh em cùng dòng tới với cha. Rồi năm 1558, cha Fernando dòng Tên cũng có mặt tại Việt Nam; Qua năm 1558 hai cha dòng Đaminh Bồ Đào Nha khác là Lopes và Acevedo, cũng cập bến Việt Nam và lưu lại đó tới 10 năm, cho tới khi vua ra lệnh trục xuất. Hai cha trở về Macao là điểm giao liên truyền giáo đã lâu năm của các cha dòng Đaminh Bồ Đào Nha. Các cha Đaminh Tây Ban Nha lại đặt trụ sở tại Phi Luật Tân. Cũng vào thời điểm ấy, bốn cha Phanxicô từ Manila đã lấn lút vào việt Nam qua cửa sông Hồng Hà, nhưng các ngài không ở lại lâu. Việc tông đồ của các ngài không có kết quả. Một trong bốn là cha Barthelemi Ruis rán ở lại ít lâu, nhưng rồi cũng ra đi.
3) Một linh mục triều Tây Ban Nha cập bến
Năm 1590, Ordonez de Cevalles, linh mục triều Tây Ban Nha, cập bến Bắc Kỳ. Có nhiều dấu ngài đến Việt Nam với tính cách một nhà thám hiểm hơn là một thừa sai truyền giáo. Ngài chỉ ở Bắc Kỳ mấy tháng thôi. Dầu vậy hình như ngài đã đem được người em gái của vua vào đạo và đặt chị làm bề trên một tu viện. Nhờ sự hăng say của cha, thành phố Hà Nội đã biến thành một cộng đoàn đông đảo có tới hàng ngàn kitô hữu (4).
Chúng ta còn lưu ý đến sự có mặt trong miền Nam (Hội An) một vài cha dòng Augustinô, và năm 1596, một cha Đaminh là Alfonso Jimenez, người Tây Ban Nha. Cha bị chính quyền bắt giữ làm con tin (5).
4) Một thừa sai ở trong triều đình Huế một thời gian ngắn
Sau cùng năm 1597, ngụ trong triều đình Huế một linh mục thừa sai công giáo đầu tiên, là cha Diego Auarte, dòng Đaminh đến từ Manila. Cha được dẫn đến trình diện với chúa miền Nam (Cochinchine) là Nguyễn Hoàng. Ban đầu chúa tiếp đón cha rất thịnh tình, và cho phép cha giảng đạo trong lãnh thổ của chúa. Nhưng chẳng bao lâu chúa lại đổi ý và ép buộc cha phải bỏ lãnh thổ (6).
5) Một nhận xét có thể chấp nhận
Trước khi trình bày giai đoạn thứ hai, chúng ta có thể kết luận với lời nhận xét của cha Henri Bernard, dòng Tên: «Như chúng ta đã thấy, vào thế kỷ XVI, đã có nhiều bước dò dẫm để truyền giáo tại Việt Nam, nhưng tất cả không để lại những kết quả tốt, vì các thừa sai không được lòng các vua, làm việc chưa có tổ chức và phương pháp lâu bền, lý do vì sự cạnh tranh về ‘quyền bảo trợ’ (patronage) giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha» (7).
II. Công cuộc truyền giáo có phương pháp của các cha dòng Tên
Sau khi cha Diego Aduarte rời khỏi Việt Nam, công việc truyền giáo bị đình trệ trong vòng 20 năm. Mãi tới năm 1614 mới khởi sự lại với các cha dòng Tên từ Nhật chạy qua. Kể từ đây, viêc truyền giáo không bị gián đoạn nữa. Mặc dù liên tục có những cuộc bách hại dữ dội.
Vào thời này, nước Việt Nam đã mất sự thống nhất quốc gia, và bị chia làm hai: Phần Bắc thuộc quyền cai trị của Chúa Trịnh và vua nhà Lê, phần Nam thuộc quyền cai trị của nhà Nguyễn. Sông Gianh trở thành danh giới của hai miền Nam-Bắc (8). Và đó là gốc tích của hai quốc gia trong một nước, Bắc Kỳ (Tonkin) và Nam Kỳ (Cochinchine) (9) mà chả bao lâu lại trở nên hai Đại diện Tông Tòa đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam (deux premiers Vicariats Apostoliques de l’Eglise Vietnamienne).
Trước tiên, ngày 18.01.1615, dưới triều chúa Sãi Vương, đã cập bến Hội An (Tourane) một tàu nhỏ của Bồ Đào Nha đến từ Macao, trong tàu có hai cha dòng Tên đến với sứ mệnh thiết lập một sở truyền giáo mới tại vùng Bắc-Nam Kỳ (Nord-Cochinchine) (hiện nay nằm trong Miền Trung của Việt Nam). Hai cha dòng Tên đó là linh mục Francois Busoni và linh mục Didaco Carvahlo, cùng với ba trợ sĩ mà hai là người Nhật Bản. Tiếp theo sau, có nhiều thừa sai khác cũng cập bến, như cha Bori và cha Pina. Các cha thừa sai đã dựng lên ngôi nhà thờ đầu tiên tại Hội An. Suốt 20 năm trời, cha Busoni, bề trên của cộng đoàn dòng Tên đồng thời là người điều hành điểm truyền giáo. Ngài thực sự là người sáng lập địa điểm truyền giáo này. Ngài đã nâng con số tín hữu từ quãng 10 tín hữu lên tới 12.000 giáo dân.
Sở truyền giáo Hội An cũng đã được thiết lập bởi các cha dòng Tên và một số gia đình Nhật Bản, trở nên rất phồn thịnh và trong suốt hai thế kỷ là một trong những địa điểm truyền giáo quan trọng nhất của miền Trung Việt Nam. Cửa Hội An bấy giờ được xử dụng như một trọng điểm vãng lai, lưu trú, và trú ẩn của các thừa sai và các giám mục (bấy giờ gọi là Đại Diện Tông Tòa) (10).
Năm 1624, số các linh mục và tu sĩ dòng Tên là 15 vị, mà 11 gốc Âu Châu và 4 là người Nhật Bản. Cũng thời điểm này, cha Alexandre de Rhodes tới Việt Nam. Ngài lập sở truyền giáo ở miền Bắc Việt Nam, có lẽ là vùng Cửa Bạng (Thanh Hóa). Bị đuổi nhiều lần, và ngài trở lại Âu châu vào năm 1645. Nhờ ngài rao giảng, 500 người đã được rửa tội vào lễ Giáng Sinh năm 1627 và lễ Phục Sinh năm 1628. Trong số 500 người tân tòng này, có nhiều nho sĩ và nhiều gia đình hoàng tộc (11). Năm 1611, tại Hà Nội và vùng chung quanh đã có tới mấy ngàn tín hữu và 20 nhà nguyện. Vào năm 1639, tài liệu còn ghi lại cả miền Bắc và miền Nam đã có 100 nhà thờ, 130 nhà nguyện và 8.942 tín hữu (12).
III. Những họ đạo đầu tiên
1) Công Chúa Mai Hoa và họ đạo tiên khởi
Vì còn quá trẻ nên vua Lê Thái Tôn (1573-1599) phải nhận quyền nhiếp chính của bà chị ruột mà theo dân chúng quen gọi là công chúa Chèm. Công chúa rất tận tụy trong các sinh hoạt tôn giáo và từ thiện. Bà đã xây cất nhiều nhà bác ái, canh tân các tu giới và đời sống của các nhà sư và ni cô. Sống đạo sâu xa, bà rất thiện cảm với đạo Công Giáo. Nhờ ơn Chúa Quan Phòng, bà đã gặp được một thừa sai Tây Ban Nha là cha Pedro Ordones Cevalles vào ngày 24.12.1590. Yêu mến đạo giáo, bà kiên trì học hỏi giáo lý với cha Pedro. Bà cũng xin cha dạy đạo cho các tì nữ trong hoàng cung. Sau cùng, ngày 22.05.1591, bà đưọc rửa tội và mang tên thánh là Maria. Và từ đó, người ta gọi bà là công chúa Mai Hoa. Theo gương bà, 72 tì nữ trong hoàng cung cũng xin chịu phép Rửa Tội. Hay tin công chúa Mai Hoa đã trở lại đạo Công Giáo, vua và bà hoàng hậu rất bất mãn. Để trấn an mọi người trong hoàng gia và hoàng cung, công chúa Mai Hoa đã trả lại cho nhà vua mọi chức tước và quyền bính, bà chỉ xin vua cấp cho bà một khu đất để bà xây một tu viện và bà sống tại đó quãng đời còn lại. Thán phục niềm tin và các nhân đức sáng ngời của người chị, vua đã cho lệnh biến ngôi nhà của bà trong hoàng cung thành một tu viện. Vua còn cho xây một nhà nguyện và một nhà cho cha Pedro cư ngụ. Ngày 26.05.1591, cha đã cử hành Thánh Lễ đầu tiên và nhận lời khấn tạm của 51 nữ tu tiên khởi của Hội dòng Đức Maria Vô Nhiễm. Chả bao lâu số giáo dân tăng lên đông, công chúa Mai Hoa lại xin vua ban cho một khu đất lớn để lập làng Giatô: đây là họ đạo đầu tiên với 400 nhân danh. Và cuối năm 1591, thái hậu ngã bệnh nặng, và bà đã lãnh Bí tích Rửa Tội mấy ngày trước khi chết, tên thánh là Maria (13).
2) Từ họ đạo Hội An cho đến họ đạo Quảng Nam
Với lòng nhiệt thành đáng thán phục và một trí thông minh hiếm có, cha Busomi cập bến Hội An ngày 18.01.1615, và đã khôn khéo dựng lên mọt nhà nguyện không chỉ dành cho những người công giáo Nhật Bản tị nạn (14), nhưng cho cả những người công giáo Việt Nam đầu tiên. Lịch sử kể rằng: ngày khánh thành nhà nguyện, cha Busomi đã rửa tội 10 dự tòng. Những tân tòng này là những bông lúa đầu mùa rao giảng Tin Mừng của cha tại Việt Nam. Vui biết bao !
Để bảo đảm lâu dài cho công cuộc truyền giáo đã bắt đầu, cha Busomi đã khôn khéo liên hệ với ông chúa Sãi Vương và dâng cho chúa nhiều quà quý đem đến từ Tây Phương. Cha tìm cách học hỏi về phong tục và văn hóa Việt Nam, vì cha biết rằng đây là việc làm rất hữu ích cho việc truyền giáo của ngài.
Nhờ phương thức làm việc này, cha Busomi có thể gặp gỡ các quan chức tỉnh Quảng Nam. Quan tỉnh Quảng Nam đã đón tiếp cha cách lịch sự và niềm nở. Chính quan đã cấp cho cha một nhà ở thoải mái và những bữa ăn thịnh soạn. Quan tỉnh là anh của bà Phanxica mà dân chúng quen gọi cách thân mật là ‘bà Gioanna’. Gioanna là tên thánh của con gái bà. Một cha Phanxicô đã rửa tội cho bà trước đó 30 năm, và cô gái của bà lại được rửa tội bởi một linh mục thừa sai dòng thánh Augustinô. Chỉ một năm sau, việc truyền giáo của cha Busomi đã trổ sinh nhiều hoa trái: 300 người được chịu phép rửa tội, và đó là họ đạo thứ hai được thành hình, báo hiệu một tương lai xán lạn cho công trình truyền giáo. (15).
3) Đồng lúa mênh mông
Với những thành công nối tiếp, việc truyền giáo của các cha dòng Tên mở rộng vào các thành phố lớn của miền Nam (Cochinchine), vương quốc của nhà Nguyễn, cách riêng tại Quảng Nam và Quy Nhơn. Công việc truyền giáo giữa các năm 1618 và 1659 đã đem vào Giáo Hội một số đông tân tòng. Trong số đó có người vợ thứ của chúa là hoàng hậu Minh Đức (16) Bà lãnh Bí tích Rửa Tội năm 1625. Tên thánh của bà là Maria Madalêna. Lịch sử còn ghi: chỉ trong năm năm truyền giáo đầu tiên, cha Pina đã rửa tội 275 người, trong số đó có nhiều văn nhân tỉnh Quảng Nam (17).
Rồi đến các hoạt động truyền giáo của các cha thừa sai tại miền Bắc (Tonkin), vương quốc của vua Lê và chúa Trịnh, cũng đem lại nhiều thành công đáng kể, nổi bật là các họ đạo Cửa Bạng (18), An Vực (19). Nhật ký của cha Alexandre de Rhodes cho biết số giáo dân trong vương quốc vua Lê chúa Trịnh là 82.500 người vào năm 1639 (20). Hơn nữa, theo cha Bonifacy, năm 1641, số dân công giáo tại Bắc Việt Nam là 108.000 (21). Chỉ nguyên trong tỉnh Nghệ An bấy giờ đã có 72 họ đạo (22), và năm 1655 đã có 414 nhà thờ trong toàn vương quốc vua Lê chúa Trịnh (23). Những con số này mở ra trước mắt chúng ta những đồng lúa mênh mông, và để chăm sóc và tưới bón, cần thiết phải có nhiều cán bộ truyền giáo được huấn luyện, dấn thân và sẵn sàng hiến dâng mạng sống.
IV. Việc tổ chức các thầy giảng
1) Cha Alexandre de Rhodes, người sáng lập khôn ngoan
Để đáp ứng những nhu cầu khẩn cấp của đồng lúa mỗi ngày thêm mở rộng, các thừa sai và nhất là cha Alexandre de Rhodes đồng thuận về sáng kiến tổ chức các Thầy giảng (catéchistes). Thực tế, từ năm 1615 cha Busomi đã tìm kiếm và đào tạo những cộng tác viên giáo dân, tỉ dụ, người trẻ mang tên Augustinô thuộc họ đạo Hội An (24). Qua năm 1627, cha Alexandre de Rhodes đã tiến xa hơn trong phương án này. Ngài đã muốn rằng tất cả các thầy giảng phải được huấn luyện dưới hình thức một chủng viện với nhiều giai đoạn: tập viện, kinh viện và sư huynh viện (maitres). Cha muốn các thầy giảng cũng khấn giữ đức khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Tuy nhiên tổ chức các thầy giảng không phải là một hội dòng đúng nghĩa. Nhưng phải nói thật: tổ chức các thầy giảng đã được thiết lập theo hình thức một tu hội đời ngày nay.
Năm 1642, bị trục xuất khỏi Bắc Việt, cha Alexandre de Rhodes xuống thuyền vào Nam (Cochinchine). Tại đây, cha cũng có ý định đào tạo các thầy giảng giống như cha đã làm ở miền Bắc. Ngài dấn thân thực hiện phương án và Thiên Chúa đã ban cho ngài nhiều phần thưởng (25).
2) Một giải đáp trung gian và hiệu lực
Để nhấn mạnh đến sự cần thiết và hiệu lực của việc thành lập hàng giáo sĩ bản xứ, cha A. Launay đã viết: «Các linh mục bản xứ thông thạo tiếng bản xứ, xử dụng từ ngữ và kiểu nói vừa đúng vừa hay, giọng điệu thanh thoát, dễ nghe, dễ hiểu hơn… khi cắt nghĩa các mầu nhiệm trong đạo. Họ lại biết rõ về các phong tục và tập quán của xứ sở và từng địa phương, nắm bắt được các khuynh hướng của đồng bào của họ. Họ có nhiều liên hệ chặt chẽ với dân chúng. Họ có thể đi lại, giao tiếp và len lỏi dễ dàng vào đồng bào, bắt chuyện và gây tình bạn hữu với người bản xứ. Họ cũng am tường đâu là những điểm dị đoan, sai lạc trong tôn giáo của xứ sở. Nhờ đó họ biết cách vạch trần các hình thức tà thần mà khuyên dân trở lại đạo Công Giáo. Với những nhận định lý thuyết và thực tế này, chúng ta còn phải thêm rằng: các linh mục bản xứ chắc chắn có thể phục vụ hiệu lực khi, như thường xẩy ra, có những cuộc bách hại khiến các thừa sai ngoại quốc đã quá ít ỏi lại phải trốn tránh hay bị trục xuất. Thực tế, các thừa sai ‘dễ bị phản bội’ vì tiếng nói và vì hình dáng, không thể dễ dàng chu toàn các thừa tác vụ giống các linh mục bản xứ được» (26). Những nhận xét trên đây có thể nói lên trọn vẹn những lý do vì sao phải tổ chức các thày giảng.
Đó cũng là nguyên tắc hoạt động của Giáo Hội trong mọi thời. Giáo Hội luôn muốn rằng người bản quốc phải lãnh nhận trách nhiệm truyền giảng Tin Mừng cho đồng bào của họ. Như vậy Giáo Hội bản xứ sẽ tiến mạnh, mau trưởng thành và tự trách nhiệm.
Mọi người đều công nhận rằng vào buổi đầu rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam, tổ chức các thầy giảng được coi như một giải pháp trung gian và hiệu lực. Các thầy giảng là những người dọn đường trước cho các thừa sai tới, các thầy cộng tác tích cực với các cha khi các ngài có mặt tại chỗ, các thầy thay thế các cha khi các cha chuyển đi nơi khác. Những hình ảnh sáng ngời của các thầy giảng tiên khởi là thầy Augustinô ở Hội An (27), thầy Phanxicô ở Hà Nội (28), thầy Inhaxiô ở Nghệ An (29), thầy Anrê ở Quy Nhơn (30) và thầy Vixentê ở Quãng Nghĩa (31). Hơn thế, chính từ các thầy giảng đầu tiên mà Giuse Trang và Luca Bền được tuyển chọn để thành những linh mục việt nam tiên khởi vào năm 1668 (32).
Đàng khác, chính nhờ các thầy giảng mà trong thời các thừa sai bị trục xuất, việc rao giảng Tin Mừng không bị gián đoạn và các họ đạo không bị tan rã. Trái lại việc rao giảng Tin Mừng vẫn được tiếp tục và các họ đạo tăng thêm mãi. Đây là một thí dụ: các linh mục Alexandre de Rhodes và Pedro Marquez đã bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ năm 1629, để lại địa phương ba thầy giảng Phanxicô, Anrê và Inhaxiô với 5.602 bổn đạo. Vắng mặt hai cha, các thầy phân chia công việc tông đồ: mỗi thầy quán xuyến một số họ đạo lẻ loi, dạy giáo lý cho giáo dân và những người l ương muốn tòng giáo, thăm nom các bệnh nhân. Các thầy làm hết mọi việc với sự cộng tác thân mật của các chức việc trong họ đạo. Một năm sau, 18.02.1631 khi các linh mục bồ đào nha là Gaspar d’Amiral, Antoine và Cadim từ Xiêm La (Siem) tới, các ngài thấy rõ số bổn đạo đã được gia tăng tới con số 9.942 Như vậy các thầy giảng đã rửa tội thêm được 3.340 tân tòng trong thời gian hơn một năm (33) Chính với một lòng tận tụy truyền giáo như vậy mà tổ chức các thầy giảng đã hiến dâng cho Giáo Hội Việt Nam những vị tử đạo đầu tiên.
V. Những vị tử đạo đầu tiên tại Việt Nam
1) Mọi công trình truyền giáo đều có Thánh Giá
Không công trình truyền giáo nào mà không có Thánh Giá. Thánh Giá là dấu chỉ của tình yêu. Chính vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với các linh hồn mà các nhà thừa sai đã từ giã gia đình và quê hương của họ để đem Tin Mừng đến cho các dân tộc xa xôi. Tại đó, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần các ngài đã can đảm ra đi, hiến dâng sự sống cho ’phần lợi’ của Phúc Âm và đồng thời đào tạo cho Nước Chúa những tâm hồn thánh thiện chan chứa tình thương sẵn sàng hiến thân vì đức tin. Nếu các Tông Đồ và các tín hữu đầu tiên đã là những chứng nhân của Chúa Giêsu Phục Sinh trong xã hội Do Thái và trong đế quốc Roma, thì các thừa sai và các tín hữu việt nam đầu tiên, họ cũng là những chứng nhân của niềm tin vào Thiên Chúa và vào tình thương của Ngài. Là nhân chứng của đức tin, họ không lùi bước, nhưng luôn tiến lên và can đảm lãnh nhận Thánh Giá mà giá trị lớn lao nhất của Thánh Giá là chết cho tình yêu, là tử đạo nhân danh đức tin.
Vì những lợi nhuận thương mại và vì những liên hệ kinh tế, các chúa Trịnh ở Bắc cũng như các chúa Nguyễn ở miền Nam chưa dám giết hại các thừa sai ngoại quốc, nhưng họ tìm cách giập tắt cái mà họ gọi là ’tà đạo’, họ đuổi ra khỏi lãnh thổ và nhất là tàn sát, những người đứng đầu các cộng đoàn kitô hữu, tức là các thầy giảng và các chức việc.
2) Những vụ trục xuất đầu tiên các thừa sai
Lịch sử kể lại rằng nạn hạn hán năm 1617 ngăn cản mọi công việc đồng áng trong các tỉnh miền Nam. Cơn đói kém đe dọa dân chúng. Các sư sãi cầu nguyện xin trời đổ mưa xuống, nhưng vô hiệu quả! Họ nói với chúa Nguyễn rằng: nạn hạn hán xẩy đến cho dân là vì lỗi phạm của những người đã bỏ đạo của tổ tiên và đi theo đạo của Âu Châu, vì thế các thần minh nổi giận và phạt vạ thần dân bằng cơn hạn hán này. Muốn đền tạ hiệu nghiệm, chúa phải làm điều các thần minh yêu cầu, là trục xuất các thừa sai và ép buộc người công giáo phải từ bỏ tà đạo (34). Cho những ý kiến đó là hợp tình hợp lý, chúa Sãi Vương truyền lệnh cho cha Carvahle và Busomi phải ra khỏi miền Nam (35).
Cha Alexandre de Rhodes cũng ở trong hoàn cảnh khó khăn tương tự, cũng chịu những tố cáo giả dối như vậy, nên đã bị trục xuất khỏi lãnh thổ của vua Lê năm 1628 (36). Ngài trở vào miền Nam, nhưng lại bị trục xuất vào năm 1640 (37). Bó buộc phải đáp tàu về Macao. Ba tháng sau, cha Alexandre de Rhodes lại tìm cách cập bến Hội An, nhưng rồi lại bị đuổi vĩnh viễn khỏi Việt Nam ngày 3.7.1645, sau nhiều tháng bị giam cầm với chín thầy giảng (38). Sau 21 năm lặn lội truyền giáo tại Việt Nam, cha bị bó buộc phải rời bỏ các địa điểm truyền giáo, ôi bao xót xa, bao ngậm ngùi thương mến! Không được phúc đổ máu trên đồng truyền giáo, cha Alexandre de Rhodes đã ra đi mang theo một kỷ vật thật quý giá, là cái đầu của thầy giảng Anrê, vị tử đạo đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam.
3) Thầy giảng Anrê, vị tử đạo đầu tiên tại Việt Nam
Cha Alexandrede Rhodes đã viết về vị tử đạo đầu tiên của Việt Nam như sau: “Cho tới nay, Giáo Hội Miền Nam tương đối vẫn được bình an và hạnh phúc, lâu lâu cũng bị tấn công gay gắt nhưng chưa hề phải đổ máu để bênh vực những vụ gièm pha phỉ báng Chúa mình, nên cũng chưa bao giờ xuất hiện trước ngai tòa Con Chiên với chiếc áo hồng thắm, đầu đội triều thiên, và tay cầm cành lá chiến thắng. Nói khác, cho đến nay, Giáo Hội Việt Nam chưa có một vị tử đạo đã hy sinh mạng sống vì bảo vệ đức tin. Thiên Chúa dành vinh quang này cho môt người trẻ mười chín tuổi tròn mà tôi đã rửa tội ba năm trước và tôi đã coi như một người bạn giúp tôi đi dạy giáo lý từ hai năm nay“ (39).
Năm 1644, hoàng hậu Tôn Thị truyền cho quan tỉnh Quảng Nam lùng bắt thầy giảng Inhaxiô và phá vỡ mọi công trình truyền giáo. Thù nghịch với người công giáo từ lâu, quan tỉnh đem quân lính đến bao vây nhà thầy Inhaxiô và các thầy giảng. Lúc đó thầy Inhaxiô đi vắng, lính bắt thầy Anrê đang thay mặt thầy Inhaxiô và chăm sóc bốn thầy giảng khác đau yếu. Hạnh phúc thay, trong nhà tù của tỉnh, thầy Anrê đã gặp một người công giáo trọng tuổi cũng gọi là Anrê. Cả hai khích lệ nhau can đảm chịu mọi hành nhục và sẵn sàng đổ máu vì đức tin. Cả hai cầu nguyện thâu đêm. Hôm sau bị điệu ra tòa do chính quan tỉnh ngồi xử. Quan đã kêu án xử tử cả hai người đồng tên thánh Anrê.
Ngày 16.07.1644, thanh niên Anrê bị điệu ra pháp trường xử trảm. Thầy luôn bình tĩnh và can đảm, cầu nguyện cho đến phút cuối cùng. Cha Alexandre de Rhodes cũng lẩn lút theo người môn đệ của mình ra tận pháp trường, và chứng kiến giây phút thầy Anrê bị chặt đầu. Cha đã nghe rõ tiếng của thầy Anrê tuyên xưng danh thánh Chúa Giêsu cho đến lúc nhát dao làm tắt tiếng thốt ra từ miệng thầy Anrê. Linh hồn bay về trời, thân xác ngã xuống đất... (40).
4) Cuộc bách hại các tín hữu
Tiếp cuộc tử đạo của thầy Anrê là cái chết vì đức tin của các thầy Inhaxiô (41), rồi cơn bách hại tại Quy Nhơn (42). Quân lính của quan tỉnh nhận được lệnh phải phá hủy các nhà thờ, phân tán các cộng đoàn Kitô giáo và bắt giam các chức việc. Trước tiên có 35 giáo dân bị bắt giam rồi dẫn đi nộp cho quan tỉnh. Người quý chức nổi tiếng nhất bấy giờ là ông trùm Ngữ, trùm cả của họ đạo Quy Nhơn. Mấy tháng trước, ông đã chuẩn bị cho giáo dân trong họ đạo sẵn sàng tuyên xưng đức tin và khi bị bắt giam, ông là phát ngôn viên của những người bị bách hại trước mặt quan lớn. Cương quyết trong niềm tin, mọi người đều nhất trí trung thành với Thiên Chúa và với đạo thánh. Ngày đầu tiên, quan tỉnh xúc động vì thấy họ liên đới với nhau và đồng tâm tuyên chứng đức tin, ông cho 29 người về với gia đình, ông chỉ giữ lại 6 người, trong đó đương nhiên có ông trùm Ngữ.
Cảm nghĩ sau đây của cha Alexandre de Rhodes chứng tỏ cho chúng ta thấy sự khác biệt: “Hai mươi chín người được thả ra về không phải chịu một hình nhục nào, thì nét mặt buồn rầu, bước đi chậm chạp; còn sáu người bị giữ lại, thì, tuy vai mang gông nặng nề, lại có nét mặt vui tươi, bước đi nhẹ nhàng dường như họ có đôi cánh“ (43).
Đó là giai đoạn đầu tiên của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Tuy chỉ là một bản tóm lược, chúng ta cũng nhìn thấy ở đó những khó khăn lớn lao đến từ mọi phía, cho phép chúng ta nhận ra bao công phúc của các các nhà truyền giáo tiên phong và của những người tín hữu ’thơ sinh’ ở Việt Nam. Nhờ ơn lành của Thiên Chúa và nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các ngài đã khởi đầu một cách anh dũng lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Nhưng để củng cố lịch sử này, như chúng ta sẽ đọc thấy trong những trang tiếp theo, Giáo Hội Việt Nam còn phải chịu những cuộc bách hại kinh hoàng, chan chứa máu hồng... mà những khó khăn nhắc đến ở những trang trên, mới chỉ là những dấu hiệu đi trước.
MỤC II
LỚN LÊN TRONG BÁCH HẠI (1580-1885)
I. Những cuộc bách hại đẫm máu
Người ta có thể không sợ quá lời khi nói rằng lịch sử của Giáo Hội Việt Nam là một chuỗi dài những cuộc bách hại chống Kitô giáo. Như chúng ta đã thấy, vào năm 1533 Tin Mừng bắt đầu được rao giảng tại Việt Nam, nghĩa là năm ‘con gái đầu lòng của Giáo Hội tại Viễn Đông chào đời’. Kể từ năm 1580 cuộc bách hại bắt đầu và kéo dài cho tới 1885, nghĩa là trong hơn 300 năm. Các sử gia chia quãng thời gian ảm đạm này thành bốn giai đoạn chính: Dưới triều đại nhà Lê với các chúa Trịnh và Nguyễn (1580-1747); dưới triều đại nhà Tây Sơn (1777-1802); dưới triều đại nhà Nguyễn (1802-1867); dưới thời Văn Thân (1862-1885).
1) Dưới triều đại nhà Lê và các chúa Trịnh và Nguyễn
Giai đoạn đầu (1580-1617). những cuộc bách hại ở cả hai miền Nam và Bắc còn ít nghiêm khắc và ít đổ máu.
Tại miền Nam, những cuộc bách hại khởi đầu từ việc trục xuất các cha dòng Tên năm 1617, rồi từ những tố cáo gian dối đổ xuống trên các thừa sai và các làng công giáo năm 1623. Nhưng những cuộc bách hại trở nên gay gắt và đổ máu kể từ năm 1644 tại Quy Nhơn và Quảng Nam. Đồng thời, chính chúa Thượng đã ra lệnh trục xuất cha Alexandre de Rhodes. Ngài đã phải ngậm ngùi ra đi không ngày trở lại trên đất Việt Nam, sau khi đã chứng kiến cuộc tử đạo của các thầy giảng Anrê, Inhaxiô. Sau cùng sắc lệnh bắt đạo của chúa Minh Vương năm 1698, đã làm tiêu tan nhiều làng công giáo và đã gây nên cái chết rũ tù của cha Langlois và 30 giáo dân (44).
Trong thời đó, tại miền Bắc, tại lãnh thổ của vua Lê chúa Trịnh, các cuộc bách hại chỉ bắt đầu từ năm 1629 với lệnh trục xuất các thừa sai của chúa Trịnh Tráng. Rồi 1712, chúa Trịnh Can cấm người công giáo họp nhau cầu nguyện và đeo ảnh đạo. Các cuộc bách hại trở nên kinh hoàng vào thời chúa Trịnh Cương, năm 1721. Chúa ra lệnh đuổi bắt và chặt đầu các thừa sai. Chính trong vụ bách hại này mà hai cha Massari và Buccharelli đã được phúc tử đạo năm 1723 (45). Mười tám năm sau, dưới triều chúa Trịnh Doanh, cuộc bách hại bỗng nhiên trở nên dữ dằn bởi sự ghen ghét người công giáo của một số quan lại muốn lấy lòng chúa Trịnh và mong được phần thưởng chúa hứa ban. Trong năm năm, bốn cha dòng Đaminh và nhiều giáo dân bị giết chết. Đó là quý cha Francois Gil, Matthieu Leginiana, Hyacinthe Castaneda và Vincent Liêm (46).
2) Dưới triều đại nhà Tây Sơn
Chính vào năm 1763 mà ba anh em Tây Sơn, Nhạc, Huệ và Lữ đã nổi dậy và đem quân chống chúa Nguyễn. Sau khi toàn thắng quân chúa Nguyễn và đánh tan cả đoàn quân Thái Lan qua giúp chúa Nguyễn, năm 1786, anh em Tây Sơn kéo quân trực chỉ miền Bắc và chiếm được Hà Nội, thủ đô của lãnh thổ thuộc vua Lê chúa Trịnh. Hai năm sau, ba anh em còn đánh tan đoàn quân trung hoa qua cứu viện vua Lê chúa Trịnh tại Đống Đa. Sau những chiến thắng oai hùng tiếp nối nhau, Nguyễn Huệ, người thứ hai của ba anh em Tây Sơn đã tự xưng là hoàng đế Việt Nam thống nhất, và mang tước hiệu là vua Quang Trung.Ngay từ buổi đầu, vua Quang Trung đã tỏ ra không ưa thích đạo Công Giáo. Vì thế, 1975 vua đã ra sắc chỉ bắt bớ các kitô hữu. Nhưng cuộc bách hại chỉ kinh hoàng và đẫm máu vào triều đại người kế ngôi vua là hoàng đế Cảnh Thịnh. Ông này bí mật ra lệnh cho các quan giết hết các người công giáo trong tháng 05. 1798. Trong số lớn những Kitô hữu bị sát hại thời Cảnh Thịnh, có hai linh mục Việt Nam là cha Gioan Đạt và Nguyễn Văn Triêu. Cùng bị giam với hai linh mục, có chừng 32 quý chức họ đạo mà 30 đã anh dũng chết vì đức tin (48).
3) Dưới triều đại nhà Nguyễn
Bị anh em Tây Sơn đánh bại, chúa Nguyễn Ánh phải chạy trốn sang Bangkok (Thái Lan). Ông chờ đợi thời thế thuận lợi để trở về Việt Nam. Vậy vào tháng 07.1787, vào lúc anh em Tây Sơn chia rẽ nhau cách trầm trọng, chúa Nguyễn Ánh đã kéo quân trở về miền Nam, chiếm tỉnh Cần Thơ. Nhờ tài binh lược của các tướng Võ Tánh, Ngô Tòng Chu và Lê Văn Duyệt, chúa Nguyễn Ánh đã đánh tan nhà Tây Sơn chiếm lại mau chóng các tỉnh lớn Sàigòn, Huế, Quy Nhơn và Hà Nội. Bấy giờ chúa Nguyễn Ánh lên ngôi vua và lấy danh hiệu là Gia Long, lập nên triều đại nhà Nguyễn năm 1799. Vua Gia Long tạ thế năm 1820 (49).
Thời vua Gia Long, người công giáo tương đối được bình yên. Nhưng những vua kế vị ngài, như Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đã tỏ ra rất thù nghịch với đạo Công Giáo. Một vài sử gia đã gọi Minh Mạng và Tự Đức là ‘Nêrons Việt Nam’ (des Nérons Vietnamiens) (50). Các sắc chỉ bách hại người công giáo do vua Minh Mạng ban hành liên tiếp vào các năm 1825, 1833, 1836 và 1838. Vua truyền khắc hai chữ ‘tà đạo’ trên má các tín hữu (51). Chính vua ký bản án tử hình ba giám mục: Dominique Renares, Ignace Delgado và Pierre Dumoulin; và chừng 20 linh mục ngoại quốc và linh mục bản xứ, một số đông các thầy giảng, nữ tu, quý chức và giáo dân.
Riêng vua Tự Đức, vua đã ra sáu sắc lệnh chống người công giáo trong các năm 1851, 1855, 1857, 1859 và 1861. Điều rất rõ là dưới thời Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam bị bách hại và hủy diệt dữ đội nhất. Chỉ nguyên các cuộc bách hại từ 1858 đến 1862 con số các giáo dân bị giết hại và các họ đaọ bị tàn phá thật đáng kể: 115 linh mục đã đổ máu vì đức tin, 50 tu viện bị phá hủy, 2.000 nữ tu bị phân tán, trong số đó 100 chị đã hiến mạng sống vì vinh danh Thiên Chúa, 10.000 quý chức họ đạo bị bắt giam mà một nửa đã được phúc tử vì đạo. Một số lớn các tín hữu đã chết đói, 2.000 họ đạo bị tàn phá. Sau cùng, tất cả của cải, đất đai nhà cửa của họ đạo và của giáo dân bị dân ngoại chiếm đoạt, cướp phá. Do đó, trên 300.000 dân công giáo phải di tản, trốn tránh khỏi nơi sinh trưởng. Lịch sử còn ghi, chỉ nguyên ‘sắc lệnh phân sáp’ năm 1861 đã gây tử vong cho trên 50.000 tín hữu (52).
4) Dưới thời Văn Thân
Sau lòng thù ghét đạo Công Giáo là sự hiện diện của quân đội Pháp đã thúc đẩy các vua chúa và quan lại bách hại người công giáo không chút thương tâm. Điều đó thật rõ ràng qua vụ việc: do áp lực của chính phủ thuộc địa, vua Tự Đức đã ra một sắc lệnh ân xá cho người công giáo năm 1862 và tuyên bố quyền tự do tôn giáo (53), nhưng phần lớn các quan lại không chấp nhận. Trái lại, sự hiện diện của người Pháp còn kích thích thêm lòng ghen ghét và thù nghịch đạo Công Giáo của họ đến độ họ nổi dậy tàn phá các làng công giáo tại Huế năm 1864 và 1865, tại Nam Định năm 1869, tại Thanh Hóa năm 1874, tại Quảng Ngãi và Quảng Bình năm 1885 (54).
5) Tổng kết của hơn 300 năm bách hại
Chúng ta vừa chiếu lại mau chóng cuốn phim đẫm máu của Giáo Hội Việt Nam. Chúng ta thán phục đức tin của 100.000 người công giáo tử đạo, trong đó có 200 linh mục, 340 thầy giảng và 270 nữ tu mến Thánh Giá. Ngoài ra trên 3.000 họ đạo bị tàn phá hay cướp bóc (55). Chúnng ta còn phải thán phục hơn nữa khi nhận thấy giữa những năm bị bách hại tàn ác và kinh khủng… việc rao giảng Phúc Âm vẫn không bị khoan giãn, ngưng đọng…
Giáo Hội Việt Nam vẫn duy trì sức sống mạnh mẽ, hiên ngang và trung kiên. Phải chăng đó là ơn sủng của Thiên Chúa, là sự phong phú của máu các Thánh Tử đạo. Trong những trang tiếp theo, chúng tôi xin trình bày sơ lược một vài biến cố chính yếu làm chứng cho đời sống liên tục và đầy nghị lực của Giáo Hội Việt Nam trong giai đoạn đẫm máu này.
II. Thành lập giáo phận Bắc Kỳ và giáo phận Nam Kỳ
1) Hai vị Giám Mục (Đại Diện Tông Tòa) đầu tiên
Mục đích của việc thiết lập các địa phận (đại diện tông tòa) là để củng cố và phát triển công trình truyền giáo. Các linh mục của Hội Thừa Sai Paris đã từ Âu châu đến làm việc tại Nam Kỳ và Bắc Kỳ từ năm 1653. Bắc Kỳ và Nam Kỳ được chia ra thành hai giáo phận (hai đại diện tông tòa) do trọng sắc ‘Super Cathedram Principis Apostolorum’ (Từ Ngai Tòa của vị Tông Đồ Cả) của đức giáo hoàng Alexandre VII (56). Ngài đã bổ nhiệm hai linh mục thừa sai Pháp, đức cha Francois Pallu làm giám mục (Đại Diện Tông Tòa) giáo phận Bắc Kỳ (1659-1679) và đức cha Lambert de la Motte làm giám mục (Đại Diện Tông Tòa) giáo phận Nam Kỳ (1659-1679) (57).
2) Giáo phận Bắc Kỳ được chia ra thành nhiều giáo phận mới
Năm 1658 đức cha Fr. Pallu, giám mục hiệu tòa Héliopolis, được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bắc Kỳ. Quyền tài phán của ngài bao trùm cả miền Bắc Kỳ. Cuộc bách hại ngăn cản không cho phép ngài di chuyển hết miền truyền giáo thuộc quyền. Vì thế, việc phân chia giáo phận mới đã có từ năm 1679. Đức cha Deyduer (1679-1693) được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Hải Phòng (Tonkin Oriental), và đức cha Bourges (1679-1717) làm giám mục giáo phận Hà Nội (Tonkin Occidental). Đến năm 1693, đức cha Deydier qua đời, giáo phận Hải Phòng được giao cho các cha dòng Đaminh thuộc tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi Phi Luật Tân. Và giáo phận Hà Nội vẫn thuộc về Hội Thừa Sai Paris.
Giáo phận Hà Nội lại chia ra: giáo phận Vinh (Tonkin Méridional) năm 184, giáo phận Hưng Hóa (Haut Tonkin) năm 1895, giáo phận Phát Diệm (Tonkin Maritime) năm 1901.
Giáo phận Hải Phòng chia thành: giáo phận Bùi chu (Tonkin Central) năm 1848 và giáo phận Bắc Ninh (Tonkin Septentrional) năm 1883.
Sau cùng, giáo phận Thanh Hóa tách ra khỏi giáo phận Phát Diệm năm 1932, phủ doãn hạt Lạng Sơn tách ra khỏi giáo phận Bùi Chu năm 1913 và giáo phận Thái Bình tách ra từ giáo phận Bùi Chu năm 1936.
3) Giáo phận Nam Kỳ được chia ra thành nhiều giáo phận mới
Giáo phận Nam Kỳ (vicariat de Cochinchine) được thiết lập năm 1659 và giao cho Hội Thừa Sai Paris. Giáo phận này không chỉ bao trùm trên lãnh thổ nhà Nguyễn mà còn cả lãnh thổ Cao Miên. Đến năm 1844, giáo phận được chia ra thành hai: giáo phận Quy Nhơn (Vicariat de Cochinchine Orientale) và giáo phận Sài Gòn - Cao Miên (Vicariat de Cochinchine Occidentale).
Lần lượt, giáo phận Sài Gòn - Cao Miên chia ra giáo phận Cao Miên năm 1850 và giáo phận Vĩnh Long 1938.
Còn giáo phận Quy Nhơn chia ra giáo phận Huế (vicariat septentrionale) năm 1850 và giáo phận Kontum năm 1932.
4) Một vài con số của các giáo phận năm 1883
III. Những Công Nghị Miền
1) Công nghị Nam Định năm 1670
Công nghị Nam Định năm 1670 được cử hành dưới quyền chủ tọa của đức cha Lambert de la Motte (59). Những người tham dự là ba 3 thừa sai và 9 linh mục Việt Nam. Những quyết định quan trọng là: giáo phận được chia ra thành nhiều giáo xứ và họ đạo (quasi-paroisse et chrétienté), đứng đầu mỗi giáo xứ là một linh mục. Nhà ở của ngài nằm trong thành phố. Các thầy giảng làm việc dưới quyền của cha sở. Muốn làm thầy giảng, phải có giấy chứng nhận của đức giám mục. Sau cùng, trong mỗi họ đạo, phải chọn hai giáo dân đạo đức để họ quán xuyến những vấn đề vật chất.
Nhân dịp này, đức cha Lambert de la Motte đã truyền chức linh mục cho 7 thầy giảng và các chức nhỏ cho 40 thầy khác. Ngài cũng lập những nhà đầu tiên cho các chị dòng Mến Thánh Giá (40)
2) Công nghị Hội An (Faifo) năm 1672
Công nghị Hội An năm 1672 do đức cha Lambert de la Motte triệu tập và chủ tọa. Tham dự công nghị có 6 linh mục thừa sai mà thế giá hơn cả là cha Mahot và cha Vachet, cùng 4 linh mục Việt Nam với một số các thầy giảng. Công nghị này đề cập đến nhiều vấn đề tương quan đến đời sống luân lý và bí tích của giáo dân, đến kỷ luật và việc quản trị trong các họ đạo và trong giáo phận (vicariat). Công nghị đã thảo luận kỹ lưỡng và phân định rõ ràng vai trò và nhiệm vụ của các quí chức trong họ đạo. Chúng tôi sẽ đề cập đến điểm quan trọng này trong những chương sau (61).
3) Công Đồng Đông Dương (Concilium Indosinense) năm 1934
Có thể nói cho tới nay, đây là ‘công nghị’ quan trọng nhất được cử hành tại Việt Nam, xét về nội dung phong phú, về bối cảnh lịch sử và về thành phần tham dự, đáng mang tên là ‘công đồng’ (Cocilium). Công đồng này được triệu tập và chủ tọa bởi đức cha Antonius M. Drapier, op, Khâm sứ Tòa Thánh, từ ngày 16.11 đến ngày 06.12.1934, tại Hà Nội (vì thế cha Phan Phát Huồn gọi là ‘Công đồng Hà Nội’). Không kể đức Khâm sứ Tòa thánh, còn có 20 giám mục, 5 bề trên dòng, 21 linh mục cố vấn (10 Pháp, 7 Việt Nam, 3 Tây Ban Nha và 1 Thái Lan). Các thành phần tham dự Công Đồng được chia thành năm ủy ban, mỗi ủy ban lo về một vấn đề:
• Ủy ban I, về hoạt động và quy chế của các giám mục, các thừa sai, các tu sĩ và thầy giảng.
• Ủy ban II, về quy chế của các linh mục bản xứ, các chủng sinh.
• Ủy ban III, về các Bí tích
• Ủy ban IV, về quy chế các giáo phận, về việc giảng dạy, nhất là về công giáo tiến hành.
• Ủy ban V, về tài chánh của Giáo Hội (61’).
Một thành quả quan trọng khác của Công đồng Dông Dương là từ công đồng này sẽ có nhiều thư chung của các giám mục và nhiều cuốn chỉ nam (directoire) của giáo phận. Tất cả là những tài liệu quý giá liên quan đến tổ chức Hội Đồng Quý Chức chúng tôi nghiên cứu.
4) Các Công nghị ít quan trọng khác
Trước tiên là công nghị Huế năm 1747 được cử hành bởi đức cha Lefebvre, giám mục giáo phận Nam Kỳ (1738-1760) với sự hiện diện của đức cha Hilaire de Jésus op, giám mục giáo phận Hải Phòng. Mục đích của công nghị là giải quyết những bất đồng về nghi lễ, nhưng tiếc là không thành công (62).
Lịch sử còn cho biết các công nghị Thọ Đúc (Huế) năm 1747 (63), công nghị Bắc Kỳ (1753) (64), công nghị Hà Nội năm 1795 (65), công nghị Nam kỳ - Cao miên - Xiêm la (Cochinchine-Cambodge - Ciame năm 1841 (66), công nghị Bùi Chu năm 1854 (67). Chúng tôi tiếc là không tìm ra các bản văn, một vài bản văn chúng tôi đã đọc thì không có điểm nào quan trọng.
Mục đích chính của các công nghị là giải quyết và phân định rõ ràng những điều liên hệ đến đời sống Giáo Hội, đến phần rỗi các linh hồn, và cụ thể là đến việc đào tạo và những hoạt động của những người dấn thân vào sứ mệnh truyền giáo tại Việt Nam. Họ là những người đầy tận tụy của Phúc Âm.
IV. Các tôi tớ của Tin Mừng
1) Các nhà truyền giáo Âu châu
Chúng ta biết rằng, từ năm 1649, cha Alexandre de Rhodes đã trở về Roma xin đức giáo hoàng gửi các giám mục và các nhà truyền giáo đến Việt Nam (68). Hơn thế, chính nhờ cái nhìn sâu sắc của ngài mà bao nhiêu khó khăn và chống đối từ nhiều phía, mà năm 1658 Hội Thừa Sai Paris đã thành hình với chủ yếu là rao giảng Tin Mừng tại các nước Đông Dương (69). Không ai có thể phủ nhận sự nghiệp lớn lao của các linh mục Thừa Sai Paris đối với Giáo Hội Việt Nam, nhất là trong thời Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Nhưng trước khi các ngài tới, thì các cha dòng Tên đã có mặt. Và trong một thế kỷ rưỡi, từ 1614 đến 1774, dòng Tên đã hiến cho Giáo Hội non trẻ Việt Nam những linh mục tài ba và nhân đức. Chính nhờ các ngài mà lịch sử Giáo Hội Việt Nam đã có những trang thật đẹp. Chỉ tiếc một điều là vì vụ tranh cãi về nghi thức mà các linh mục dòng Tên bị bó buộc rời khỏi Việt Nam (70).
Theo lời yêu cầu của đức cha Francois Pallu và Lambert de la Motte, các cha Đaminh đã đến Bắc Kỳ năm 1676, mà trước tiên là hai cha Jean d’Arjona, Jean de la Croix. Cộng tác với các cha dòng Phanxicô, dòng Tên và các cha Thừa Sai Paris, dòng Đaminh đã cống hiến cho Giáo Hội Việt Nam nhiều vị tử đạo, sự nghiệp truyền giáo của các ngài tại Giáo Hội này luôn đáng ghi nhớ (71). Ngoài ra, chúng ta không quên sự hiện diện tận tình và tích cực tại Nam Kỳ, đặc biệt trong những hoạt động giáo dục và từ thiện, của các nữ tu dòng thánh Phaolô thành Charles từ 1866 (72), của các Sư Huynh Trường Công Giáo từ 1867 (73), và của các nữ tu dòng kín Lisieux chuyên chú việc tông đồ cầu nguyện, đã đến Sài Gòn năm 1861 (74).
2) Linh mục Việt Nam giữa các linh mục thừa sai
Mối bận tâm lớn lao của Tòa Thánh và của các giám mục là không những lo mời các thừa sai ngoại quốc đến làm việc tại Việt Nam, nhưng còn lo đào tạo các linh mục bản xứ. Các linh mục đầu tiên được truyền chức tại Thái Lan năm 1668. Đó là cha Giuse Trang, Luca Bền và Bênêditô Niên (75). Lịch sử còn nhắc đến các linh mục dòng Tên Việt Nam tiên khởi là cha Valentinô Sui, Lêonê Huế được chịu chức trước năm 1 694 (76). Trước khi được chịu chức linh mục, các ngài đã là thầy giảng mẫn cán. Chính vì thế, việc chịu chức của các ngài là một hãnh diện, mọi sự khích lệ lớn lao cho tổ chức các thầy giảng. Tổ chức này lớn mạnh không ngừng, cả trong những giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Số thống kê năm 1855 cho biết con số 413 linh mục việt nam làm việc sát cánh với 216 cha thừa sai ngoại quốc (77). Để bảo đảm việc đào tạo các linh mục và các thầy giảng, việc thiết lập các chủng viện đương nhiên là một đòi hỏi khẩn trương. Vì thế, từ 1665, một chủng viện truyền giáo Đông Dương đã được thiết lâp tại Juthia (Thái Lan) (78). Rồi năm 1765, một chủng viện của giáo phận Nam Kỳ được xây cất tại Hòn Đất trong tỉnh Hà Tiên. Năm 1780, đức cha Pigneau Bahaine chuyển chủng viện này về Lái Thiêu gần Sài Gòn. Tại giáo phận Bắc Kỳ, người ta nói đến chủng viện Vĩnh Trị (80).
3) Giáo dân Việt Nam
Bên cạnh và dưới sự hướng dẫn của các linh mục thừa sai hay linh mục việt nam, giáo dân việt nam rất ý thức và tích cực lãnh trách nhiệm truyền giáo.
Trước hết chúng ta phải nhìn nhận công nghiệp của các thầy giảng: thừa tác vụ chính yếu của họ là trợ tá các linh mục trong việc đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho dân ngoại, dạy giáo lý cho trẻ em và dự tòng, là cộng tác với các quý chức trong việc điều khiển họ đạo khi linh mục vắng mặt. Đây là một tổ chức tông đồ giáo dân hiệu lực nhất tại Việt Nam đặc biệt trong thời bách hại (81).
Rồi dòng Mến Thánh Giá được thành lập bởi đức cha Lambert de la Motte tại Bắc Kỳ năm 1669 và tại Nam Kỳ năm 1672 (82). Hoạt động của họ thật khiêm tốn, kín đáo nhưng rất hiệu lực, họ lo đăc biệt việc dạy giáo lý cho các dự tòng và lo rửa tội cho các trẻ em hay người lớn ngoại giáo lâm cơn nguy tử.
Sau cùng chúng ta phải nhắc đến một số lớn các tín hữu thâm niên và đạo đức, quen gọi là quý chức hay chức việc. Ngay từ khi một họ đạo nhỏ được hình thành, thì một số tín hữu đạo đức cũng được tuyển chọn thành Hội Đồng Quí Chức để bảo vệ và phát triển cộng đoàn nằm giữa lương dân, đồng thời cũng để mở rộng sinh hoạt truyền bá Phúc Âm. Trong thời kỳ bách hại, các chức việc ở tại chỗ, lo che giấu các thừa sai, bênh vực và hướng dẫn họ đạo, rồi nếu Thiên Chúa muốn, họ hiến dâng mạng sống cho Ngài. Sự cộng tác chân thành và hăng say mà các quý chức dành cho các linh mục và cho nam nữ tu sĩ trong suốt thời cấm đạo còn được biểu lộ cách tích cực và hiệu lực trong thời tái thiết Giáo Hội Việt Nam mà chúng ta sẽ trình bày trong các trang sau đây.
MỤC III
THỜI KỲ TÁI THIẾT VÀ PHÁT TRIỂN (1885-1953)
I. Nền hòa bình và sự tự do què quặt
Người công giáo việt nam ở vào hai thế kẹt: một bên là sự hiện diện của quân đội Pháp trên lãnh thổ quê hương tạo nên nguyên nhân chính khiến các vua chúa, các văn thân và dân ngoại phản ứng chống lại đạo Công Giáo và bắt bớ linh mục và tín hữu không chút thương tâm; một bên khác là viện lẽ các thừa sai và nhiều kitô hữu bị vua chúa và quan lại giết chết, quân đội Pháp đã chiếm đoạt chủ quyền của Việt Nam. Vì thế nền hòa bình và sự tự do mà Giáo Hội Việt Nam được hưởng nhận sau ba trăm năm bách hại luôn bị què quặt bởi sự kiện Quê Hương bị cướp mất chủ quyền. Vì người công giáo mang trên hai vai bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ Quốc.
Sau nhiều lần đe dọa vào các năm 1818 và 1856 (83), thì tháng bảy 1858, vua Pháp đã cho tướng Gigault de Genouilly đổ bộ vào Việt Nam với 3.000 quân và chiếm Cửa Hàn, tức là Đà Nẵng ngày nay (84). Qua năm 1859, Sài Gòn rơi vào tay quân Pháp. Và hòa ước năm 1862 cho phép người pháp chiếm làm thuộc địa ba tỉnh của Nam Kỳ, nghĩa là cả giáo phận Sài Gòn (Vicariat de Cochinchine Occidentale) (85). Nhưng đó mới chỉ là bước đầu trong tham vọng thuộc địa của người Pháp. Bởi vì năm 1867, quân đội Pháp dưới quyền chỉ huy của tướng Dupré đã tiến chiếm nhiều tỉnh khác của Nam Kỳ (86). Sau khi đã chiếm cứ và đặt xong nền hành chánh ở Nam Kỳ, quân đội Pháp lại tiến ra Bắc Kỳ và chiếm đóng Hà Nội năm 1883, rồi đòi vua Việt Nam phải đặt cả Bắc Kỳ và các tỉnh khác của Việt Nam (tức là các tỉnh Trung Kỳ hay giáo phận Huế và giáo phận Quy Nhơn (Le Centre de l’Annam ou deux Vicariats de Cochinchine Septentrionale) (Huế) et Orientale (Quy Nhơn) dưới quyền bảo hộ của Nước Pháp (87). Chế độ thuộc địa – bảo hộ của Pháp tại Việt Nam chỉ chấm dứt vào năm 1954.
II. Hai Công Nghị chỉ đạo
Vừa khi có hòa bình và tự do, các giám mục miền Nam và miền Bắc họp nhau lại để kiểm điểm tình hình và đưa ra những chỉ thị cần phải có cho công trình tái thiết chung. Chúng tôi nghĩ, đó là mục tiêu của hai công nghị miền, công nghị Nam Kỳ năm 1880 và công nghị Bắc Kỳ năm 1900.
1) Công nghị Nam Kỳ
Công nghị Nam Kỳ được tổ chức tại Sài Gòn từ ngày 07 đến 14.08.1880 do các đức cha Isidore Colombert, giám mục giáo phận Sài gòn, đức cha Marie Louis Galibert, giám mục giáo phận Quy Nhơn, và đức cha Gaspard, giám mục giáo phận Huế. Nhiều linh mục và thầy giảng được mời tham dự. Bản văn ghi các quyết định của công nghị gồm bốn chương:
Chương I ‘về giáo sĩ’ gồm 16 khoản: Việc thánh hóa các tín hữu lệ thuộc sự thánh thiện của hàng giáo sĩ (1-5); Chia giáo phận ra thành hạt và xứ hay họ đạo (6-10); Việc quản trị và việc bổ nhiệm (11-16).
Chương II ‘Về trường học và chủng viện’ gồm 21 khoản: Cần thiết phải mở các trường học (17); Vấn đề chủng viện và những nguyên tắc thực tế để tuyển chọn và đào tạo các chủng sinh (18-37).
Chương III ‘Về việc truyền bá đức tin’ gồm 12 khoản: Rao giảng Tin Mừng là mục tiêu thứ nhất của sứ mệnh tông đồ (18); thiết lập các họ đạo mới và tổ chức lại Hội Đồng Quí Chức (39-40); phương pháp truyền giáo (41-50).
Chương IV ‘Về việc coi sóc các linh hồn’ gồm 21 khoản: Việc dạy giáo lý (51-58); thiết lập các hội đoàn (59); huấn luyện các giáo lý viên (60); thái độ của linh mục đối với các tội nhân và đối với các dự tòng (61-65); vấn đề hôn phối (66-72) (88)
2) Công đồng Bắc Kỳ
Công đồng Bắc Kỳ được cử hành tại Kẻ Sặt năm 1900 dưới quyền chủ tọa của đức cha Joseph Torres, giám mục giáo phận Hải Phòng, với sự tham dự của đức cha Louis Pineau, giám mục giáo phận Vinh, đức cha Pierre Marie Gendreau, giám mục giáo phận Hà Nội, đức cha Paul Ramond, giám mục giáo phận Hưng Hóa, đức cha Maximus Fernandes, giám mục giáo phận Bùi Chu và đức cha Maximus Valesco, giám mục giáo phận Bắc Ninh. Ngoài ra còn có 5 cha dòng Đaminh và 3 cha Thừa Sai Paris được mời tham dự với tư cách cố vấn và thần học gia.
Văn kiện đã được các giám mục biểu quyết gồm 4 mục, mỗi mục chia thành nhiều chương và mỗi chương chia thành nhiều tiết. Văn kiện đầu tiên được soạn thảo bằng tiếng latinh, sau được dịch ra tiếng Việt Nam. Chúng tôi nêu lên những ý tưởng chính sau đây:
Mục I ‘Về nhân sự’, chia thành 7 chương: Các giám mục (I); Các thừa sai và linh mục bản quốc (II); Các thầy giảng (III); Học trò nhà Đức Chúa Trời (IV); Các chủng sinh (V); Đời sống chung của những người trong nhà Đức Chúa Trời (VI); Các nữ tu (VII).
Mục II ‘Về tài sản’, gồm 2 chương: Bảo trì tài sản Giáo Hội (I); Việc quản trị và xử dụng tài sản Giáo Hội (II).
Mục III ‘Ban hành các Bí Tích’ gồm 7 chương, mỗi chương đề cập đến một Bí Tích.
Mục IV ‘Về việc điều hành các họ đạo’, gồm 9 chương: Tham dự Thánh Lễ và kiêng việc xác các ngày chủ nhật và lễ trọng (I); Ăn chay và kiêng thịt (II); Các chức việc của họ đạo (III); Các trường giáo lý (IV); Trường tiểu học và các giáo viên (V); Những dị đoan phải xa tránh (VI); Vấn đề an táng (VII); Các dự tòng (VIII); Các cô nhi viện (IX) (89).
III. Thư chung của các giám mục
Sau những năm dài chiến tranh và bắt đạo, công trình tái thiết được bắt đầu bằng mọi phương thức, trong mọi phạm vi. Trong giai đoạn này, các giám mục đã ra nhiều thư mục vụ, quen gọi là thư chung (89). Nội dung của những thư chung có thể tóm lược vào năm chủ đề chính yếu:
Khuyến khích tín hữu sống vững đức tin, thực hành các nhân đức, tham dự thánh lễ, chăm lo việc giáo dục con cái, năng lãnh nhận các bí tích (90).
Kêu gọi giáo dân đóng góp tích cực và quảng đại vào việc tái thiết các nhà thờ, trường học của xứ đạo đã bị phá huỷ trong thời bị bách hại và chiến tranh (91).
Khích lệ giáo dân gia nhập các hội đoàn đạo đức: Hội Thánh Thể, hội Mân Côi, hội Các Đẳng… (92).
Mời gọi tín hữu tích cực cộng tác với các linh mục trong việc truyền bá Tin Mừng cho lương dân bằng những phương thế có thể. Các giám mục nhấn mạnh đến việc cầu nguyện, việc rửa tội cho trẻ em lương dân, việc làm gương sáng cho người chưa có đạo… (93).
Tổ chức lại các Hội Đồng Quí Chức của họ đạo bằng cách xác định các quy luật của Hội Đồng và của họ đạo (94).
IV. Tái thiết các họ đạo
Những biến động hãi hùng của bách hại và chiến tranh đã phá vỡ nhiều địa điểm truyền giáo, nhiều họ đạo mới thành hình… Giờ đây, các vị chủ chăn, giám mục và linh mục mang chung một tâm tưởng giống như lời diễn tả của cha Lelarbousse sau đây: “Tôi tê tái tâm can nhìn thấy gia tài của Chúa đã bị phá hủy tan hoang giữa bao hỗn loạn… Các họ đạo biến mất đến gần một nửa. Giáo dân, người này bị gục ngã dưới lưỡi gươm, người khác chết rũ vì đói rét… Phần lớn tín hữu không được xưng tội rước lễ đã từ mười lăm, hai mươi, ba mươi năm hay lâu hơn nữa…” (95). Chính vì thế, ngay từ khi hòa bình ló rạng và tự do tôn giáo được bảo đảm, các giám mục, linh mục, các thầy giảng và toàn thể Dân Chúa, đã tra tay vào một công việc khẩn trương: Công trình tái thiết!
1) Tái thiết các họ đạo.
Với một nhịp độ mau chóng, người ta bắt đầu tái thiết các họ đạo đã bị phân tán bằng việc dựng lên những mái nhà tranh cho giáo dân trở về có chỗ ở, dựng lên ngôi nhà thờ đơn sơ để cử hành phụng tự, những trường kinh bổn tạm thời cho con em và nhà xứ cho linh mục hay thầy giảng cư ngụ, và tu viện cho các nữ tu Mến Thánh Giá. Tất cả là những điều kiện thiết yếu để đưa giáo dân trở về nề nếp sống đạo đã nhiều năm bị cắt đứt: trau dồi giáo lý, lãnh nhận các bí tích, phát triển sức sống của họ đạo… Đặc biệt là tổ chức lại các Hội Đồng Quý chức hầu có những giáo dân ưu tú cộng tác với linh mục trong mọi phạm vi tạo dựng, duy trì và phát triển họ đạo…Sau 20 năm tái thiết, người ta vui mừng nhìn thấy những thành quả đáng khích lệ. Chẳng hạn ở giáo phận Sài Gòn, năm 1898, đức cha Depierre đã viết: “Sau 10 năm, giáo phận hầu như đã được xây dựng lại, và đó là công trình chính yếu đức cha Colombert (1872-1894) đã thực hiện. Năm 1872, trong giáo phận Sài Gòn chưa có một ngôi nhà thờ nào đáng gọi là nhà thờ, trường học giáo xứ rất hiếm hoi, các nhà xứ chỉ là những mái nhà tranh ẩm ướt và đổ nát…! Bây giờ, nhờ sự thúc đẩy và khích lệ của đức cha Colombert, nhờ sự tận tâm của tất cả các ‘đầy tớ tin mừng’ và lòng quảng đại của giáo dân… giáo phận đã có một bộ mặt khang trang và thịnh vượng với nhiều nhà thờ kiên cố, nhiều ngôi trường tân tiến… Năm 1892, giáo phận Sài Gòn đã đếm được 250 nhà thờ hay nhà nguyện” (96).
Sự kiện làm cho người ta chú ý hơn cả là ngôi nhà thờ chính tòa trang nghiêm, đồ sộ của nhiều giáo phận. Nhưng nổi bật nhất với những nét nghệ thuật Á Châu có một không hai, đó là nhà thờ chính tòa của giáo phận Phát Diệm được xây cất năm 1891 dưới sự hướng dẫn của linh mục Trần Lục. Ông Sohuller đã không quá lời khi quả quyết: “Nhà thờ chính tòa Phát Diệm nghệ thuật nhất trong các xứ truyền giáo” (97).
2) Tổ chức lại các Hội Đồng Quí Chức họ đạo.
Một trong những lo âu lớn của các vị chủ chăn là tổ chức lại Hội Đồng Quí Chức của các họ đạo sau thời chiến tranh và cấm đạo. Bởi vì họ đạo có thể tồn tại khi vắng bóng linh mục, nhưng nó đòi hỏi phải có sự điều hành bởi một số quí chức. Vì thế, việc tổ chức lại Hội Đồng Quí Chức hay Hội Đồng Chức Việc là một điều kiện tất yếu trong việc tái thiết họ đạo. Đàng khác, trong mỗi giáo phận, số Hội Đồng Quí Chức cũng lớn bằng con số nhà thờ hay nhà nguyện. Trong hầu hết các thư chung và các công nghị, các giám mục đều tỏ ra rất lo lắng và nỗ lực hoàn thành công tác mục vụ cơ bản này. Trong chương sau, chúng ta sẽ trình bày chi tiết những bản văn chính thức do các giám mục đã biểu quyết tương quan đến Quí Chức và Hội Đồng Chức Việc, cách riêng cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert soạn và ấn hành năm 1884.
3) Tái thiết các trường học của họ đạo.
Sau nhà thờ hay nhà nguyện, thì trường học cũng là mối bận tâm lớn của người công giáo trong họ đạo. Các giám mục, linh mục và quí chức ao ước mỗi họ đạo có một trường dạy kinh bổn. Kể từ khi được hưởng hòa bình và tự do hành đạo, mỗi giáo phận đã hy sinh nhiều tiền của cho công việc xây cất trường học, cốt để các trẻ em có điều kiện học kinh bổn và chữ nghĩa. Công nghị Nam Kỳ năm 1880 bày tỏ rất rõ về ước nguyện này: “Cất trường dạy giáo lý và chữ nghĩa là điều cần thiết tuyệt đối. Vì phải có nhà trường để giáo dục giới trẻ công giáo về đời sống đức tin và đời sống luân lý. Vậy các linh mục phải làm hết sức mình đầu tư vào công tác học đường này” (98).
Sau đây là một vài thành quả đáng chú ý theo những bá cáo của các giám mục: Năm 1891, đức giám mục Hải Phòng đã viết: ”Scolae catechisticae fore in unaquaque christianitate habentur” (Hầu như mỗi họ đạo đều có trường dạy kinh bổn) (99). Rồi năm 1892, đức cha Depierre đã báo cáo về tình hình giáo phận của ngài: “Các sư huynh Lasan có trường Tabert tại Sài Gòn với 331 học sinh nội trú và 236 học sinh ngoại trú; các nữ tu dòng Saint Paul de Chartres điều khiển một trường ngay tại Sài Gòn với 190 học sinh, và 10 trường tại các họ đạo với 1039 học sinh; ngoài ra trong cả giáo phận Sài Gòn có 156 trường tiểu học tại các họ đạọ với 8.067 học sinh’ (100). Sau cùng, năm 1907, trong tờ báo cáo gửi sang Tòa Thánh, đức cha Fernandez O.P. đã quả quyết: “Scolae elementaris catholicae habentur in singulis communitatibus christianis” (Trong mỗi cộng đoàn kitô giáo đều có trường giáo lý sơ đẳng) (101).
Chính nhờ những nỗ lực tái thiết các họ đạo như trên, mà tình hình chung của các giáo phận được bình thường hóa mau lẹ, mà giáo dân sớm được hưởng nền giáo dục kitô đầy đủ, nâng cao đời sống đạo, và nhiều luơng dân xin vào đạo Chúa, và Giáo Hội Việt Nam đóng góp tích cực vào công trình tái thiết quốc gia, đặc biệt bằng những công tác giáo dục, văn hóa và từ thiện.
V. Những tổ chức giáo dục và từ thiện.
Song song với công trình tái thiết các họ đạo, là việc xây cất các cơ sở giáo dục và từ thiện ở cấp giáo phận. Các đức giám mục rất bận tâm về các chủng viện, về các trường trung học, về bệnh viện và các chẩn y viện… Dĩ nhiên những cơ sở giáo dục và từ thiện này đều nhằm mục đích củng cố đời sống của Giáo Hội Việt Nam, nhất là sứ vụ truyền giáo cho lương dân.
Kể từ Công nghị Nam Kỳ (1880), rồi Công nghị Bắc Kỳ (1900), các giám mục đã tỏ rõ thiện chí muốn thể hiện những công trình giáo dục và từ thiện. Về chủng viện, Công nghị Nam Kỳ tuyên bố: “Việc thiết lập chủng viện để giáo dục và đào tạo hàng giáo sĩ bản quốc là mục đích chính và chủ yếu của Tòa Thánh khi sai các ‘vị đại diện tông tòa’ (giám mục) qua Đông Phương, chính vì thế chúng tôi phải làm hết sức để thể hiện công trình này”. Tiếp theo lời tuyên bố trên đây, là những quy luật tuyển chọn và huấn luyện các chủng sinh. Thí dụ: các cha sở phải chọn lựa những đứa trẻ nam có hạnh kiểm tốt, đạo đức và thông minh… trong những gia đình đã có đạo lâu năm, họa lắm mới chọn một người trẻ thuộc gia đình mới theo đạo” (102). Công nghị Bắc Kỳ cũng tuyên bố tương tự (103).
Về các cơ sở từ thiện thì các nghị phụ của công nghị Nam Kỳ tuyên bố rằng: “Mọi hoạt động từ thiện kitô giáo là một sự lôi cuốn mãnh lực người lương tìm về với Giáo Hội. Cho đến nay, các nhà thương đã là một nơi lôi cuốn, thúc đẩy và đón nhận nhiều người lương tìm về với Thiên Chúa. Tùy theo khả năng tài chánh, mỗi giáo phận sẽ cố gắng xây cất thêm các cơ sở từ thiện” (104). Các giám mục miền Bắc còn nhấn mạnh nhiều hơn nữa về các công trình từ thiện khi nói về ‘de modiis ad fides propagandam’ (về các phương tiện truyền giáo) (105) và ‘de orphanotrophiis’ (về các cô nhi viện) (106). Trên thực tế, vào năm 1927, tại miền Nam đã có 17 bệnh viện hay chẩn y viện và 44 cô nhi viện. Tại miền Bắc, có 39 bệnh viện hay chẩn y viện và 56 cô nhi viện (107).
VI. Sự đóng góp vô lường của các cộng đoàn tu sĩ.
Công trình tái thiết Giáo Hội Việt Nam về mọi mặt như chúng ta vừa thấy đòi hỏi sự đóng góp của mọi tầng lớp dân Chúa. Không chỉ các giám mục và linh mục, các thầy giảng và quí chức họ đạo, nhưng còn có chừng 40 cộng đoàn tu sĩ đã thật sự dấn thân và tận lực hoạt động để vừa tái thiết vừa phát triển Giáo Hội Việt Nam. Những cộng đoàn tu sĩ này đã đóng góp theo những đường hướng khác nhau nhưng rất phong phú, với những phương thức khác biệt nhưng hiệu lực. Tiếc là bị hạn chế bởi khuôn khổ của bài nghiên cứu, chúng tôi không thể làm gì hơn là chỉ nêu danh những cộng đoàn chính yếu với năm tháng đầu tiên cập bến Việt Nam.
Những cộng đoàn chiêm niệm: Dòng Kín Sài Gòn (1861), Hà Nội (1865), Bùi Chu (1923) và Thanh Hóa (1929). Dòng Xitô (1923) và dòng Biển Đức (1936).
Những cộng đoàn truyền giáo: Dòng Phanxicô (1577), Dòng Đaminh (1738), Dòng Chúa Cứu Thế (1929).
Những cộng đoàn giáo dục: Sư huynh trường Công Giáo (1866), Dòng Thánh Tâm (1925), Hội Xuân Bích (1929).
Những cộng đoàn từ thiện: Dòng Chúa Quan Phòng (1876), Dòng Nữ Tử Bác Ái (1928), Dòng nữ Phanxicô (1932).
Những cộng đoàn giáo dục - bác ái; Dòng Mến Thánh Giá (1669), Dòng Saint Paul de Chartres (1866), Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm (1920) (108).
VII. Tòa Khâm Sứ Toà Thánh
Đứng đầu Giáo Hội Việt Nam (và Cao Miên, Lào) là Đức Khâm Sứ Tòa Thánh. Tòa Khâm Sứ được thiết lập ngày 20.05.1925 đầu tiên ở Huế, đến năm 1951 chuyển ra Hà Nội. Các đức khâm sứ Tòa Thánh là đức cha Constantino Ajuti, quốc tịch Ý (1928-1936), đức cha Antonin Drapier (1936-1950), đức cha Jonh Dooley (1950-1959 (109).
Cần lưu ý rằng, hai lần kể từ khi lập hai giáo phận đầu tiên (1659), Roma đã gửi qua Việt Nam hai Vị Kinh Lược Tòa Thánh (Visiteur Apostolique): lần thứ nhất vào năm 1739, là đức cha Achard de la Baume, giám mục Harlicarnasse, ngài từ trần tại Huế ngày lễ Phục Sinh, 02.04.1741 (110); và lần thứ hai, vào năm 1922 là đức cha Lecronat sj, giám mục Archialus và Đại Diện Tông Tòa ở Sienlisien (Trung Hoa) (110).
VIII. Công Đồng Đông Đương 1934.
Công việc đầu tiên đáng ghi nhớ của đức khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam là triệu tập một công đồng cho tất cả các giáo phận (đại diện tông tòa) ở Đông Dương năm 1934 tại Hà Nội. Công Đồng Đông Dương quy tụ tất cả các giám mục tại Việt Nam, Cao Miên và Lào. Công đồng đặt dưới quyền chủ tọa của đức tổng giám mục Columbano Dreyer, khâm sứ Tòa Thánh. Một cách chung, có thể nói: các nghị phụ của công đồng thảo luận cách rộng rãi những vấn đề mà chúng ta đã đọc được trong văn bản của công nghị Bắc Kỳ năm 1900, trừ những điểm liên quan đến tổ chức Công Giáo Tiến Hành theo thông điệp ‘Nulla dies sine circulo’ (Không ngày nào mà không hội họp) của đức giáo hoàng Piô XI ban hành ngày 4.3.1928 (111). Sau đây là những kết quả quan trọng của công đồng:
Thống nhất, ít ra là trong các đường hướng chung, các hoạt động truyền giáo trong toàn nước Việt Nam cho dù trên bình diện chính trị, Việt Nam bị chia thành ba miền (Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ) từ năm 1874 và mỗi miền đặt dưới một chế độ khác nhau, thuộc địa hay bảo hộ.
Chấm dứt giai đoạn tái thiết và từ nay bắt đầu giai đoạn phát triển hay củng cố với phong trào Công Giáo Tiến Hành mà chính Tòa Thánh nhiệt liệt khuyến khích.
Thúc đẩy các giáo phận củng cố và phát triển tất cả những công trình đã tái thiết hay mới thực hiện theo tinh thần chung của công đồng bằng cách soạn thảo những cuốn Chỉ Nam riêng cho mỗi giáo phận. Cụ thể, sau cuốn Chỉ Nam của giáo phận Sài Gòn và Cao Miên (1922), là cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế (1940), của giáo phận Hà Nội (1941) và của giáo phận Quy Nhơn (1942). Những cuốn Chỉ Nam này trung thành với những quyết định của Công đồng Đông Dương.
IX. Máu của các Vị Tử Đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu.
Đúng như lời ông Tertulien đã nói: “Sanguis Martyrum, semen christianorum” (Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu). Số người công giáo Việt Nam năm 1890 là 708.000 và năm 1953 lên tới 1.800.000 trên 36.000.000 dân cư Việt Nam. Các linh mục Việt Nam, từ con số 4 vào năm 1668 đã tăng lên 43 vào năm 1700, 119 vào năm 1800, 385 vào năm 1900 và 1.300 vào năm 1954. Ngoài ra còn có chừng 1.931 nhà thờ và 4.071 nhà nguyện, nghĩa là 6.000 họ đạo và mỗi họ đạo đều có một Hội Đồng Quý Chức hay Hội Đồng Chức Việc. Sự thật, người công giáo mới chỉ là 1/10 hay 10% dân số Việt Nam. Tuy nhiên, họ đã tạo thành một khối dân quan trọng, đồng nhất trong niềm tin, trong hành động và trong cơ cấu tổ chức. Các họ đạo là những đơn vị cơ bản của giáo phận mà năm 1659 mới chỉ có hai, và sau thời bách hại tức năm 1888 có 8, nhưng đến năm 1954 đã lên 15 giáo phận. Hơn thế, năm 1933 là năm tấn phong giám mục tiên khởi Việt Nam, đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (113). Và năm 1954 có 7 giáo phận đã giao về cho các giám mục Việt Nam. Họa đồ dưới đây cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lịch sử của Giáo Hội Việt Nam từ khởi thủy cho đến năm 1954.
X. Họa đồ phát triển lịch sử của Giáo Hội Việt Nam từ 1659 đến 1954.
LES VICARIATS APOSTOLIQUES DU VIETNAM EN 1953
------------------------------------------
Chú thích
(1) Những tài liệu về thời đầu truyền giáo tại Việt Nam ít được phổ biến. Chúng tôi rút ra từ một bài báo ký tên V.B. với tựa đề “Les premiers missionnaires européens en pays d’Annam et au Cambodge 1533-1633’, trg Annuaire Pontifical Catholique de 1928 tr. 599 và tt. – Xem LÊ THÀNH KHÔI, Le Viêtnam, Histoire et civilisation, I Paris 1955, tr. 288; A. VŨ VĂN ĐÌNH, De Fontibus Juris Particularis Ecclesiastici Missionis Vietnamensis, Roma 1964 tr. 34 chú thích (5).
(2) Theo Ordonnez de Cevallos trg ‘Historia de las Missiones Dominicas en Tungkin’, Avila de Gisbert, 1928, impenta Catolica, Pedro de la Gasca 6, ‘Thánh Tôma Tông Đồ có lẽ đã đích thân đến Bắc Việt và đã hối cải một ông hoàng trở lại… rồi đến thế kỷ XIII, Kitô giáo xâm nhập vào Việt Nam do đoàn quân của Khoubilai Khan… và thế kỷ XIV, dưới triều đại của The-an-Nan (1318-1342) (Chê–a-Nam), cha đáng kính Odorico de Pordenone, dòng Phanxicô, đã viếng thăm Champa: “Cha đã chứng kiến những điều diệu kỳ, như có những đàn cá chạy đến tôn chào đức vua, mười bốn con bạch tượng ăn mặc diễm lệ và một con hải quy kếch sù, to lớn hơn cái chuông của thánh Martin thành Padoue, nhưng không có tôn giáo…” – Xem thêm PHAN PHÁT HUỒN, ‘Việt Nam Giáo Sử’ I, tr. 25; NGUYỄN HỒNG, ‘Lịch Sử Truyền Giáo ở Việt Nam’ I, tr. 17. – GUENNOU J. ‘Vigne Nouvelle aux Missions d’Indochine’ trg SCP FMR I, tr.573.
(3) MGR DEPIERRE ‘Situation du Christianisme en Cochinchine à la fin du XIXe Siècle’, Saigon 1898, tr.6; P. GRANJEAN, ‘Le Statut des Missions en Indochine’, Hà Nội 1941, tr. 24; VŨ VĂN ĐÌNH sd. Tr.34, chú thích (6); GENNOU sd. I, tr. 573-574.
(4) P. GRANJEAN sd. tr.25; GENOU J. sd I, tr. 574
(5) VŨ VĂN ĐINH, sd, tr. 56, chú thích (10)
(6) Mgr DEPIERRE, sd. tr.9
(7) VŨ VĂN ĐÌNH, sd, tr.36 chú thích (11).
(8) VŨ VĂN ĐÌNH, sd. tr. 36, chú thích (12).
(9) Cần lưu ý rằng chúng ta gọi Nam Kỳ (Conchinchine) từ 1600 đến khi quân Pháp chiếm đóng thì không phải là Nam Kỳ mà thủ đô là Sài Gòn, còn Anam mà thủ đô là Huế, thì đúng hơn là Centre-Annam, xem CHAPOULIE R. ‘Aux Origines d’une Eglise’, I, tr. 8: ‘L’origine de la division Tonkin et Cochinchine’.
(10) Xem VŨ VĂN ĐÌNH sd, tr. 37 chú thích (16); CHARMOT CL. ‘Histoire de l’Evangélisation’ trg Sacerdos (1974), ss 155-157, tr. 55-57.
(11) VŨ VĂN ĐÌNH, sd. tr.38 chú thích (19); - GENOU sd, trg. SCPFMR I tr.575-577
(12) VŨ VĂN ĐÌNH sd tr. 38 chú thích (20) – MGR DEPIERRE sd. tr.10
(13) Xem ROMANET DU CAILLOT, ‘Essai sur les Origines du Christianisme au Tonkin et dans les autres Pays Anamites’ tr. 83-144, - PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.24-31; - NGUYỄN HỒNG, sd. I. tr. 29-31.
(14) Năm 1614, Daifusama, hoàng đế nước Nhật ra lệnh trục xuất tất cả các thừa sai và bắt bớ người công giáo. Một nhóm người Nhật công giáo đã chạy qua Hội An (Faifô) và Cửa Hàn (Touranne). Xem NGUYỄN HỒNG sd; I, tr.46
(15) Theo PHAN PHÁT HUỒN, sd I tr.35 chú thích (1), thì các linh mục dòng thánh Aucơtinh đã đến Hội An như là các tuyên úy của thủy quân Bồ Đào Nha vào khoảng năm 1595; - xem BARTOLI, ‘Istoria della Compagnia di Giesu’, IV, tr.184; - NGUYỄN HỒNG, sd. I, tr.63.
(16) RHODES A. ‘Divers Voyages et Missions’ tr. 74; - BARTOLI sd. tr.30.
(17) Xem NGUYỄN HỒNG, sd. I. tr.73-94; - BARTOLI sd. tr. 207-230
(18) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr.99-105
(19) Xem NGUYỄN HỒNG, sd. I. tr.105-106
(20) RHODES A. ‘Histoire du Royzume de Tonkin et des grands progrès que la prédications de l’Evangile y a faits en la conversion des infidèles’ tr.292.
(21) BONIFACY ‘Les débuts du Christianisme en Annam’ tr.11.
(22) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.82
(23) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.88
(24) BARTOLI sd. IV. tr. 182
(25) Xem RHODES R. Divers Voyages et Missions… tr.156-157
(26) LAUNAY A. ‘Histoire générale de la Société des Missions Etrangères de Paris’, I, tr.7
(27) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr.60
(28) NGUYEN HỒNG sd. I, tr.128
(29) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.138
(30) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.175
(31) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.199
(32) Nhiều tác giả nói rằng: Các linh mục Việt Nam đầu tiên là quý cha Jean Huế, Benoit Hiền. Trong cuốn ‘Việt Nam Giáo Sử’ cha Phan Phát Huồn đưa ra những tư liệu chính xác chứng tỏ ngược lại. Vì thế ở đây chúng ta chấp nhận ý kiến của cha Huồn. Xem PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.136-138
(33) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr. 206
(34) BARTOLI sd. IV, tr. 89
(35) Xem BORRI C. ₡Relatione della nuova missione delli PP della Comagnia de Giesu al Regno della Cocincina’ tr.181
(36) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.133-140
(37) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr.155.
(38) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr. 193-197; - PHAN PHÁT HUỒN sd.I. tr.93
(39) RHODES A. ‘Divers voyages et Missions …’ tr.194
(40) RHODES A. ‘Divers voyages et Missions …’ tr.197
(41) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.199-201
(42) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.180-183
(43) RHODES A. ‘Divers voyages et Missions…’ tr.211
(44) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.114
(45) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.145
(46) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.146
(47) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.154-156
(48) PHAN PHÁT HUỒN sd, I, tr.172-173
(49) PHAN PHÁT HUỒN sd, I, tr.160,180-185
(50) NGUYỄN VĂN QUẾ ‘Histoire des pays de l’Union Indochine’ tr.141; PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.228
(51) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.210
(52) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.342-343
(53) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.343
(54) PHAN PHÁT HUỒn sd. I, tr.354-379;
(55) TRỊNH VIỆT YÊN ‘Máu tử đạo trên đất Việt’ tr.67
(56) CHAPOULIE H. sd. I, tr. 110-113; - LOUVET L. ‘La Cochinchine Religieuse’, I, tr. 254, - VŨ VĂN ĐÌNH sd. tr. 40
(57) CHAPOULIE H. sd. I, tr.144-145 – LAUNAY A. ‘Histoire de la Mission du Tonkin’ I, tr. 24-26; ‘Histoire de la Mission de la Cochinchine’ I, tr.7-9.
(58) RHODES A. ‘Divers voyages et Missions…’ tr. 102 chú thích (1). – MADRAS ‘Catholic directory for 1883: Missions Annamites’ tr. 196-199.
(59) Đức cha FALLU Đại Diện Tông Tòa Bắc Kỳ, bấy giờ bận công việc Giáo Hội tại Âu Châu đã giao quyền giám quản Tông Tòa của ngài cho đức cha Lambert de la Motte. Xem PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr. 448.
(60) CHAPOULIE H. sd I. tr.235-236. - LAUNAY A. ‘Histoire générale de Société des MEP’ L tr. 140-141; - PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.106-107; 134-135.
(61) LAUNAY A. ‘Histoire de la Mission de Cochinchine’ I, tr.107-108; PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.106-107
(62) LOUVET H. sd. I. tr.362 –LAUNAY A. ‘Histoire de la Mission de Cochinchine’ II, tr.149-206.
(63) Xem PERZ L. ‘Los Espanoles en el imperio de Annam’ trg Archive Ibero - Americano XXVII (Madrid 1927) tr.176-195
(64) Trg Regiona de PP Domenicani’ (Roma 1757) tr.14
(65) LAUNAY A. ‘Memorial de la Société des Missions Etrangères de Paris’ 1916, tr.408
(66) Văn khố Bộ Truyền Giáo tr.162-175
(67) Trg ‘Annales de la Prop. De la Foi 29’ (Lyon 1857), tr.63
(68) RHODES A. ‘Relatio ad B.R.E. Cardinales’ (in Annamitica Ecclesia) trg LAUNAY A. Documents historiques relatifs à la Société des M.E.P., Paris 1904, I, tr. 507-508: «… Et certe miser Japonias Ecclesias status, cui nulla nuno humana industria subvenire potest, probe ostendit quam necessarios singulis Ecclesìs pastores qui de sufficientibus sacerdotibus mature providere illis possint, ne postest igniente persecutione, nullum possit adhibent remedium ut in Japonia patet… Ne igitur simile dannum Ecclesiae Anamiticae accedat, opere pretium est ut egregius aliquis est sanctus vir ad hoc divinum opus elegatur… Nullo autem modo id Regis Catholici jurisdictioni officit, tum quis non petuntur proprì eorum locorum episcopi, sed tantum ad alias Ecclesias in partibus pertinentes, qui in praesznti necessitate Christianis illis consultant ne sine sacramentis interis decedant…».
(69) Mgr DEPIERRE sd. tr.10
(70) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.113
(71) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.141-143.
(72) LOUVET H sd.II tr.336: - PHAN PHÁT HUỒN sd I. tr.351
(73) LOUVET H. sd, II. tr.359; - PHAN PHÁT HUỒN sd I tr.353
(74) LOUVET H. sd, II, tr.346; - PHAN PHÁT HUỒN sd I. tr.352
(75) CHAPOULIE sd, I; tr.325-326; - DESTOMBES ‘Le collège général de la Société des MEP’ tr.7 – LAUNAY A. ‘Histoire de Mission de Cochinchine’ I, tr.84-89.
(76) BONIFACY sd. tr. 91
(77) Trg ‘Missionnes Catholicae descriptae 1891’ (Ex typographia polyglotta S.C. de Prop. Fidei, Roma), tr.237
(78) PHAN PHÁT HUỒN sd.I. tr.112
(79) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.121, 167
(80) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.291, 307
(81) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr.126-128, 160-163
(82) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.448-461
(83) Năm 1818, nước Pháp đòi vua Gia Long nhượng cửa Touranne và đảo Côn Sơn cho nước Pháp; năm 1856 vua nước Pháp gửi một lá thư cho vua Tự Đức khiển trách là đã giết các thừa sai Pháp. Xem PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.308.
(84) LOUVET H. sd. II, tr.228
(85) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.315
(86) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.362.
(87) TRẦN TRỌNG KIM ‘Việt Nam sử lược’ tr.525; - LÊ THÀNH KHÔI ‘Le Vietnam’ tr. 376-377. PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.367.
(88) TEYSSEYRE, ‘Un Missionnaire albigeois en Cochinchine’ phần phụ lục, tr. 339-357: Chúng tôi xin đặt công nghị Nam Kỳ (Cochinchine) 1880 vào thời kỳ tái thiết, bởi vì, mặc dầu có sự phân chia lịch sử, các giáo phận của Miền Nam thực tế đã được bình định từ hòa ước1874 ký kết giữa Việt Nam và Pháp.
(89) Xem ‘Acta et Decreta Primae Regionalis Synodi Tunquinensis 1900’, Kẻ Sở, Ex typis Missionis Tunquini Occ. 1905.
(90) Phần lớn các thư chung được tập trung lại, được in ra và phổ biến trong các cuốn: 1) ‘Les lettres pastorales de Mgr Miche et Mgr Colombert, vicaires apostoliques de la Cochinchine Occidentale’, Sàigòn, 1908; 2) ‘Những thư chung của đức cha Chiểu và đức cha Phước đã làm từ 1868-1890’, Kẻ Sở 1890; 3) ‘Thư chung của Bề Trên địa phận Tây Đàng Ngoài từ 1895-1906’, 3 cuốn, Kẻ Sở 1905; 4) ‘Sách thuật lại các thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài’, Kẻ Sở 1908; 5) ‘Mười bảy thư chung của ba giám mục địa phận Sàigòn’, 3 cuốn, nhà in Tân Định, 1918; 6) ‘Thư chung địa phận Thanh’, 2 cuốn, Hồng Kông, 1920.
(91) Mgr Colombert: Mùa Chay 1880, 1881, 1883, 1884, 1886, 1901; Mgr Gendreau: Phục Sinh 1889, Mùa Vọng 1890, Mùa Giáng Sinh 1905; Mgr Marcou: Mùa Giáng Sinh 1903, Mùa Chay 1908, 1911.
(92) Mgr Miche, ngày 15.08. 1869; Mgr Colombert: thư chung vào Tháng Đức Bà 1876, Mùa Vọng 1877, Lễ Ba Vua 1882; Mgr F.M. Gendreau: Mùa Giáng Sinh 1899, 1908
(93) Mgr Miche: các thư ra ngày 15.08.1869, Mgr Colombert, thư ra ngày 01.01.1881, Mùa Chay 1882, 1900; Mgr Theurel, thư ra ngày 27.08.1868; Mgr Pigunier thư ra 27.02.1869; Mgr P.M. Gendreau thư ra ngày 21.11.1850, ngày 08.02.1899, Mùa Chay 1911; Mgr Marcou thư ra ngày 02.03.1888, ra ngày 08.09.1908, Mùa Chay 1911, 1916, 1917.
(94) Mgr P.M. Gendreau: Các thư ra ngày 01.01.1847, 07.09.1894, 08.09.1903, 09.11.1903; Mgr Marcou các thư ra Giáng Sinh 1902, 08.09.1908, Mùa Chay 1914.
(95) Thư viết cho M. Alary, trg LAUNAY A. ‘Histoire de la Mission de Cochinchine’ III., tr.221.
(96) Mgr DEPIERRE sd. tr.34.
(97) Trưng dẫn trong PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.345
(98) Khoản 17, ch.II, trg TEYSEYRE, sd. tr.345
(99) Trg ‘Missiones Catholicae descriptae 1907’, tr.258
(100) Mgr DEPIERRE sd. Tr.36
(101) Trg ‘Missiones catholicae descriptae 1907’ tr.234
(102) Các khoản 18-37, ch. III, trg TTEYSEYRE sd. tr.345-349
(103) Tiết I, ch.V, tr.51-54
(104) Khoản 50 ch.III, trg TEYSEYRE sd. tr.352
(105) Tiết IV ch. VIII, tr.121-124
(106) Tiết IV ch.IX tr.138-140
(107) Trg ‘Missiones catholicae descriptae 1927’ (Roma 1930) tr.116
(108) PHAN PHÁT HUỒN sd. II, tr.241-365
(109) Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh chuyển vào Sàigòn năm 1557 và đóng cửa năm 1976.
(110) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.113; GUENOU J. ‘Les Missions d’Indochine au 18e siècle’, trg SCPFMR cuốn II, tr.979-980
(110’) VŨ VĂN ĐÌNH sd. Tr.51
(111) Xem PCI, tr.115 chú thích (1)
(112) Những con số lấy lại hoặc từ ‘L’Annuaire Pontifical 1953’, hoặc từ ‘La Mission en Indochine 1939’ hoặc từ ‘Việt Nam Công Giáo Niên Giám 1964 (Sàigòn), hoặc nữa từ báo MISSI số đặc biệt về Việt Nam (01968) s.319 tr.114-115.
(113) Đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng sinh ngày 07.08.1860, tại Gò Công, địa phận Sàigòn. Ngài theo học trường các Sư Huynh Lasan tại Mỹ Tho và Sàigòn, rồi vào chủng viện Sàigòn, và chịu chức linh mục ngày 19.09.1898. Trong nhiều năm, ngài làm thư ký của tòa giám mục, nhưng vì lý do sức khoẻ, ngài phải xin đi coi xứ ở Bà Rịa. Mười năm sau, ngài được bổ nhiệm làm cha sở họ Tân Định. Sau bảy năm, ngày 10.01.1933, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó cho đức cha Marcou, giáo phận Phát Diệm. Ngài được chính đức giáo hoàng Piô XI tấn phong tại đền thờ Thánh Phêrô ngày 11.06.1933. Ngày 20.10.1935, đức cha Marcou từ chức và đức cha Nguyễn Bá Tòng chính thức coi sóc địa phận Phát Diệm. Ngài từ trần năm 1950. Xem PHAN PHÁT HUỒN sd. II, tr.249-251.
Quý Chức Họ Đạo Ở Việt Nam
Tham Gia Vào Thừa Tác Vụ Của Linh Mục.
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
GIÁO XỨ VIỆT NAM – PARIS
1983 – 2008
Tái bản lần 1, có tu bổ và cải tiến
Ấn bản tin học
Paris
2011
HỘI ĐỒNG QUÝ CHỨC
Quý Chức Họ Đạo Ở Việt Nam
Tham Gia Vào Thừa Tác Vụ Của Linh Mục.
MỪNG NGÂN KHÁNH
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
GIÁO XỨ VIỆT NAM – PARIS
1983 – 2008
Paris
2008
HỘI ĐỒNG QUÝ CHỨC
Chủ trương:
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
Phối trí:
Mai Đức Vinh
Chuyển ngữ:
Trần Thị Kim Chi, Phạm Hòa Hiệp, Bùi Trọng Khang, Đoàn Quốc Khánh, Mai Đức Vinh
Phụ lục:
Trần Văn Cảnh, Lê Đình Thông
Đọc và tu chính bản Văn:
Bùi Thị Lý, Thân Thị Kim Liên, Mai Đức Vinh
Trình bày nội dung:
Thân Thị Kim Liên, Nguyễn Văn Thạch.
Trình bày bìa:
Ngô Thị Kim Đào, Vũ Đình Khiêm
An phí:
Giáo Xứ Việt Nam - Paris
M ỤC L ỤC
LỜI NGỎ / Lê đình Thông
XÁC ĐỊNH MỘT SỐ DANH TỪ / Mai Đức Vinh
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT / Mai Đức Vinh
NHẬP ĐỀ / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG I: Lịch sử đại cương của Giáo Hội Việt Nam / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG II: Diễn tiến lịch sử công trình tổ chức HĐQC Họ đạo Việt Nam / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG III: Khuôn mặt một Họ đạo Việt Nam / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG IV: Tham gia vào Thừa Tác Vụ Thánh Hóa / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG V: Tham gia vào Thừa Tác Vụ Giảng Huấn / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG VI: Tham gia vào Thừa Tác Vụ Quản Trị / Mai Đức Vinh
CHƯƠNG VII: Hội Đồng Quý Chức dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II / Mai Đức Vinh
T ỔNG K ẾT / Mai Đức Vinh
PH Ụ LỤC I: Tiến trình thành lập HĐMV – GXVN Paris / Trần Văn Cảnh
PH Ụ LỤC II: Hình thành và tu chính Nội Quy HĐMV / Lê Đình Thông
PH Ụ LỤC III: Hội Đồng Mục Vụ (thơ) / Cung Chi
PH Ụ LỤC IV: Sứ mệnh và công tác của HĐMV / Trần Văn Cảnh
PH Ụ LỤC V: Niềm vui chung / Mai Đức Vinh
TÀI LIỆU THAM KHẢO / Mai Đức Vinh
LỜI NGỎ
Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Việt Nam Paris, vui mừng gửi đến Quý Độc Giả cuốn sách ‘HỘI ĐỒNG QUÍ CHỨC’, (Quý Chức họ đạo ở Việt Nam tham gia vào thừa tác vụ của Linh Mục). Cuốn sách này được chuyển ngữ từ luận án Tiến Sĩ Thần Học Mục Vụ «La Participation des Notables de Chrétientés Vietnamiennes aux Ministères des Prêtres» của cha Giuse Mai Đức Vinh. Ngài đã bảo vệ luận án này tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinô quen gọi là đại học Angelicum, tại Roma năm 1977. Chúng tôi làm chung công việc này với những mục đích sau đây:
• Cảm tạ Thiên Chúa, Đức Mẹ Lavang về bao nhiêu hồng ân đổ xuống trên Dân Tộc Việt Nam, Giáo Hội Việt Nam và tiêu biểu là một đoàn ngũ giáo dân Việt Nam ưu tuyển mang danh là ‘Hội Đồng Chức Việc’ hay ‘Hội Đồng Quí Chức’ của các Họ Đạo Việt Nam.
• Ghi ơn các Linh Mục, Tu Sĩ Thừa Sai dấn thân cho công trình Truyền Giáo tại Việt Nam với sức mạnh niềm tin bất khuất, với tinh thần hy sinh cao cả và với phương pháp truyền giáo tuyệt vời.
• Nêu bật tấm gương sống đạo của Tổ Tiên mà tiêu biểu là những Chức Việc hay Quý Chức thành viên của các Hội Đồng Chức Việc hay Hội Đồng Quý Chức của Họ Đạo. Quý ngài là những người đã thực sự ‘bền vững sống đức tin, can đảm bênh vực đức tin và nhiệt thành truyền bá đức tin’ (Giáo Lý Thêm Sức).
• Nêu bật sự hợp tác tông đồ giữa Giáo Sĩ và Giáo Dân, nói khác sự tham gia tích cực và đa diện của Hội Đồng Quí Chức vào các Thừa Tác Thánh hóa, Giáo huấn và Quản trị (officium sanctificandi, docendi et regendi) của các linh mục. Sự hợp tác này là một điểm son của lịch sử Truyền Giáo tại Việt Nam, vì nó đã củng cố và phát triển Giáo Hội Việt Nam ngay trong những thời kỳ bách, và hơn thế, nó thích hợp với giáo huấn của Công Đồng Vatican II về hoạt động tông đồ giáo dân, nó là kiểu mẫu cho Hội Đồng Giáo Xứ vào các thập niên 1950-1970 và Hội Đồng Mục Vụ hiện nay ở Việt Nam.
• Góp phần cung ứng tài liệu ‘huấn luyện tông đồ giáo dân’, ‘đào tạo nhân sự’ đang thể hiện trong các Chủng Viện và các Phong Trào Tông Đồ Giáo Dân… tại Việt Nam.
• Đặc biệt để Mừng lễ Ngân Khánh của Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Việt Nam Paris đã tích cực sinh hoạt từ 25 năm qua (1983-2008). Các thành viên của Hội Đồng Mục Vụ là những giáo dân sốt sắng sống đạo, nhiệt tình xây dựng Giáo Xứ… theo tinh thần tông đồ giáo dân của Công Đồng Vatican II và theo gương mẫu của các Bậc Tiền Bối.
Với những thiện ý như trên, chúng tôi chân thành xin Quý Độc Giả xa gần miện tình cho những thiếu sót, và hết lòng cám ơn những Người đã cộng tác thực hiện, cũng như mội Độc Giả thịnh tình đón nhận cuốn sách này.
Tất cả vì Vinh Danh Thiên Chúa và Giáo Hội.
Paris, Phục Sinh 2008, thay mặt Hội Đồng Mục Vụ:
Ls. Phanxicô Xavie Lê Đình Thông
Chủ Tịch HĐMV – GXVNP
XÁC ĐỊNH MỘT SỐ DANH TỪ
I. Về mấy cụm từ chính thức : Vì đây không phải là cuốn sách chuyên đề lịch sử và muốn đơn giản hóa cho người đọc ‘khỏi rối trí’, nên trong cuốn sách này, thay vì dùng những cụm từ chính thức, như ‘Điạ phận Đàng Trong’, ‘địa phận Đàng Ngoài’, ‘địa phận Tây Đàng Ngoài’, ‘địa phận Đông Đàng Trong’… chúng tôi mạn phép dùng những cụm từ quen thuộc và đơn giản hơn, như ‘giáo phận Sài Gòn’, ‘giáo phận Hà Nội’, ‘giáo phận Hải Phòng’….
II. Giáo Phận, Giám Mục.
Dựa vào Giáo Luật:
• Điều 368: Các Giáo Hội địa phương, trong đó và từ đó mà Giáo Hội Công Giáo duy nhất hiện hữu, ám chỉ trước hết là các giáo phận, các lãnh thổ thuộc giám hạt tòng thổ và đan viện tòng thổ, Đại diện Tông Toà và Phủ Doãn Tông Tòa và cả Giám Quản Tông Tòa được thiết lập cách thường trực cũng được đồng hóa với các giáo phận, trừ khi đã rõ cách nào khác.
• Điều 371: 1) Hạt Đại Diện Tông Tòa, hoặc Hạt Phủ Doãn Tông Tòa, là một phần nhất định của dân Chúa, mà vì hoàn cảnh đặc biệt, chưa được thiết lập như là một giáo phận, và việc chăn dắt được giao cho một Đại Diện Tông Tòa hoặc cho một Phủ Doãn Tông Tòa để quản trị thay mặt đức thánh cha.
Và dựa vào thói quen ở Việt Nam:
• Trừ trong những văn kiện chính thức, còn trong thực tế, từ đầu đến trước 1960, khi Tòa Thánh chính thức lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, người ta không dùng cụm từ ‘Hạt Đại Diện Tông Tòa’ nhưng là ĐỊA PHẬN hay GIÁO PHẬN.
• Cũng không dùng cụm từ ‘Giám Quản Tông Tòa’ mà vắn gọn hơn là ‘Giám Mục’.
Trong cuốn sách này chúng tôi dùng từ ‘GIÁO PHẬN’ thay cụm từ Hạt Đại Diện Tông Tòa và từ ‘GIÁM MỤC’ thay cụm từ ‘Giám Quản Tông Tòa’.
III. Về Công Nghị: cũng vậy, thay vì viết ‘Công Nghị Tonkin’, ‘Công Nghị Cochinchine’, chúng tôi dùng cụm từ ‘Công Nghị Bắc Kỳ’, ‘Công Nghị Nam Kỳ’…
IV. Họ Đạo
Dựa vào Giáo Luật
• Điều 516,1) Trừ khi luật quy định cách khác, chuẩn giáo xứ cũng được đồng hoá với giáo xứ. Chuẩn giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu ở trong Giáo Hội địa phương được ủy thách cho một tư tế như là chủ chăn riêng, nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt chưa được thiết lập thành giáo xứ.
• 2) Ở đâu các cộng đoàn không thể thành lập giáo xứ hay chuẩn giáo xứ được, thì giám mục giáo phận phải dự liệu việc săn sóc mục vụ cho họ bằng cách khác.
Và vào thói quen ở Việt Nam:
• Trong thời truyền giáo, kể cả trước năm 1960, ở Việt Nam chưa có giáo xứ theo Giáo Luật, chỉ có ‘chuẩn giáo xứ’, và mỗi chuẩn giáo xứ lại có nhiều ‘cộng đoàn không thể lập thành chuẩn giáo xứ’.
• Tại Việt Nam, người ta quen dùng từ HỌ ĐẠO để chỉ chung về các họ chánh và họ lẻ.
Vì thế, trong cuốn sách này chúng tôi dùng chung một từ HỌ ĐẠO (Chrétienté) thay vì dùng nhiều từ tách biệt ‘chuẩn giáo xứ, họ chánh, họ lẻ…’
V. Quý Chức hay Chức Việc, Chức Sở là ba từ mà chúng tôi, dựa các văn bản chính thức vào thói quen ở Việt Nam, dùng để chỉ chung những giáo dân được đề cử hay tuyển chọn làm nên Hội Đồng Quý Chức, Hội Đồng Chức Việc hay Hội Đồng Chức Sở, để cộng tác với linh mục trong việc điều hành Họ Đạo. Chúng tôi muốn dành từ Chức Sắc hay Kỳ Mục cho những người có thế giá và chức phận trong các làng, xã dân sự.
VI. Sau cuốn Chức Sở Mục Lệ (1884), còn có những tài liệu chính thức khác có hệ đến Hội Đồng Quí Chức, chúng tôi mạn phép phân biệt:
• Từ CHỈ NAM (Directoire) cho những cuốn ‘Directoires’ của nhiều giáo phận đã ban hành sau Công Đồng Đông Dương (1934): như cuốn Chỉ Nam của giáo phận Quy Nhơn…
• Từ QUY CHẾ (Statut) cho những cuốn ‘Quy Chế Hội Đồng Giáo Xứ của hầu hết các giáo phận ở Miền Nam đã ban hành sau Công Đồng Vatican II (1965).
• Từ NỘI QUY (règlement) cho cuốn ‘Nội Quy Hội Đồng Mục Vụ’ của hầu hết các giáo phận hiện nay.
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
AD: Acta et Decreta Primae Regionalis Tunquini (1990).
AME: Archives des Missions Etrangères de Paris
APF: Annales de la Propagande de la Foi
ASME: Annales de la Société des Missions Etrangères de Paris
Bull.MEP: Bulletin des Missions Etrangères de Paris.
CNNK: Công Nghị Nam Kỳ (Synode de Cochinchine, 1880)
CNF: Công Nghị Faifo (Synode de Faifo, 1672)
CSML: Chức Sở Mục Lệ (Le Règlement des Notables, 1884)
DCO: Directoire pour la Cochinchine Occidentale (Chỉ Nam giáo phận Sàigòn) (1922)
DH: Directoire du Vicariat Apostolique de Huế (Chỉ Nam Giáo Phận Huế) (1941)
DHN: Directorium Vicariatus Apostolici de Hà–Nội (1941).
DQN: Directoire du Vicariat Apostolique de Quy–Nhơn (1941)
ĐT: Đào Tạo các Linh Mục (Sắc lệnh Optatam Totius, 28.10.1965)
ES: Ecclesiae Sanctae (Motu proprio, 1966)
GH: Giáo Hội (Constitutio Lumen Gentium, 21.11.1964).
GM: Sắc lệnh về nhiệm vụ của các Giám Mục (Drec. Christus Dominus 28. 10. 1965)
HN: Sắc lệnh về Hiệp Nhất (Dcret. Unitatis Redintegratio, 21.11.1964).
LM: Sắc lệnh về chức vụ và đời sống Linh Mục (Dec. Presbyterorum Ordinis, 7. 2. 1965)
MBTC: Sách Mười Bảy Thư Chung của ba Giám Mục Sàigòn (1958)
MC: Les Missions Catholiques (báo).
MV: Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới ngày nay (Const. Gaudium et Spes, 7. 12. 1965)
NKĐP: Nam Kỳ Địa Phận (Báo của giáo phận Sài Gòn)
PCI: Primum Concilium Indoniense (1934).
PV: Hiến chế về Phụng Vụ (Decretum Sacra Liturgia, 4.13.1963).
QCHĐGX / CT, ĐL, H, LX, NT, PC, SG, XL: Quy Chế Hội Đồng Giáo Xứ / (giáo phận) Cần Thơ (1972), Đà Lạt (1973), Huế (1969), Long Xuyên (1971), Nha Trang (1970), Phú Cường (1971), Sài Gòn (1971), Xuân Lộc (1971).
SCPFMR: Sacrae Congregationis de Propaganda Fide Memoria Rerum (3 cuốn, 1972-1975)
SI: Sacerdos Indoniensis (Báo)
TCĐPT: Thơ Chung Địa Phận Thanh (1920)
TCĐPĐN: Thơ Chung Địa Phận Tây Đàng Ngoài (1901 – 1908)
TĐ: Sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân (Decr. Apostolicam Actuositatem, 18.11.1965)
TG: Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội (Decr. Ad Gentes, 7. 12. 1965)
TH: Sách Tử Hầu (1942)
sd: sách dẫn
tr.: trang
trg.: trong
dưới sự hướng dẫn của cha Raphaël MOYA, Đa-Minh
trình năm 1977
tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thoma Aquino, Roma, Ý Đại Lợi
NHẬP ĐỀ
‘QUÝ CHỨC CỦA CÁC HỌ ĐẠO TẠI VIỆT NAM THAM GIA VÀO THỪA TÁC VỤ CỦA LINH MỤC’ (La participation des Notables de Chrétientés Vietnamiennes aux Ministères des Prêtres) (1) là đề tài luận án của chúng tôi.
Những lý do thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài này thì đơn giản và cụ thể: sau nhiều năm làm việc tại Đại Chủng Viện Giáo Tỉnh Huế, chúng tôi luôn ưu tư về việc huấn luyện mục vụ cho các chủng sinh (2). Trong các giáo phận gửi chủng sinh đến chủng viện, có nhiều vấn đề trầm trọng đặt ra về việc đào tạo giáo dân, cách riêng các thành viên của các Hội Đồng Giáo Xứ, để họ dấn thân làm việc tông đồ (3). Từ mối ưu tư đó, tôi ý thức nhiều về tầm quan trọng lớn lao của việc tông đồ giáo dân gắn liền với thừa tác mục vụ của linh mục. Đang khi đó, Hội Đồng Quí Chức Họ Đạo là tổ chức tuyệt hảo trong việc tông đồ có tương quan thường xuyên với các linh mục. Vì thế tôi quyết tâm đào sâu một vấn đề nào trực tiếp tương quan như vậy trong sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội.
Trong hoàn cảnh riêng của Giáo Hội Việt Nam, việc tổ chức Hội Đồng Giáo Xứ theo giáo huấn Công Đồng Vatican II, không phải là một sáng kiến hoàn toàn mới mẻ. Đúng ra chúng ta có thể nói tổ chức này chỉ là một việc đổi mới, việc thích ứng hay canh tân một hệ thống đã có ngay từ buổi đầu của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam: Hội Đồng Quí Chức hay Hội Đồng Chức Việc của Họ Đạo. Chính vì thế, chúng tôi cảm nghiệm sâu đậm rằng: việc nghiên cứu lịch sử và mục vụ của tổ chức tông đồ giáo dân này đối với chúng tôi, là thiết yếu.
Công việc nghiên cứu này được đóng khung giữa hai niên tuế quan trọng 1533 và 1953. Năm 1533 chính là năm khởi đầu công trình Truyền Giáo tại Việt Nam, hay đúng hơn là năm chào đời của Giáo Hội Việt Nam. Chính vì đời sống của Giáo Hội này mà Hội Đồng Quí Chức được thiết lập. Tổ chức này tiến triển và gầy tạo nhiều sự nghiệp tông đồ sáng giá. Còn năm 1953 là năm ấn hành lần cuối cùng một tài liệu liên quan trực tiếp đến tổ chức các Hội Đồng Quí Chức. Đó là cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert đã soạn và xuất bản năm 1884. rồi đức cha Phêrô Ngô Đình Thục, bấy giờ là giám mục giáo phận Vĩnh Long, đã tu chính lại đôi chút trước khi tái bản, năm 1953. Hơn thế 1953, là niên tuế giáp cận với một biến cố lớn trong Lịch Sử Nước Việt Nam: Ngày 20.07.1954, hiệp định đình chiến tại Genève chia đôi nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17, Miền Bắc thuộc chính phủ Cộng Sản và Miền Nam thuộc chính phủ Quốc Gia. Đương nhiên Giáo Hội Việt Nam cũng bị chia thành hai: Giáo Hội Miền Bắc nằm dưới chế độ Cộng Sản, và Giáo Hội Miền Nam dưới chế độ Quốc Gia (4).
Công việc làm của chúng tôi nhằm vào những mốc điểm rõ ràng: Trước tiên chúng tôi trình bày đại cương lịch sử của Giáo Hội Việt Nam (Ch. I) và sự tiến triển lịch sử của Hội Đồng Quý Chức (Ch. II). Hội Đồng Quí Chức không được thành hình trên bình diện quốc gia hay giáo phận, mà thực tế chỉ ở trên bình diện mỗi họ đạo. Vì thế, sau khi trình bày những đường nét chung lịch sử, chúng tôi quan tâm đến khuôn mặt của một họ đạo tại Việt Nam: Một trong những đặc tính đáng chú ý của các họ đạo Việt Nam, là được tổ chức theo khuôn khổ của một làng xã cổ truyền và hành chánh. Vì thế chúng tôi phải trình bày khuôn mặt của một làng xã hành chánh và cổ truyền trước khi vẽ lại khuôn mặt của một họ đạo Việt Nam (Ch. III). Tuy đơn giản, nội dung trình bày của ba chương đầu cho phép chúng tôi đề cập đến việc tham gia của Quí Chức vào các Thừa Tác Vụ của Linh Mục: Thừa Tác Vụ Thánh Hóa (officium sanctificandi) (Ch. IV), Thừa Tác Vụ Giảng Huấn (officium docendi) (Ch. V), và Thừa Tác Vụ Quản Trị (officium regendi) (Ch. VI). Những dữ kiện trình bày trong các chương trước, cho phép chúng tôi nhận định Hội Đồng Quí Chức dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II, nghĩa là trước hết trình bày những tương quan giữa Hội Đồng Quí Chức với việc tông đồ giáo dân theo quan điểm và giáo huấn của Công Đồng Vatican II, đồng thời trình bày về những điểm tương đồng và những điểm dị biệt so chiếu với Hội Đồng Giáo Xứ ngày nay (Ch. VII). Sau cùng, chúng tôi kết thúc công việc nghiên cứu bằng mấy nhận định vắn gọn về sự khôn ngoan mục vụ và phương pháp truyền giáo chính thống của các Linh Mục và Tu Sĩ Thừa Sai, về địa vị thiết yếu của họ đạo và của giáo xứ, và nhất là về sự hợp tác của giáo dân vào việc tông đồ tại các xứ truyền giáo hôm qua và ngày nay (Tổng kết).
Về phương pháp làm việc, chúng tôi nói đơn sơ rằng: chúng tôi đọc chăm chú một số sách và bài báo viết về Giáo Hội Việt Nam, và đặc biệt về tổ chức Hội Đồng Quí Chức, chúng tôi tập trung các dữ kiện và các sự việc lịch sử và mục vụ làm nền tảng cho việc nghiên cứu. Phải thú nhận rằng, trước Công Đồng Vatican II, hoạt động tông đồ giáo dân hầu như bị quên lãng, người ta không quý trọng đủ chỗ đứng, việc làm, sự cộng tác truyền giáo của giáo dân mà những giáo dân ưu tuyển chính là các Quí Chức họ đạo (5). Chắc chắn có nhiều tài liệu khác được giữ cẩn thận trong các văn khố của các Hội Thừa Sai Paris hay của Bộ Truyền Giáo (6), nhưng những ước nguyện tham khảo của một sinh viên nhỏ bé như chúng tôi đã không được chấp nhận. Đó là lý do tại sao việc nghiên cứu của chúng tôi còn nghèo nàn về tài liệu.
Ý thức về những điểm thiếu sót và những điểm mơ hồ (imprécis) tản mát trong các chương trình bày của chúng tôi, chúng tôi thành thực cáo lỗi, và mong có những người khác bổ túc lại.
Roma, Lễ Thánh Cả Giuse, 19.03.1997
Giuse Mai Đức Vinh xb.
-----------------------------
Chú thích
(1) Theo thói quen tại Việt Nam, chúng tôi sẽ dùng danh từ ‘HỌ ĐẠO’ (La Chrétienté) để chỉ chung về các họ đạo chính hay họ lẻ của một Giáo Xứ (Quasi-paroisse), là những nơi có nhà thờ hay nhà nguyện, có tập đoàn tín hữu đưọc hướng dẫn bởi các Chức Việc hay Quí Chức, linh mục cư ngụ tại đó hay hàng năm đến làm phúc, thăm viếng…
(2) Xem: ĐT 4, 5, 11, 19 trg AAS 58 (1966), tr. 716-717, 722, 725; GM 30 trg AAS 58 (1966) tr.688; TĐ 10, 18, 30 trg AAS 58 (1966) tr. 847, 852, 861.
(3) Xem: GH 37 trg AAS 57 (1965) tr. 43; TĐ 24-26 trg AAS 58 (1966) tr.856-859; GM 15 trg AAS 58 (1966) tr.679; LM 9 trg AAS 58 (1966) tr. 726; ĐT 20 trg AAS 58 (1966) tr.726.
(4) Sau trận Điện Biên Phủ, chính phủ Pháp điều đình với chính phủ Cộng Sản Việt Nam. Kết quả là Hiệp định đình chiến ký ngày 20.07.1954 chia đôi Nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm danh giới: Miền Bắc thuộc về Cộng Sản và Miền Nam thuộc về Quốc Gia.
(5) Sau đây là một trường hợp: Năm 1972, nhân dịp kỷ niệm 350 năm thiết lập Bộ Truyền Giáo, tại Sài Gòn, đã tổ chức một cuộc triển lãm lớn về công trình phát triển Giáo Hội Việt Nam với rất nhiều lược đồ, sách vở, hình ảnh và tài liệu đủ loại… nói lên những hoạt động truyền giáo của các linh mục thừa sai, của các dòng tu, với những con số gia tăng các họ đạo, giáo xứ, các hội đoàn công giáo tiến hành… nhưng hoàn toàn không có một chỗ nào trưng bày, không một bài bản nào nói đến sự nghiệp truyền giáo của giáo dân nói chung và Hội Đồng Quí Chức Họ Đạo nói riêng. Ngày 15.03.1974, tôi đến nhà ông Phaolô Nguyễn Văn Nghĩa, Trùm cả của Hội Đồng Chức Việc xứ Chợ Quán, xin ông một vài tài liệu, tôi được nghe những lời phàn nàn từ tốn về sự quên lãng đáng tiếc này. Ngày 01.04.1974, tôi đã đến nhà ông Micae Lê Văn Đời, chánh thư ký của Hội Đồng Chức Việc xứ Cầu Kho, mượn ông bản văn đầu tiên của cuốn Chức Sở Mục Lệ đi làm ‘photocopi’, tôi được nghe lại những lời than phiền như trên.
(6) Văn khố của Hội Thừa Sai Paris nằm tại 128 rue du Bac, 75007 Paris; Văn khố của Bộ Truyền Giáo nằm tại Piazza di Spagna 48, Roma.
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ ĐẠI CƯƠNG
CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày ba mục chính:
I. Những bước đầu dò dẫm và những mùa lúa đầu tiên
II. Lớn lên trong bách hại
III. Tái thiết và phát triển.
MỤC I
NHỮNG BƯỚC DÒ DẪM
VÀ NHỮNG MÙA LÚA ĐẦU TIÊN
(1533-1659).
I. Những bước dò dẫm đầu tiên của công trình truyền giáo
1) I-ni-Khu (Ignatio), nhà truyền giáo đầu tiên đến Việt Nam
Niên giám chính thức của Nước Annam (Dạ Lục) năm 1533 ghi rằng: «Trong tháng thứ ba của năm thứ nhất triều đại Nguyễn Hòa (1533), Lê Trang Tôn, có một người Âu Châu tên là I-ni-Khu đã đến các làng Ninh Cường và Quần An thuộc quận Nam Chân và Châu Lư (tỉnh Nam Định) và lẩn lút rao giảng tà đạo Gia Tô» (1).
I-ni-Khu là phiên âm tiếng trung hoa từ chữ tây ban nha ‘Inigo’. Có lẽ đây là một linh mục dòng Đaminh hay dòng Phanxicô người Bồ Đào Nha. Rồi không ai nói gì đến thời gian khởi thủy của công trình truyền giáo tại Việt Nam. Tuy nhiên một cách chính thức, I-ni-Khu vẫn được coi là nhà truyền giáo có mặt trước tiên trên xứ sở này (2).
2) Các cha dòng Đaminh và dòng Phanxicô đầu tiên đến Việt Nam
Mười bảy năm sau, 1550, cha Gaspard de Santa Cruz, dòng Đaminh, người Bồ Đào Nha, đã từ Goa đến truyền giáo tại Cao Miên, rồi vượt biên giới vào Việt Nam qua cửa Cần Cao, hiện nay là tỉnh Hà Tiên. Cha đã kêu gọi nhiều anh em cùng dòng tới với cha. Rồi năm 1558, cha Fernando dòng Tên cũng có mặt tại Việt Nam; Qua năm 1558 hai cha dòng Đaminh Bồ Đào Nha khác là Lopes và Acevedo, cũng cập bến Việt Nam và lưu lại đó tới 10 năm, cho tới khi vua ra lệnh trục xuất. Hai cha trở về Macao là điểm giao liên truyền giáo đã lâu năm của các cha dòng Đaminh Bồ Đào Nha. Các cha Đaminh Tây Ban Nha lại đặt trụ sở tại Phi Luật Tân. Cũng vào thời điểm ấy, bốn cha Phanxicô từ Manila đã lấn lút vào việt Nam qua cửa sông Hồng Hà, nhưng các ngài không ở lại lâu. Việc tông đồ của các ngài không có kết quả. Một trong bốn là cha Barthelemi Ruis rán ở lại ít lâu, nhưng rồi cũng ra đi.
3) Một linh mục triều Tây Ban Nha cập bến
Năm 1590, Ordonez de Cevalles, linh mục triều Tây Ban Nha, cập bến Bắc Kỳ. Có nhiều dấu ngài đến Việt Nam với tính cách một nhà thám hiểm hơn là một thừa sai truyền giáo. Ngài chỉ ở Bắc Kỳ mấy tháng thôi. Dầu vậy hình như ngài đã đem được người em gái của vua vào đạo và đặt chị làm bề trên một tu viện. Nhờ sự hăng say của cha, thành phố Hà Nội đã biến thành một cộng đoàn đông đảo có tới hàng ngàn kitô hữu (4).
Chúng ta còn lưu ý đến sự có mặt trong miền Nam (Hội An) một vài cha dòng Augustinô, và năm 1596, một cha Đaminh là Alfonso Jimenez, người Tây Ban Nha. Cha bị chính quyền bắt giữ làm con tin (5).
4) Một thừa sai ở trong triều đình Huế một thời gian ngắn
Sau cùng năm 1597, ngụ trong triều đình Huế một linh mục thừa sai công giáo đầu tiên, là cha Diego Auarte, dòng Đaminh đến từ Manila. Cha được dẫn đến trình diện với chúa miền Nam (Cochinchine) là Nguyễn Hoàng. Ban đầu chúa tiếp đón cha rất thịnh tình, và cho phép cha giảng đạo trong lãnh thổ của chúa. Nhưng chẳng bao lâu chúa lại đổi ý và ép buộc cha phải bỏ lãnh thổ (6).
5) Một nhận xét có thể chấp nhận
Trước khi trình bày giai đoạn thứ hai, chúng ta có thể kết luận với lời nhận xét của cha Henri Bernard, dòng Tên: «Như chúng ta đã thấy, vào thế kỷ XVI, đã có nhiều bước dò dẫm để truyền giáo tại Việt Nam, nhưng tất cả không để lại những kết quả tốt, vì các thừa sai không được lòng các vua, làm việc chưa có tổ chức và phương pháp lâu bền, lý do vì sự cạnh tranh về ‘quyền bảo trợ’ (patronage) giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha» (7).
II. Công cuộc truyền giáo có phương pháp của các cha dòng Tên
Sau khi cha Diego Aduarte rời khỏi Việt Nam, công việc truyền giáo bị đình trệ trong vòng 20 năm. Mãi tới năm 1614 mới khởi sự lại với các cha dòng Tên từ Nhật chạy qua. Kể từ đây, viêc truyền giáo không bị gián đoạn nữa. Mặc dù liên tục có những cuộc bách hại dữ dội.
Vào thời này, nước Việt Nam đã mất sự thống nhất quốc gia, và bị chia làm hai: Phần Bắc thuộc quyền cai trị của Chúa Trịnh và vua nhà Lê, phần Nam thuộc quyền cai trị của nhà Nguyễn. Sông Gianh trở thành danh giới của hai miền Nam-Bắc (8). Và đó là gốc tích của hai quốc gia trong một nước, Bắc Kỳ (Tonkin) và Nam Kỳ (Cochinchine) (9) mà chả bao lâu lại trở nên hai Đại diện Tông Tòa đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam (deux premiers Vicariats Apostoliques de l’Eglise Vietnamienne).
Trước tiên, ngày 18.01.1615, dưới triều chúa Sãi Vương, đã cập bến Hội An (Tourane) một tàu nhỏ của Bồ Đào Nha đến từ Macao, trong tàu có hai cha dòng Tên đến với sứ mệnh thiết lập một sở truyền giáo mới tại vùng Bắc-Nam Kỳ (Nord-Cochinchine) (hiện nay nằm trong Miền Trung của Việt Nam). Hai cha dòng Tên đó là linh mục Francois Busoni và linh mục Didaco Carvahlo, cùng với ba trợ sĩ mà hai là người Nhật Bản. Tiếp theo sau, có nhiều thừa sai khác cũng cập bến, như cha Bori và cha Pina. Các cha thừa sai đã dựng lên ngôi nhà thờ đầu tiên tại Hội An. Suốt 20 năm trời, cha Busoni, bề trên của cộng đoàn dòng Tên đồng thời là người điều hành điểm truyền giáo. Ngài thực sự là người sáng lập địa điểm truyền giáo này. Ngài đã nâng con số tín hữu từ quãng 10 tín hữu lên tới 12.000 giáo dân.
Sở truyền giáo Hội An cũng đã được thiết lập bởi các cha dòng Tên và một số gia đình Nhật Bản, trở nên rất phồn thịnh và trong suốt hai thế kỷ là một trong những địa điểm truyền giáo quan trọng nhất của miền Trung Việt Nam. Cửa Hội An bấy giờ được xử dụng như một trọng điểm vãng lai, lưu trú, và trú ẩn của các thừa sai và các giám mục (bấy giờ gọi là Đại Diện Tông Tòa) (10).
Năm 1624, số các linh mục và tu sĩ dòng Tên là 15 vị, mà 11 gốc Âu Châu và 4 là người Nhật Bản. Cũng thời điểm này, cha Alexandre de Rhodes tới Việt Nam. Ngài lập sở truyền giáo ở miền Bắc Việt Nam, có lẽ là vùng Cửa Bạng (Thanh Hóa). Bị đuổi nhiều lần, và ngài trở lại Âu châu vào năm 1645. Nhờ ngài rao giảng, 500 người đã được rửa tội vào lễ Giáng Sinh năm 1627 và lễ Phục Sinh năm 1628. Trong số 500 người tân tòng này, có nhiều nho sĩ và nhiều gia đình hoàng tộc (11). Năm 1611, tại Hà Nội và vùng chung quanh đã có tới mấy ngàn tín hữu và 20 nhà nguyện. Vào năm 1639, tài liệu còn ghi lại cả miền Bắc và miền Nam đã có 100 nhà thờ, 130 nhà nguyện và 8.942 tín hữu (12).
III. Những họ đạo đầu tiên
1) Công Chúa Mai Hoa và họ đạo tiên khởi
Vì còn quá trẻ nên vua Lê Thái Tôn (1573-1599) phải nhận quyền nhiếp chính của bà chị ruột mà theo dân chúng quen gọi là công chúa Chèm. Công chúa rất tận tụy trong các sinh hoạt tôn giáo và từ thiện. Bà đã xây cất nhiều nhà bác ái, canh tân các tu giới và đời sống của các nhà sư và ni cô. Sống đạo sâu xa, bà rất thiện cảm với đạo Công Giáo. Nhờ ơn Chúa Quan Phòng, bà đã gặp được một thừa sai Tây Ban Nha là cha Pedro Ordones Cevalles vào ngày 24.12.1590. Yêu mến đạo giáo, bà kiên trì học hỏi giáo lý với cha Pedro. Bà cũng xin cha dạy đạo cho các tì nữ trong hoàng cung. Sau cùng, ngày 22.05.1591, bà đưọc rửa tội và mang tên thánh là Maria. Và từ đó, người ta gọi bà là công chúa Mai Hoa. Theo gương bà, 72 tì nữ trong hoàng cung cũng xin chịu phép Rửa Tội. Hay tin công chúa Mai Hoa đã trở lại đạo Công Giáo, vua và bà hoàng hậu rất bất mãn. Để trấn an mọi người trong hoàng gia và hoàng cung, công chúa Mai Hoa đã trả lại cho nhà vua mọi chức tước và quyền bính, bà chỉ xin vua cấp cho bà một khu đất để bà xây một tu viện và bà sống tại đó quãng đời còn lại. Thán phục niềm tin và các nhân đức sáng ngời của người chị, vua đã cho lệnh biến ngôi nhà của bà trong hoàng cung thành một tu viện. Vua còn cho xây một nhà nguyện và một nhà cho cha Pedro cư ngụ. Ngày 26.05.1591, cha đã cử hành Thánh Lễ đầu tiên và nhận lời khấn tạm của 51 nữ tu tiên khởi của Hội dòng Đức Maria Vô Nhiễm. Chả bao lâu số giáo dân tăng lên đông, công chúa Mai Hoa lại xin vua ban cho một khu đất lớn để lập làng Giatô: đây là họ đạo đầu tiên với 400 nhân danh. Và cuối năm 1591, thái hậu ngã bệnh nặng, và bà đã lãnh Bí tích Rửa Tội mấy ngày trước khi chết, tên thánh là Maria (13).
2) Từ họ đạo Hội An cho đến họ đạo Quảng Nam
Với lòng nhiệt thành đáng thán phục và một trí thông minh hiếm có, cha Busomi cập bến Hội An ngày 18.01.1615, và đã khôn khéo dựng lên mọt nhà nguyện không chỉ dành cho những người công giáo Nhật Bản tị nạn (14), nhưng cho cả những người công giáo Việt Nam đầu tiên. Lịch sử kể rằng: ngày khánh thành nhà nguyện, cha Busomi đã rửa tội 10 dự tòng. Những tân tòng này là những bông lúa đầu mùa rao giảng Tin Mừng của cha tại Việt Nam. Vui biết bao !
Để bảo đảm lâu dài cho công cuộc truyền giáo đã bắt đầu, cha Busomi đã khôn khéo liên hệ với ông chúa Sãi Vương và dâng cho chúa nhiều quà quý đem đến từ Tây Phương. Cha tìm cách học hỏi về phong tục và văn hóa Việt Nam, vì cha biết rằng đây là việc làm rất hữu ích cho việc truyền giáo của ngài.
Nhờ phương thức làm việc này, cha Busomi có thể gặp gỡ các quan chức tỉnh Quảng Nam. Quan tỉnh Quảng Nam đã đón tiếp cha cách lịch sự và niềm nở. Chính quan đã cấp cho cha một nhà ở thoải mái và những bữa ăn thịnh soạn. Quan tỉnh là anh của bà Phanxica mà dân chúng quen gọi cách thân mật là ‘bà Gioanna’. Gioanna là tên thánh của con gái bà. Một cha Phanxicô đã rửa tội cho bà trước đó 30 năm, và cô gái của bà lại được rửa tội bởi một linh mục thừa sai dòng thánh Augustinô. Chỉ một năm sau, việc truyền giáo của cha Busomi đã trổ sinh nhiều hoa trái: 300 người được chịu phép rửa tội, và đó là họ đạo thứ hai được thành hình, báo hiệu một tương lai xán lạn cho công trình truyền giáo. (15).
3) Đồng lúa mênh mông
Với những thành công nối tiếp, việc truyền giáo của các cha dòng Tên mở rộng vào các thành phố lớn của miền Nam (Cochinchine), vương quốc của nhà Nguyễn, cách riêng tại Quảng Nam và Quy Nhơn. Công việc truyền giáo giữa các năm 1618 và 1659 đã đem vào Giáo Hội một số đông tân tòng. Trong số đó có người vợ thứ của chúa là hoàng hậu Minh Đức (16) Bà lãnh Bí tích Rửa Tội năm 1625. Tên thánh của bà là Maria Madalêna. Lịch sử còn ghi: chỉ trong năm năm truyền giáo đầu tiên, cha Pina đã rửa tội 275 người, trong số đó có nhiều văn nhân tỉnh Quảng Nam (17).
Rồi đến các hoạt động truyền giáo của các cha thừa sai tại miền Bắc (Tonkin), vương quốc của vua Lê và chúa Trịnh, cũng đem lại nhiều thành công đáng kể, nổi bật là các họ đạo Cửa Bạng (18), An Vực (19). Nhật ký của cha Alexandre de Rhodes cho biết số giáo dân trong vương quốc vua Lê chúa Trịnh là 82.500 người vào năm 1639 (20). Hơn nữa, theo cha Bonifacy, năm 1641, số dân công giáo tại Bắc Việt Nam là 108.000 (21). Chỉ nguyên trong tỉnh Nghệ An bấy giờ đã có 72 họ đạo (22), và năm 1655 đã có 414 nhà thờ trong toàn vương quốc vua Lê chúa Trịnh (23). Những con số này mở ra trước mắt chúng ta những đồng lúa mênh mông, và để chăm sóc và tưới bón, cần thiết phải có nhiều cán bộ truyền giáo được huấn luyện, dấn thân và sẵn sàng hiến dâng mạng sống.
IV. Việc tổ chức các thầy giảng
1) Cha Alexandre de Rhodes, người sáng lập khôn ngoan
Để đáp ứng những nhu cầu khẩn cấp của đồng lúa mỗi ngày thêm mở rộng, các thừa sai và nhất là cha Alexandre de Rhodes đồng thuận về sáng kiến tổ chức các Thầy giảng (catéchistes). Thực tế, từ năm 1615 cha Busomi đã tìm kiếm và đào tạo những cộng tác viên giáo dân, tỉ dụ, người trẻ mang tên Augustinô thuộc họ đạo Hội An (24). Qua năm 1627, cha Alexandre de Rhodes đã tiến xa hơn trong phương án này. Ngài đã muốn rằng tất cả các thầy giảng phải được huấn luyện dưới hình thức một chủng viện với nhiều giai đoạn: tập viện, kinh viện và sư huynh viện (maitres). Cha muốn các thầy giảng cũng khấn giữ đức khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Tuy nhiên tổ chức các thầy giảng không phải là một hội dòng đúng nghĩa. Nhưng phải nói thật: tổ chức các thầy giảng đã được thiết lập theo hình thức một tu hội đời ngày nay.
Năm 1642, bị trục xuất khỏi Bắc Việt, cha Alexandre de Rhodes xuống thuyền vào Nam (Cochinchine). Tại đây, cha cũng có ý định đào tạo các thầy giảng giống như cha đã làm ở miền Bắc. Ngài dấn thân thực hiện phương án và Thiên Chúa đã ban cho ngài nhiều phần thưởng (25).
2) Một giải đáp trung gian và hiệu lực
Để nhấn mạnh đến sự cần thiết và hiệu lực của việc thành lập hàng giáo sĩ bản xứ, cha A. Launay đã viết: «Các linh mục bản xứ thông thạo tiếng bản xứ, xử dụng từ ngữ và kiểu nói vừa đúng vừa hay, giọng điệu thanh thoát, dễ nghe, dễ hiểu hơn… khi cắt nghĩa các mầu nhiệm trong đạo. Họ lại biết rõ về các phong tục và tập quán của xứ sở và từng địa phương, nắm bắt được các khuynh hướng của đồng bào của họ. Họ có nhiều liên hệ chặt chẽ với dân chúng. Họ có thể đi lại, giao tiếp và len lỏi dễ dàng vào đồng bào, bắt chuyện và gây tình bạn hữu với người bản xứ. Họ cũng am tường đâu là những điểm dị đoan, sai lạc trong tôn giáo của xứ sở. Nhờ đó họ biết cách vạch trần các hình thức tà thần mà khuyên dân trở lại đạo Công Giáo. Với những nhận định lý thuyết và thực tế này, chúng ta còn phải thêm rằng: các linh mục bản xứ chắc chắn có thể phục vụ hiệu lực khi, như thường xẩy ra, có những cuộc bách hại khiến các thừa sai ngoại quốc đã quá ít ỏi lại phải trốn tránh hay bị trục xuất. Thực tế, các thừa sai ‘dễ bị phản bội’ vì tiếng nói và vì hình dáng, không thể dễ dàng chu toàn các thừa tác vụ giống các linh mục bản xứ được» (26). Những nhận xét trên đây có thể nói lên trọn vẹn những lý do vì sao phải tổ chức các thày giảng.
Đó cũng là nguyên tắc hoạt động của Giáo Hội trong mọi thời. Giáo Hội luôn muốn rằng người bản quốc phải lãnh nhận trách nhiệm truyền giảng Tin Mừng cho đồng bào của họ. Như vậy Giáo Hội bản xứ sẽ tiến mạnh, mau trưởng thành và tự trách nhiệm.
Mọi người đều công nhận rằng vào buổi đầu rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam, tổ chức các thầy giảng được coi như một giải pháp trung gian và hiệu lực. Các thầy giảng là những người dọn đường trước cho các thừa sai tới, các thầy cộng tác tích cực với các cha khi các ngài có mặt tại chỗ, các thầy thay thế các cha khi các cha chuyển đi nơi khác. Những hình ảnh sáng ngời của các thầy giảng tiên khởi là thầy Augustinô ở Hội An (27), thầy Phanxicô ở Hà Nội (28), thầy Inhaxiô ở Nghệ An (29), thầy Anrê ở Quy Nhơn (30) và thầy Vixentê ở Quãng Nghĩa (31). Hơn thế, chính từ các thầy giảng đầu tiên mà Giuse Trang và Luca Bền được tuyển chọn để thành những linh mục việt nam tiên khởi vào năm 1668 (32).
Đàng khác, chính nhờ các thầy giảng mà trong thời các thừa sai bị trục xuất, việc rao giảng Tin Mừng không bị gián đoạn và các họ đạo không bị tan rã. Trái lại việc rao giảng Tin Mừng vẫn được tiếp tục và các họ đạo tăng thêm mãi. Đây là một thí dụ: các linh mục Alexandre de Rhodes và Pedro Marquez đã bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ năm 1629, để lại địa phương ba thầy giảng Phanxicô, Anrê và Inhaxiô với 5.602 bổn đạo. Vắng mặt hai cha, các thầy phân chia công việc tông đồ: mỗi thầy quán xuyến một số họ đạo lẻ loi, dạy giáo lý cho giáo dân và những người l ương muốn tòng giáo, thăm nom các bệnh nhân. Các thầy làm hết mọi việc với sự cộng tác thân mật của các chức việc trong họ đạo. Một năm sau, 18.02.1631 khi các linh mục bồ đào nha là Gaspar d’Amiral, Antoine và Cadim từ Xiêm La (Siem) tới, các ngài thấy rõ số bổn đạo đã được gia tăng tới con số 9.942 Như vậy các thầy giảng đã rửa tội thêm được 3.340 tân tòng trong thời gian hơn một năm (33) Chính với một lòng tận tụy truyền giáo như vậy mà tổ chức các thầy giảng đã hiến dâng cho Giáo Hội Việt Nam những vị tử đạo đầu tiên.
V. Những vị tử đạo đầu tiên tại Việt Nam
1) Mọi công trình truyền giáo đều có Thánh Giá
Không công trình truyền giáo nào mà không có Thánh Giá. Thánh Giá là dấu chỉ của tình yêu. Chính vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với các linh hồn mà các nhà thừa sai đã từ giã gia đình và quê hương của họ để đem Tin Mừng đến cho các dân tộc xa xôi. Tại đó, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần các ngài đã can đảm ra đi, hiến dâng sự sống cho ’phần lợi’ của Phúc Âm và đồng thời đào tạo cho Nước Chúa những tâm hồn thánh thiện chan chứa tình thương sẵn sàng hiến thân vì đức tin. Nếu các Tông Đồ và các tín hữu đầu tiên đã là những chứng nhân của Chúa Giêsu Phục Sinh trong xã hội Do Thái và trong đế quốc Roma, thì các thừa sai và các tín hữu việt nam đầu tiên, họ cũng là những chứng nhân của niềm tin vào Thiên Chúa và vào tình thương của Ngài. Là nhân chứng của đức tin, họ không lùi bước, nhưng luôn tiến lên và can đảm lãnh nhận Thánh Giá mà giá trị lớn lao nhất của Thánh Giá là chết cho tình yêu, là tử đạo nhân danh đức tin.
Vì những lợi nhuận thương mại và vì những liên hệ kinh tế, các chúa Trịnh ở Bắc cũng như các chúa Nguyễn ở miền Nam chưa dám giết hại các thừa sai ngoại quốc, nhưng họ tìm cách giập tắt cái mà họ gọi là ’tà đạo’, họ đuổi ra khỏi lãnh thổ và nhất là tàn sát, những người đứng đầu các cộng đoàn kitô hữu, tức là các thầy giảng và các chức việc.
2) Những vụ trục xuất đầu tiên các thừa sai
Lịch sử kể lại rằng nạn hạn hán năm 1617 ngăn cản mọi công việc đồng áng trong các tỉnh miền Nam. Cơn đói kém đe dọa dân chúng. Các sư sãi cầu nguyện xin trời đổ mưa xuống, nhưng vô hiệu quả! Họ nói với chúa Nguyễn rằng: nạn hạn hán xẩy đến cho dân là vì lỗi phạm của những người đã bỏ đạo của tổ tiên và đi theo đạo của Âu Châu, vì thế các thần minh nổi giận và phạt vạ thần dân bằng cơn hạn hán này. Muốn đền tạ hiệu nghiệm, chúa phải làm điều các thần minh yêu cầu, là trục xuất các thừa sai và ép buộc người công giáo phải từ bỏ tà đạo (34). Cho những ý kiến đó là hợp tình hợp lý, chúa Sãi Vương truyền lệnh cho cha Carvahle và Busomi phải ra khỏi miền Nam (35).
Cha Alexandre de Rhodes cũng ở trong hoàn cảnh khó khăn tương tự, cũng chịu những tố cáo giả dối như vậy, nên đã bị trục xuất khỏi lãnh thổ của vua Lê năm 1628 (36). Ngài trở vào miền Nam, nhưng lại bị trục xuất vào năm 1640 (37). Bó buộc phải đáp tàu về Macao. Ba tháng sau, cha Alexandre de Rhodes lại tìm cách cập bến Hội An, nhưng rồi lại bị đuổi vĩnh viễn khỏi Việt Nam ngày 3.7.1645, sau nhiều tháng bị giam cầm với chín thầy giảng (38). Sau 21 năm lặn lội truyền giáo tại Việt Nam, cha bị bó buộc phải rời bỏ các địa điểm truyền giáo, ôi bao xót xa, bao ngậm ngùi thương mến! Không được phúc đổ máu trên đồng truyền giáo, cha Alexandre de Rhodes đã ra đi mang theo một kỷ vật thật quý giá, là cái đầu của thầy giảng Anrê, vị tử đạo đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam.
3) Thầy giảng Anrê, vị tử đạo đầu tiên tại Việt Nam
Cha Alexandrede Rhodes đã viết về vị tử đạo đầu tiên của Việt Nam như sau: “Cho tới nay, Giáo Hội Miền Nam tương đối vẫn được bình an và hạnh phúc, lâu lâu cũng bị tấn công gay gắt nhưng chưa hề phải đổ máu để bênh vực những vụ gièm pha phỉ báng Chúa mình, nên cũng chưa bao giờ xuất hiện trước ngai tòa Con Chiên với chiếc áo hồng thắm, đầu đội triều thiên, và tay cầm cành lá chiến thắng. Nói khác, cho đến nay, Giáo Hội Việt Nam chưa có một vị tử đạo đã hy sinh mạng sống vì bảo vệ đức tin. Thiên Chúa dành vinh quang này cho môt người trẻ mười chín tuổi tròn mà tôi đã rửa tội ba năm trước và tôi đã coi như một người bạn giúp tôi đi dạy giáo lý từ hai năm nay“ (39).
Năm 1644, hoàng hậu Tôn Thị truyền cho quan tỉnh Quảng Nam lùng bắt thầy giảng Inhaxiô và phá vỡ mọi công trình truyền giáo. Thù nghịch với người công giáo từ lâu, quan tỉnh đem quân lính đến bao vây nhà thầy Inhaxiô và các thầy giảng. Lúc đó thầy Inhaxiô đi vắng, lính bắt thầy Anrê đang thay mặt thầy Inhaxiô và chăm sóc bốn thầy giảng khác đau yếu. Hạnh phúc thay, trong nhà tù của tỉnh, thầy Anrê đã gặp một người công giáo trọng tuổi cũng gọi là Anrê. Cả hai khích lệ nhau can đảm chịu mọi hành nhục và sẵn sàng đổ máu vì đức tin. Cả hai cầu nguyện thâu đêm. Hôm sau bị điệu ra tòa do chính quan tỉnh ngồi xử. Quan đã kêu án xử tử cả hai người đồng tên thánh Anrê.
Ngày 16.07.1644, thanh niên Anrê bị điệu ra pháp trường xử trảm. Thầy luôn bình tĩnh và can đảm, cầu nguyện cho đến phút cuối cùng. Cha Alexandre de Rhodes cũng lẩn lút theo người môn đệ của mình ra tận pháp trường, và chứng kiến giây phút thầy Anrê bị chặt đầu. Cha đã nghe rõ tiếng của thầy Anrê tuyên xưng danh thánh Chúa Giêsu cho đến lúc nhát dao làm tắt tiếng thốt ra từ miệng thầy Anrê. Linh hồn bay về trời, thân xác ngã xuống đất... (40).
4) Cuộc bách hại các tín hữu
Tiếp cuộc tử đạo của thầy Anrê là cái chết vì đức tin của các thầy Inhaxiô (41), rồi cơn bách hại tại Quy Nhơn (42). Quân lính của quan tỉnh nhận được lệnh phải phá hủy các nhà thờ, phân tán các cộng đoàn Kitô giáo và bắt giam các chức việc. Trước tiên có 35 giáo dân bị bắt giam rồi dẫn đi nộp cho quan tỉnh. Người quý chức nổi tiếng nhất bấy giờ là ông trùm Ngữ, trùm cả của họ đạo Quy Nhơn. Mấy tháng trước, ông đã chuẩn bị cho giáo dân trong họ đạo sẵn sàng tuyên xưng đức tin và khi bị bắt giam, ông là phát ngôn viên của những người bị bách hại trước mặt quan lớn. Cương quyết trong niềm tin, mọi người đều nhất trí trung thành với Thiên Chúa và với đạo thánh. Ngày đầu tiên, quan tỉnh xúc động vì thấy họ liên đới với nhau và đồng tâm tuyên chứng đức tin, ông cho 29 người về với gia đình, ông chỉ giữ lại 6 người, trong đó đương nhiên có ông trùm Ngữ.
Cảm nghĩ sau đây của cha Alexandre de Rhodes chứng tỏ cho chúng ta thấy sự khác biệt: “Hai mươi chín người được thả ra về không phải chịu một hình nhục nào, thì nét mặt buồn rầu, bước đi chậm chạp; còn sáu người bị giữ lại, thì, tuy vai mang gông nặng nề, lại có nét mặt vui tươi, bước đi nhẹ nhàng dường như họ có đôi cánh“ (43).
Đó là giai đoạn đầu tiên của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Tuy chỉ là một bản tóm lược, chúng ta cũng nhìn thấy ở đó những khó khăn lớn lao đến từ mọi phía, cho phép chúng ta nhận ra bao công phúc của các các nhà truyền giáo tiên phong và của những người tín hữu ’thơ sinh’ ở Việt Nam. Nhờ ơn lành của Thiên Chúa và nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các ngài đã khởi đầu một cách anh dũng lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Nhưng để củng cố lịch sử này, như chúng ta sẽ đọc thấy trong những trang tiếp theo, Giáo Hội Việt Nam còn phải chịu những cuộc bách hại kinh hoàng, chan chứa máu hồng... mà những khó khăn nhắc đến ở những trang trên, mới chỉ là những dấu hiệu đi trước.
MỤC II
LỚN LÊN TRONG BÁCH HẠI (1580-1885)
I. Những cuộc bách hại đẫm máu
Người ta có thể không sợ quá lời khi nói rằng lịch sử của Giáo Hội Việt Nam là một chuỗi dài những cuộc bách hại chống Kitô giáo. Như chúng ta đã thấy, vào năm 1533 Tin Mừng bắt đầu được rao giảng tại Việt Nam, nghĩa là năm ‘con gái đầu lòng của Giáo Hội tại Viễn Đông chào đời’. Kể từ năm 1580 cuộc bách hại bắt đầu và kéo dài cho tới 1885, nghĩa là trong hơn 300 năm. Các sử gia chia quãng thời gian ảm đạm này thành bốn giai đoạn chính: Dưới triều đại nhà Lê với các chúa Trịnh và Nguyễn (1580-1747); dưới triều đại nhà Tây Sơn (1777-1802); dưới triều đại nhà Nguyễn (1802-1867); dưới thời Văn Thân (1862-1885).
1) Dưới triều đại nhà Lê và các chúa Trịnh và Nguyễn
Giai đoạn đầu (1580-1617). những cuộc bách hại ở cả hai miền Nam và Bắc còn ít nghiêm khắc và ít đổ máu.
Tại miền Nam, những cuộc bách hại khởi đầu từ việc trục xuất các cha dòng Tên năm 1617, rồi từ những tố cáo gian dối đổ xuống trên các thừa sai và các làng công giáo năm 1623. Nhưng những cuộc bách hại trở nên gay gắt và đổ máu kể từ năm 1644 tại Quy Nhơn và Quảng Nam. Đồng thời, chính chúa Thượng đã ra lệnh trục xuất cha Alexandre de Rhodes. Ngài đã phải ngậm ngùi ra đi không ngày trở lại trên đất Việt Nam, sau khi đã chứng kiến cuộc tử đạo của các thầy giảng Anrê, Inhaxiô. Sau cùng sắc lệnh bắt đạo của chúa Minh Vương năm 1698, đã làm tiêu tan nhiều làng công giáo và đã gây nên cái chết rũ tù của cha Langlois và 30 giáo dân (44).
Trong thời đó, tại miền Bắc, tại lãnh thổ của vua Lê chúa Trịnh, các cuộc bách hại chỉ bắt đầu từ năm 1629 với lệnh trục xuất các thừa sai của chúa Trịnh Tráng. Rồi 1712, chúa Trịnh Can cấm người công giáo họp nhau cầu nguyện và đeo ảnh đạo. Các cuộc bách hại trở nên kinh hoàng vào thời chúa Trịnh Cương, năm 1721. Chúa ra lệnh đuổi bắt và chặt đầu các thừa sai. Chính trong vụ bách hại này mà hai cha Massari và Buccharelli đã được phúc tử đạo năm 1723 (45). Mười tám năm sau, dưới triều chúa Trịnh Doanh, cuộc bách hại bỗng nhiên trở nên dữ dằn bởi sự ghen ghét người công giáo của một số quan lại muốn lấy lòng chúa Trịnh và mong được phần thưởng chúa hứa ban. Trong năm năm, bốn cha dòng Đaminh và nhiều giáo dân bị giết chết. Đó là quý cha Francois Gil, Matthieu Leginiana, Hyacinthe Castaneda và Vincent Liêm (46).
2) Dưới triều đại nhà Tây Sơn
Chính vào năm 1763 mà ba anh em Tây Sơn, Nhạc, Huệ và Lữ đã nổi dậy và đem quân chống chúa Nguyễn. Sau khi toàn thắng quân chúa Nguyễn và đánh tan cả đoàn quân Thái Lan qua giúp chúa Nguyễn, năm 1786, anh em Tây Sơn kéo quân trực chỉ miền Bắc và chiếm được Hà Nội, thủ đô của lãnh thổ thuộc vua Lê chúa Trịnh. Hai năm sau, ba anh em còn đánh tan đoàn quân trung hoa qua cứu viện vua Lê chúa Trịnh tại Đống Đa. Sau những chiến thắng oai hùng tiếp nối nhau, Nguyễn Huệ, người thứ hai của ba anh em Tây Sơn đã tự xưng là hoàng đế Việt Nam thống nhất, và mang tước hiệu là vua Quang Trung.Ngay từ buổi đầu, vua Quang Trung đã tỏ ra không ưa thích đạo Công Giáo. Vì thế, 1975 vua đã ra sắc chỉ bắt bớ các kitô hữu. Nhưng cuộc bách hại chỉ kinh hoàng và đẫm máu vào triều đại người kế ngôi vua là hoàng đế Cảnh Thịnh. Ông này bí mật ra lệnh cho các quan giết hết các người công giáo trong tháng 05. 1798. Trong số lớn những Kitô hữu bị sát hại thời Cảnh Thịnh, có hai linh mục Việt Nam là cha Gioan Đạt và Nguyễn Văn Triêu. Cùng bị giam với hai linh mục, có chừng 32 quý chức họ đạo mà 30 đã anh dũng chết vì đức tin (48).
3) Dưới triều đại nhà Nguyễn
Bị anh em Tây Sơn đánh bại, chúa Nguyễn Ánh phải chạy trốn sang Bangkok (Thái Lan). Ông chờ đợi thời thế thuận lợi để trở về Việt Nam. Vậy vào tháng 07.1787, vào lúc anh em Tây Sơn chia rẽ nhau cách trầm trọng, chúa Nguyễn Ánh đã kéo quân trở về miền Nam, chiếm tỉnh Cần Thơ. Nhờ tài binh lược của các tướng Võ Tánh, Ngô Tòng Chu và Lê Văn Duyệt, chúa Nguyễn Ánh đã đánh tan nhà Tây Sơn chiếm lại mau chóng các tỉnh lớn Sàigòn, Huế, Quy Nhơn và Hà Nội. Bấy giờ chúa Nguyễn Ánh lên ngôi vua và lấy danh hiệu là Gia Long, lập nên triều đại nhà Nguyễn năm 1799. Vua Gia Long tạ thế năm 1820 (49).
Thời vua Gia Long, người công giáo tương đối được bình yên. Nhưng những vua kế vị ngài, như Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đã tỏ ra rất thù nghịch với đạo Công Giáo. Một vài sử gia đã gọi Minh Mạng và Tự Đức là ‘Nêrons Việt Nam’ (des Nérons Vietnamiens) (50). Các sắc chỉ bách hại người công giáo do vua Minh Mạng ban hành liên tiếp vào các năm 1825, 1833, 1836 và 1838. Vua truyền khắc hai chữ ‘tà đạo’ trên má các tín hữu (51). Chính vua ký bản án tử hình ba giám mục: Dominique Renares, Ignace Delgado và Pierre Dumoulin; và chừng 20 linh mục ngoại quốc và linh mục bản xứ, một số đông các thầy giảng, nữ tu, quý chức và giáo dân.
Riêng vua Tự Đức, vua đã ra sáu sắc lệnh chống người công giáo trong các năm 1851, 1855, 1857, 1859 và 1861. Điều rất rõ là dưới thời Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam bị bách hại và hủy diệt dữ đội nhất. Chỉ nguyên các cuộc bách hại từ 1858 đến 1862 con số các giáo dân bị giết hại và các họ đaọ bị tàn phá thật đáng kể: 115 linh mục đã đổ máu vì đức tin, 50 tu viện bị phá hủy, 2.000 nữ tu bị phân tán, trong số đó 100 chị đã hiến mạng sống vì vinh danh Thiên Chúa, 10.000 quý chức họ đạo bị bắt giam mà một nửa đã được phúc tử vì đạo. Một số lớn các tín hữu đã chết đói, 2.000 họ đạo bị tàn phá. Sau cùng, tất cả của cải, đất đai nhà cửa của họ đạo và của giáo dân bị dân ngoại chiếm đoạt, cướp phá. Do đó, trên 300.000 dân công giáo phải di tản, trốn tránh khỏi nơi sinh trưởng. Lịch sử còn ghi, chỉ nguyên ‘sắc lệnh phân sáp’ năm 1861 đã gây tử vong cho trên 50.000 tín hữu (52).
4) Dưới thời Văn Thân
Sau lòng thù ghét đạo Công Giáo là sự hiện diện của quân đội Pháp đã thúc đẩy các vua chúa và quan lại bách hại người công giáo không chút thương tâm. Điều đó thật rõ ràng qua vụ việc: do áp lực của chính phủ thuộc địa, vua Tự Đức đã ra một sắc lệnh ân xá cho người công giáo năm 1862 và tuyên bố quyền tự do tôn giáo (53), nhưng phần lớn các quan lại không chấp nhận. Trái lại, sự hiện diện của người Pháp còn kích thích thêm lòng ghen ghét và thù nghịch đạo Công Giáo của họ đến độ họ nổi dậy tàn phá các làng công giáo tại Huế năm 1864 và 1865, tại Nam Định năm 1869, tại Thanh Hóa năm 1874, tại Quảng Ngãi và Quảng Bình năm 1885 (54).
5) Tổng kết của hơn 300 năm bách hại
Chúng ta vừa chiếu lại mau chóng cuốn phim đẫm máu của Giáo Hội Việt Nam. Chúng ta thán phục đức tin của 100.000 người công giáo tử đạo, trong đó có 200 linh mục, 340 thầy giảng và 270 nữ tu mến Thánh Giá. Ngoài ra trên 3.000 họ đạo bị tàn phá hay cướp bóc (55). Chúnng ta còn phải thán phục hơn nữa khi nhận thấy giữa những năm bị bách hại tàn ác và kinh khủng… việc rao giảng Phúc Âm vẫn không bị khoan giãn, ngưng đọng…
Giáo Hội Việt Nam vẫn duy trì sức sống mạnh mẽ, hiên ngang và trung kiên. Phải chăng đó là ơn sủng của Thiên Chúa, là sự phong phú của máu các Thánh Tử đạo. Trong những trang tiếp theo, chúng tôi xin trình bày sơ lược một vài biến cố chính yếu làm chứng cho đời sống liên tục và đầy nghị lực của Giáo Hội Việt Nam trong giai đoạn đẫm máu này.
II. Thành lập giáo phận Bắc Kỳ và giáo phận Nam Kỳ
1) Hai vị Giám Mục (Đại Diện Tông Tòa) đầu tiên
Mục đích của việc thiết lập các địa phận (đại diện tông tòa) là để củng cố và phát triển công trình truyền giáo. Các linh mục của Hội Thừa Sai Paris đã từ Âu châu đến làm việc tại Nam Kỳ và Bắc Kỳ từ năm 1653. Bắc Kỳ và Nam Kỳ được chia ra thành hai giáo phận (hai đại diện tông tòa) do trọng sắc ‘Super Cathedram Principis Apostolorum’ (Từ Ngai Tòa của vị Tông Đồ Cả) của đức giáo hoàng Alexandre VII (56). Ngài đã bổ nhiệm hai linh mục thừa sai Pháp, đức cha Francois Pallu làm giám mục (Đại Diện Tông Tòa) giáo phận Bắc Kỳ (1659-1679) và đức cha Lambert de la Motte làm giám mục (Đại Diện Tông Tòa) giáo phận Nam Kỳ (1659-1679) (57).
2) Giáo phận Bắc Kỳ được chia ra thành nhiều giáo phận mới
Năm 1658 đức cha Fr. Pallu, giám mục hiệu tòa Héliopolis, được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bắc Kỳ. Quyền tài phán của ngài bao trùm cả miền Bắc Kỳ. Cuộc bách hại ngăn cản không cho phép ngài di chuyển hết miền truyền giáo thuộc quyền. Vì thế, việc phân chia giáo phận mới đã có từ năm 1679. Đức cha Deyduer (1679-1693) được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Hải Phòng (Tonkin Oriental), và đức cha Bourges (1679-1717) làm giám mục giáo phận Hà Nội (Tonkin Occidental). Đến năm 1693, đức cha Deydier qua đời, giáo phận Hải Phòng được giao cho các cha dòng Đaminh thuộc tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi Phi Luật Tân. Và giáo phận Hà Nội vẫn thuộc về Hội Thừa Sai Paris.
Giáo phận Hà Nội lại chia ra: giáo phận Vinh (Tonkin Méridional) năm 184, giáo phận Hưng Hóa (Haut Tonkin) năm 1895, giáo phận Phát Diệm (Tonkin Maritime) năm 1901.
Giáo phận Hải Phòng chia thành: giáo phận Bùi chu (Tonkin Central) năm 1848 và giáo phận Bắc Ninh (Tonkin Septentrional) năm 1883.
Sau cùng, giáo phận Thanh Hóa tách ra khỏi giáo phận Phát Diệm năm 1932, phủ doãn hạt Lạng Sơn tách ra khỏi giáo phận Bùi Chu năm 1913 và giáo phận Thái Bình tách ra từ giáo phận Bùi Chu năm 1936.
3) Giáo phận Nam Kỳ được chia ra thành nhiều giáo phận mới
Giáo phận Nam Kỳ (vicariat de Cochinchine) được thiết lập năm 1659 và giao cho Hội Thừa Sai Paris. Giáo phận này không chỉ bao trùm trên lãnh thổ nhà Nguyễn mà còn cả lãnh thổ Cao Miên. Đến năm 1844, giáo phận được chia ra thành hai: giáo phận Quy Nhơn (Vicariat de Cochinchine Orientale) và giáo phận Sài Gòn - Cao Miên (Vicariat de Cochinchine Occidentale).
Lần lượt, giáo phận Sài Gòn - Cao Miên chia ra giáo phận Cao Miên năm 1850 và giáo phận Vĩnh Long 1938.
Còn giáo phận Quy Nhơn chia ra giáo phận Huế (vicariat septentrionale) năm 1850 và giáo phận Kontum năm 1932.
4) Một vài con số của các giáo phận năm 1883
III. Những Công Nghị Miền
1) Công nghị Nam Định năm 1670
Công nghị Nam Định năm 1670 được cử hành dưới quyền chủ tọa của đức cha Lambert de la Motte (59). Những người tham dự là ba 3 thừa sai và 9 linh mục Việt Nam. Những quyết định quan trọng là: giáo phận được chia ra thành nhiều giáo xứ và họ đạo (quasi-paroisse et chrétienté), đứng đầu mỗi giáo xứ là một linh mục. Nhà ở của ngài nằm trong thành phố. Các thầy giảng làm việc dưới quyền của cha sở. Muốn làm thầy giảng, phải có giấy chứng nhận của đức giám mục. Sau cùng, trong mỗi họ đạo, phải chọn hai giáo dân đạo đức để họ quán xuyến những vấn đề vật chất.
Nhân dịp này, đức cha Lambert de la Motte đã truyền chức linh mục cho 7 thầy giảng và các chức nhỏ cho 40 thầy khác. Ngài cũng lập những nhà đầu tiên cho các chị dòng Mến Thánh Giá (40)
2) Công nghị Hội An (Faifo) năm 1672
Công nghị Hội An năm 1672 do đức cha Lambert de la Motte triệu tập và chủ tọa. Tham dự công nghị có 6 linh mục thừa sai mà thế giá hơn cả là cha Mahot và cha Vachet, cùng 4 linh mục Việt Nam với một số các thầy giảng. Công nghị này đề cập đến nhiều vấn đề tương quan đến đời sống luân lý và bí tích của giáo dân, đến kỷ luật và việc quản trị trong các họ đạo và trong giáo phận (vicariat). Công nghị đã thảo luận kỹ lưỡng và phân định rõ ràng vai trò và nhiệm vụ của các quí chức trong họ đạo. Chúng tôi sẽ đề cập đến điểm quan trọng này trong những chương sau (61).
3) Công Đồng Đông Dương (Concilium Indosinense) năm 1934
Có thể nói cho tới nay, đây là ‘công nghị’ quan trọng nhất được cử hành tại Việt Nam, xét về nội dung phong phú, về bối cảnh lịch sử và về thành phần tham dự, đáng mang tên là ‘công đồng’ (Cocilium). Công đồng này được triệu tập và chủ tọa bởi đức cha Antonius M. Drapier, op, Khâm sứ Tòa Thánh, từ ngày 16.11 đến ngày 06.12.1934, tại Hà Nội (vì thế cha Phan Phát Huồn gọi là ‘Công đồng Hà Nội’). Không kể đức Khâm sứ Tòa thánh, còn có 20 giám mục, 5 bề trên dòng, 21 linh mục cố vấn (10 Pháp, 7 Việt Nam, 3 Tây Ban Nha và 1 Thái Lan). Các thành phần tham dự Công Đồng được chia thành năm ủy ban, mỗi ủy ban lo về một vấn đề:
• Ủy ban I, về hoạt động và quy chế của các giám mục, các thừa sai, các tu sĩ và thầy giảng.
• Ủy ban II, về quy chế của các linh mục bản xứ, các chủng sinh.
• Ủy ban III, về các Bí tích
• Ủy ban IV, về quy chế các giáo phận, về việc giảng dạy, nhất là về công giáo tiến hành.
• Ủy ban V, về tài chánh của Giáo Hội (61’).
Một thành quả quan trọng khác của Công đồng Dông Dương là từ công đồng này sẽ có nhiều thư chung của các giám mục và nhiều cuốn chỉ nam (directoire) của giáo phận. Tất cả là những tài liệu quý giá liên quan đến tổ chức Hội Đồng Quý Chức chúng tôi nghiên cứu.
4) Các Công nghị ít quan trọng khác
Trước tiên là công nghị Huế năm 1747 được cử hành bởi đức cha Lefebvre, giám mục giáo phận Nam Kỳ (1738-1760) với sự hiện diện của đức cha Hilaire de Jésus op, giám mục giáo phận Hải Phòng. Mục đích của công nghị là giải quyết những bất đồng về nghi lễ, nhưng tiếc là không thành công (62).
Lịch sử còn cho biết các công nghị Thọ Đúc (Huế) năm 1747 (63), công nghị Bắc Kỳ (1753) (64), công nghị Hà Nội năm 1795 (65), công nghị Nam kỳ - Cao miên - Xiêm la (Cochinchine-Cambodge - Ciame năm 1841 (66), công nghị Bùi Chu năm 1854 (67). Chúng tôi tiếc là không tìm ra các bản văn, một vài bản văn chúng tôi đã đọc thì không có điểm nào quan trọng.
Mục đích chính của các công nghị là giải quyết và phân định rõ ràng những điều liên hệ đến đời sống Giáo Hội, đến phần rỗi các linh hồn, và cụ thể là đến việc đào tạo và những hoạt động của những người dấn thân vào sứ mệnh truyền giáo tại Việt Nam. Họ là những người đầy tận tụy của Phúc Âm.
IV. Các tôi tớ của Tin Mừng
1) Các nhà truyền giáo Âu châu
Chúng ta biết rằng, từ năm 1649, cha Alexandre de Rhodes đã trở về Roma xin đức giáo hoàng gửi các giám mục và các nhà truyền giáo đến Việt Nam (68). Hơn thế, chính nhờ cái nhìn sâu sắc của ngài mà bao nhiêu khó khăn và chống đối từ nhiều phía, mà năm 1658 Hội Thừa Sai Paris đã thành hình với chủ yếu là rao giảng Tin Mừng tại các nước Đông Dương (69). Không ai có thể phủ nhận sự nghiệp lớn lao của các linh mục Thừa Sai Paris đối với Giáo Hội Việt Nam, nhất là trong thời Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Nhưng trước khi các ngài tới, thì các cha dòng Tên đã có mặt. Và trong một thế kỷ rưỡi, từ 1614 đến 1774, dòng Tên đã hiến cho Giáo Hội non trẻ Việt Nam những linh mục tài ba và nhân đức. Chính nhờ các ngài mà lịch sử Giáo Hội Việt Nam đã có những trang thật đẹp. Chỉ tiếc một điều là vì vụ tranh cãi về nghi thức mà các linh mục dòng Tên bị bó buộc rời khỏi Việt Nam (70).
Theo lời yêu cầu của đức cha Francois Pallu và Lambert de la Motte, các cha Đaminh đã đến Bắc Kỳ năm 1676, mà trước tiên là hai cha Jean d’Arjona, Jean de la Croix. Cộng tác với các cha dòng Phanxicô, dòng Tên và các cha Thừa Sai Paris, dòng Đaminh đã cống hiến cho Giáo Hội Việt Nam nhiều vị tử đạo, sự nghiệp truyền giáo của các ngài tại Giáo Hội này luôn đáng ghi nhớ (71). Ngoài ra, chúng ta không quên sự hiện diện tận tình và tích cực tại Nam Kỳ, đặc biệt trong những hoạt động giáo dục và từ thiện, của các nữ tu dòng thánh Phaolô thành Charles từ 1866 (72), của các Sư Huynh Trường Công Giáo từ 1867 (73), và của các nữ tu dòng kín Lisieux chuyên chú việc tông đồ cầu nguyện, đã đến Sài Gòn năm 1861 (74).
2) Linh mục Việt Nam giữa các linh mục thừa sai
Mối bận tâm lớn lao của Tòa Thánh và của các giám mục là không những lo mời các thừa sai ngoại quốc đến làm việc tại Việt Nam, nhưng còn lo đào tạo các linh mục bản xứ. Các linh mục đầu tiên được truyền chức tại Thái Lan năm 1668. Đó là cha Giuse Trang, Luca Bền và Bênêditô Niên (75). Lịch sử còn nhắc đến các linh mục dòng Tên Việt Nam tiên khởi là cha Valentinô Sui, Lêonê Huế được chịu chức trước năm 1 694 (76). Trước khi được chịu chức linh mục, các ngài đã là thầy giảng mẫn cán. Chính vì thế, việc chịu chức của các ngài là một hãnh diện, mọi sự khích lệ lớn lao cho tổ chức các thầy giảng. Tổ chức này lớn mạnh không ngừng, cả trong những giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Số thống kê năm 1855 cho biết con số 413 linh mục việt nam làm việc sát cánh với 216 cha thừa sai ngoại quốc (77). Để bảo đảm việc đào tạo các linh mục và các thầy giảng, việc thiết lập các chủng viện đương nhiên là một đòi hỏi khẩn trương. Vì thế, từ 1665, một chủng viện truyền giáo Đông Dương đã được thiết lâp tại Juthia (Thái Lan) (78). Rồi năm 1765, một chủng viện của giáo phận Nam Kỳ được xây cất tại Hòn Đất trong tỉnh Hà Tiên. Năm 1780, đức cha Pigneau Bahaine chuyển chủng viện này về Lái Thiêu gần Sài Gòn. Tại giáo phận Bắc Kỳ, người ta nói đến chủng viện Vĩnh Trị (80).
3) Giáo dân Việt Nam
Bên cạnh và dưới sự hướng dẫn của các linh mục thừa sai hay linh mục việt nam, giáo dân việt nam rất ý thức và tích cực lãnh trách nhiệm truyền giáo.
Trước hết chúng ta phải nhìn nhận công nghiệp của các thầy giảng: thừa tác vụ chính yếu của họ là trợ tá các linh mục trong việc đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho dân ngoại, dạy giáo lý cho trẻ em và dự tòng, là cộng tác với các quý chức trong việc điều khiển họ đạo khi linh mục vắng mặt. Đây là một tổ chức tông đồ giáo dân hiệu lực nhất tại Việt Nam đặc biệt trong thời bách hại (81).
Rồi dòng Mến Thánh Giá được thành lập bởi đức cha Lambert de la Motte tại Bắc Kỳ năm 1669 và tại Nam Kỳ năm 1672 (82). Hoạt động của họ thật khiêm tốn, kín đáo nhưng rất hiệu lực, họ lo đăc biệt việc dạy giáo lý cho các dự tòng và lo rửa tội cho các trẻ em hay người lớn ngoại giáo lâm cơn nguy tử.
Sau cùng chúng ta phải nhắc đến một số lớn các tín hữu thâm niên và đạo đức, quen gọi là quý chức hay chức việc. Ngay từ khi một họ đạo nhỏ được hình thành, thì một số tín hữu đạo đức cũng được tuyển chọn thành Hội Đồng Quí Chức để bảo vệ và phát triển cộng đoàn nằm giữa lương dân, đồng thời cũng để mở rộng sinh hoạt truyền bá Phúc Âm. Trong thời kỳ bách hại, các chức việc ở tại chỗ, lo che giấu các thừa sai, bênh vực và hướng dẫn họ đạo, rồi nếu Thiên Chúa muốn, họ hiến dâng mạng sống cho Ngài. Sự cộng tác chân thành và hăng say mà các quý chức dành cho các linh mục và cho nam nữ tu sĩ trong suốt thời cấm đạo còn được biểu lộ cách tích cực và hiệu lực trong thời tái thiết Giáo Hội Việt Nam mà chúng ta sẽ trình bày trong các trang sau đây.
MỤC III
THỜI KỲ TÁI THIẾT VÀ PHÁT TRIỂN (1885-1953)
I. Nền hòa bình và sự tự do què quặt
Người công giáo việt nam ở vào hai thế kẹt: một bên là sự hiện diện của quân đội Pháp trên lãnh thổ quê hương tạo nên nguyên nhân chính khiến các vua chúa, các văn thân và dân ngoại phản ứng chống lại đạo Công Giáo và bắt bớ linh mục và tín hữu không chút thương tâm; một bên khác là viện lẽ các thừa sai và nhiều kitô hữu bị vua chúa và quan lại giết chết, quân đội Pháp đã chiếm đoạt chủ quyền của Việt Nam. Vì thế nền hòa bình và sự tự do mà Giáo Hội Việt Nam được hưởng nhận sau ba trăm năm bách hại luôn bị què quặt bởi sự kiện Quê Hương bị cướp mất chủ quyền. Vì người công giáo mang trên hai vai bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ Quốc.
Sau nhiều lần đe dọa vào các năm 1818 và 1856 (83), thì tháng bảy 1858, vua Pháp đã cho tướng Gigault de Genouilly đổ bộ vào Việt Nam với 3.000 quân và chiếm Cửa Hàn, tức là Đà Nẵng ngày nay (84). Qua năm 1859, Sài Gòn rơi vào tay quân Pháp. Và hòa ước năm 1862 cho phép người pháp chiếm làm thuộc địa ba tỉnh của Nam Kỳ, nghĩa là cả giáo phận Sài Gòn (Vicariat de Cochinchine Occidentale) (85). Nhưng đó mới chỉ là bước đầu trong tham vọng thuộc địa của người Pháp. Bởi vì năm 1867, quân đội Pháp dưới quyền chỉ huy của tướng Dupré đã tiến chiếm nhiều tỉnh khác của Nam Kỳ (86). Sau khi đã chiếm cứ và đặt xong nền hành chánh ở Nam Kỳ, quân đội Pháp lại tiến ra Bắc Kỳ và chiếm đóng Hà Nội năm 1883, rồi đòi vua Việt Nam phải đặt cả Bắc Kỳ và các tỉnh khác của Việt Nam (tức là các tỉnh Trung Kỳ hay giáo phận Huế và giáo phận Quy Nhơn (Le Centre de l’Annam ou deux Vicariats de Cochinchine Septentrionale) (Huế) et Orientale (Quy Nhơn) dưới quyền bảo hộ của Nước Pháp (87). Chế độ thuộc địa – bảo hộ của Pháp tại Việt Nam chỉ chấm dứt vào năm 1954.
II. Hai Công Nghị chỉ đạo
Vừa khi có hòa bình và tự do, các giám mục miền Nam và miền Bắc họp nhau lại để kiểm điểm tình hình và đưa ra những chỉ thị cần phải có cho công trình tái thiết chung. Chúng tôi nghĩ, đó là mục tiêu của hai công nghị miền, công nghị Nam Kỳ năm 1880 và công nghị Bắc Kỳ năm 1900.
1) Công nghị Nam Kỳ
Công nghị Nam Kỳ được tổ chức tại Sài Gòn từ ngày 07 đến 14.08.1880 do các đức cha Isidore Colombert, giám mục giáo phận Sài gòn, đức cha Marie Louis Galibert, giám mục giáo phận Quy Nhơn, và đức cha Gaspard, giám mục giáo phận Huế. Nhiều linh mục và thầy giảng được mời tham dự. Bản văn ghi các quyết định của công nghị gồm bốn chương:
Chương I ‘về giáo sĩ’ gồm 16 khoản: Việc thánh hóa các tín hữu lệ thuộc sự thánh thiện của hàng giáo sĩ (1-5); Chia giáo phận ra thành hạt và xứ hay họ đạo (6-10); Việc quản trị và việc bổ nhiệm (11-16).
Chương II ‘Về trường học và chủng viện’ gồm 21 khoản: Cần thiết phải mở các trường học (17); Vấn đề chủng viện và những nguyên tắc thực tế để tuyển chọn và đào tạo các chủng sinh (18-37).
Chương III ‘Về việc truyền bá đức tin’ gồm 12 khoản: Rao giảng Tin Mừng là mục tiêu thứ nhất của sứ mệnh tông đồ (18); thiết lập các họ đạo mới và tổ chức lại Hội Đồng Quí Chức (39-40); phương pháp truyền giáo (41-50).
Chương IV ‘Về việc coi sóc các linh hồn’ gồm 21 khoản: Việc dạy giáo lý (51-58); thiết lập các hội đoàn (59); huấn luyện các giáo lý viên (60); thái độ của linh mục đối với các tội nhân và đối với các dự tòng (61-65); vấn đề hôn phối (66-72) (88)
2) Công đồng Bắc Kỳ
Công đồng Bắc Kỳ được cử hành tại Kẻ Sặt năm 1900 dưới quyền chủ tọa của đức cha Joseph Torres, giám mục giáo phận Hải Phòng, với sự tham dự của đức cha Louis Pineau, giám mục giáo phận Vinh, đức cha Pierre Marie Gendreau, giám mục giáo phận Hà Nội, đức cha Paul Ramond, giám mục giáo phận Hưng Hóa, đức cha Maximus Fernandes, giám mục giáo phận Bùi Chu và đức cha Maximus Valesco, giám mục giáo phận Bắc Ninh. Ngoài ra còn có 5 cha dòng Đaminh và 3 cha Thừa Sai Paris được mời tham dự với tư cách cố vấn và thần học gia.
Văn kiện đã được các giám mục biểu quyết gồm 4 mục, mỗi mục chia thành nhiều chương và mỗi chương chia thành nhiều tiết. Văn kiện đầu tiên được soạn thảo bằng tiếng latinh, sau được dịch ra tiếng Việt Nam. Chúng tôi nêu lên những ý tưởng chính sau đây:
Mục I ‘Về nhân sự’, chia thành 7 chương: Các giám mục (I); Các thừa sai và linh mục bản quốc (II); Các thầy giảng (III); Học trò nhà Đức Chúa Trời (IV); Các chủng sinh (V); Đời sống chung của những người trong nhà Đức Chúa Trời (VI); Các nữ tu (VII).
Mục II ‘Về tài sản’, gồm 2 chương: Bảo trì tài sản Giáo Hội (I); Việc quản trị và xử dụng tài sản Giáo Hội (II).
Mục III ‘Ban hành các Bí Tích’ gồm 7 chương, mỗi chương đề cập đến một Bí Tích.
Mục IV ‘Về việc điều hành các họ đạo’, gồm 9 chương: Tham dự Thánh Lễ và kiêng việc xác các ngày chủ nhật và lễ trọng (I); Ăn chay và kiêng thịt (II); Các chức việc của họ đạo (III); Các trường giáo lý (IV); Trường tiểu học và các giáo viên (V); Những dị đoan phải xa tránh (VI); Vấn đề an táng (VII); Các dự tòng (VIII); Các cô nhi viện (IX) (89).
III. Thư chung của các giám mục
Sau những năm dài chiến tranh và bắt đạo, công trình tái thiết được bắt đầu bằng mọi phương thức, trong mọi phạm vi. Trong giai đoạn này, các giám mục đã ra nhiều thư mục vụ, quen gọi là thư chung (89). Nội dung của những thư chung có thể tóm lược vào năm chủ đề chính yếu:
Khuyến khích tín hữu sống vững đức tin, thực hành các nhân đức, tham dự thánh lễ, chăm lo việc giáo dục con cái, năng lãnh nhận các bí tích (90).
Kêu gọi giáo dân đóng góp tích cực và quảng đại vào việc tái thiết các nhà thờ, trường học của xứ đạo đã bị phá huỷ trong thời bị bách hại và chiến tranh (91).
Khích lệ giáo dân gia nhập các hội đoàn đạo đức: Hội Thánh Thể, hội Mân Côi, hội Các Đẳng… (92).
Mời gọi tín hữu tích cực cộng tác với các linh mục trong việc truyền bá Tin Mừng cho lương dân bằng những phương thế có thể. Các giám mục nhấn mạnh đến việc cầu nguyện, việc rửa tội cho trẻ em lương dân, việc làm gương sáng cho người chưa có đạo… (93).
Tổ chức lại các Hội Đồng Quí Chức của họ đạo bằng cách xác định các quy luật của Hội Đồng và của họ đạo (94).
IV. Tái thiết các họ đạo
Những biến động hãi hùng của bách hại và chiến tranh đã phá vỡ nhiều địa điểm truyền giáo, nhiều họ đạo mới thành hình… Giờ đây, các vị chủ chăn, giám mục và linh mục mang chung một tâm tưởng giống như lời diễn tả của cha Lelarbousse sau đây: “Tôi tê tái tâm can nhìn thấy gia tài của Chúa đã bị phá hủy tan hoang giữa bao hỗn loạn… Các họ đạo biến mất đến gần một nửa. Giáo dân, người này bị gục ngã dưới lưỡi gươm, người khác chết rũ vì đói rét… Phần lớn tín hữu không được xưng tội rước lễ đã từ mười lăm, hai mươi, ba mươi năm hay lâu hơn nữa…” (95). Chính vì thế, ngay từ khi hòa bình ló rạng và tự do tôn giáo được bảo đảm, các giám mục, linh mục, các thầy giảng và toàn thể Dân Chúa, đã tra tay vào một công việc khẩn trương: Công trình tái thiết!
1) Tái thiết các họ đạo.
Với một nhịp độ mau chóng, người ta bắt đầu tái thiết các họ đạo đã bị phân tán bằng việc dựng lên những mái nhà tranh cho giáo dân trở về có chỗ ở, dựng lên ngôi nhà thờ đơn sơ để cử hành phụng tự, những trường kinh bổn tạm thời cho con em và nhà xứ cho linh mục hay thầy giảng cư ngụ, và tu viện cho các nữ tu Mến Thánh Giá. Tất cả là những điều kiện thiết yếu để đưa giáo dân trở về nề nếp sống đạo đã nhiều năm bị cắt đứt: trau dồi giáo lý, lãnh nhận các bí tích, phát triển sức sống của họ đạo… Đặc biệt là tổ chức lại các Hội Đồng Quý chức hầu có những giáo dân ưu tú cộng tác với linh mục trong mọi phạm vi tạo dựng, duy trì và phát triển họ đạo…Sau 20 năm tái thiết, người ta vui mừng nhìn thấy những thành quả đáng khích lệ. Chẳng hạn ở giáo phận Sài Gòn, năm 1898, đức cha Depierre đã viết: “Sau 10 năm, giáo phận hầu như đã được xây dựng lại, và đó là công trình chính yếu đức cha Colombert (1872-1894) đã thực hiện. Năm 1872, trong giáo phận Sài Gòn chưa có một ngôi nhà thờ nào đáng gọi là nhà thờ, trường học giáo xứ rất hiếm hoi, các nhà xứ chỉ là những mái nhà tranh ẩm ướt và đổ nát…! Bây giờ, nhờ sự thúc đẩy và khích lệ của đức cha Colombert, nhờ sự tận tâm của tất cả các ‘đầy tớ tin mừng’ và lòng quảng đại của giáo dân… giáo phận đã có một bộ mặt khang trang và thịnh vượng với nhiều nhà thờ kiên cố, nhiều ngôi trường tân tiến… Năm 1892, giáo phận Sài Gòn đã đếm được 250 nhà thờ hay nhà nguyện” (96).
Sự kiện làm cho người ta chú ý hơn cả là ngôi nhà thờ chính tòa trang nghiêm, đồ sộ của nhiều giáo phận. Nhưng nổi bật nhất với những nét nghệ thuật Á Châu có một không hai, đó là nhà thờ chính tòa của giáo phận Phát Diệm được xây cất năm 1891 dưới sự hướng dẫn của linh mục Trần Lục. Ông Sohuller đã không quá lời khi quả quyết: “Nhà thờ chính tòa Phát Diệm nghệ thuật nhất trong các xứ truyền giáo” (97).
2) Tổ chức lại các Hội Đồng Quí Chức họ đạo.
Một trong những lo âu lớn của các vị chủ chăn là tổ chức lại Hội Đồng Quí Chức của các họ đạo sau thời chiến tranh và cấm đạo. Bởi vì họ đạo có thể tồn tại khi vắng bóng linh mục, nhưng nó đòi hỏi phải có sự điều hành bởi một số quí chức. Vì thế, việc tổ chức lại Hội Đồng Quí Chức hay Hội Đồng Chức Việc là một điều kiện tất yếu trong việc tái thiết họ đạo. Đàng khác, trong mỗi giáo phận, số Hội Đồng Quí Chức cũng lớn bằng con số nhà thờ hay nhà nguyện. Trong hầu hết các thư chung và các công nghị, các giám mục đều tỏ ra rất lo lắng và nỗ lực hoàn thành công tác mục vụ cơ bản này. Trong chương sau, chúng ta sẽ trình bày chi tiết những bản văn chính thức do các giám mục đã biểu quyết tương quan đến Quí Chức và Hội Đồng Chức Việc, cách riêng cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert soạn và ấn hành năm 1884.
3) Tái thiết các trường học của họ đạo.
Sau nhà thờ hay nhà nguyện, thì trường học cũng là mối bận tâm lớn của người công giáo trong họ đạo. Các giám mục, linh mục và quí chức ao ước mỗi họ đạo có một trường dạy kinh bổn. Kể từ khi được hưởng hòa bình và tự do hành đạo, mỗi giáo phận đã hy sinh nhiều tiền của cho công việc xây cất trường học, cốt để các trẻ em có điều kiện học kinh bổn và chữ nghĩa. Công nghị Nam Kỳ năm 1880 bày tỏ rất rõ về ước nguyện này: “Cất trường dạy giáo lý và chữ nghĩa là điều cần thiết tuyệt đối. Vì phải có nhà trường để giáo dục giới trẻ công giáo về đời sống đức tin và đời sống luân lý. Vậy các linh mục phải làm hết sức mình đầu tư vào công tác học đường này” (98).
Sau đây là một vài thành quả đáng chú ý theo những bá cáo của các giám mục: Năm 1891, đức giám mục Hải Phòng đã viết: ”Scolae catechisticae fore in unaquaque christianitate habentur” (Hầu như mỗi họ đạo đều có trường dạy kinh bổn) (99). Rồi năm 1892, đức cha Depierre đã báo cáo về tình hình giáo phận của ngài: “Các sư huynh Lasan có trường Tabert tại Sài Gòn với 331 học sinh nội trú và 236 học sinh ngoại trú; các nữ tu dòng Saint Paul de Chartres điều khiển một trường ngay tại Sài Gòn với 190 học sinh, và 10 trường tại các họ đạo với 1039 học sinh; ngoài ra trong cả giáo phận Sài Gòn có 156 trường tiểu học tại các họ đạọ với 8.067 học sinh’ (100). Sau cùng, năm 1907, trong tờ báo cáo gửi sang Tòa Thánh, đức cha Fernandez O.P. đã quả quyết: “Scolae elementaris catholicae habentur in singulis communitatibus christianis” (Trong mỗi cộng đoàn kitô giáo đều có trường giáo lý sơ đẳng) (101).
Chính nhờ những nỗ lực tái thiết các họ đạo như trên, mà tình hình chung của các giáo phận được bình thường hóa mau lẹ, mà giáo dân sớm được hưởng nền giáo dục kitô đầy đủ, nâng cao đời sống đạo, và nhiều luơng dân xin vào đạo Chúa, và Giáo Hội Việt Nam đóng góp tích cực vào công trình tái thiết quốc gia, đặc biệt bằng những công tác giáo dục, văn hóa và từ thiện.
V. Những tổ chức giáo dục và từ thiện.
Song song với công trình tái thiết các họ đạo, là việc xây cất các cơ sở giáo dục và từ thiện ở cấp giáo phận. Các đức giám mục rất bận tâm về các chủng viện, về các trường trung học, về bệnh viện và các chẩn y viện… Dĩ nhiên những cơ sở giáo dục và từ thiện này đều nhằm mục đích củng cố đời sống của Giáo Hội Việt Nam, nhất là sứ vụ truyền giáo cho lương dân.
Kể từ Công nghị Nam Kỳ (1880), rồi Công nghị Bắc Kỳ (1900), các giám mục đã tỏ rõ thiện chí muốn thể hiện những công trình giáo dục và từ thiện. Về chủng viện, Công nghị Nam Kỳ tuyên bố: “Việc thiết lập chủng viện để giáo dục và đào tạo hàng giáo sĩ bản quốc là mục đích chính và chủ yếu của Tòa Thánh khi sai các ‘vị đại diện tông tòa’ (giám mục) qua Đông Phương, chính vì thế chúng tôi phải làm hết sức để thể hiện công trình này”. Tiếp theo lời tuyên bố trên đây, là những quy luật tuyển chọn và huấn luyện các chủng sinh. Thí dụ: các cha sở phải chọn lựa những đứa trẻ nam có hạnh kiểm tốt, đạo đức và thông minh… trong những gia đình đã có đạo lâu năm, họa lắm mới chọn một người trẻ thuộc gia đình mới theo đạo” (102). Công nghị Bắc Kỳ cũng tuyên bố tương tự (103).
Về các cơ sở từ thiện thì các nghị phụ của công nghị Nam Kỳ tuyên bố rằng: “Mọi hoạt động từ thiện kitô giáo là một sự lôi cuốn mãnh lực người lương tìm về với Giáo Hội. Cho đến nay, các nhà thương đã là một nơi lôi cuốn, thúc đẩy và đón nhận nhiều người lương tìm về với Thiên Chúa. Tùy theo khả năng tài chánh, mỗi giáo phận sẽ cố gắng xây cất thêm các cơ sở từ thiện” (104). Các giám mục miền Bắc còn nhấn mạnh nhiều hơn nữa về các công trình từ thiện khi nói về ‘de modiis ad fides propagandam’ (về các phương tiện truyền giáo) (105) và ‘de orphanotrophiis’ (về các cô nhi viện) (106). Trên thực tế, vào năm 1927, tại miền Nam đã có 17 bệnh viện hay chẩn y viện và 44 cô nhi viện. Tại miền Bắc, có 39 bệnh viện hay chẩn y viện và 56 cô nhi viện (107).
VI. Sự đóng góp vô lường của các cộng đoàn tu sĩ.
Công trình tái thiết Giáo Hội Việt Nam về mọi mặt như chúng ta vừa thấy đòi hỏi sự đóng góp của mọi tầng lớp dân Chúa. Không chỉ các giám mục và linh mục, các thầy giảng và quí chức họ đạo, nhưng còn có chừng 40 cộng đoàn tu sĩ đã thật sự dấn thân và tận lực hoạt động để vừa tái thiết vừa phát triển Giáo Hội Việt Nam. Những cộng đoàn tu sĩ này đã đóng góp theo những đường hướng khác nhau nhưng rất phong phú, với những phương thức khác biệt nhưng hiệu lực. Tiếc là bị hạn chế bởi khuôn khổ của bài nghiên cứu, chúng tôi không thể làm gì hơn là chỉ nêu danh những cộng đoàn chính yếu với năm tháng đầu tiên cập bến Việt Nam.
Những cộng đoàn chiêm niệm: Dòng Kín Sài Gòn (1861), Hà Nội (1865), Bùi Chu (1923) và Thanh Hóa (1929). Dòng Xitô (1923) và dòng Biển Đức (1936).
Những cộng đoàn truyền giáo: Dòng Phanxicô (1577), Dòng Đaminh (1738), Dòng Chúa Cứu Thế (1929).
Những cộng đoàn giáo dục: Sư huynh trường Công Giáo (1866), Dòng Thánh Tâm (1925), Hội Xuân Bích (1929).
Những cộng đoàn từ thiện: Dòng Chúa Quan Phòng (1876), Dòng Nữ Tử Bác Ái (1928), Dòng nữ Phanxicô (1932).
Những cộng đoàn giáo dục - bác ái; Dòng Mến Thánh Giá (1669), Dòng Saint Paul de Chartres (1866), Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm (1920) (108).
VII. Tòa Khâm Sứ Toà Thánh
Đứng đầu Giáo Hội Việt Nam (và Cao Miên, Lào) là Đức Khâm Sứ Tòa Thánh. Tòa Khâm Sứ được thiết lập ngày 20.05.1925 đầu tiên ở Huế, đến năm 1951 chuyển ra Hà Nội. Các đức khâm sứ Tòa Thánh là đức cha Constantino Ajuti, quốc tịch Ý (1928-1936), đức cha Antonin Drapier (1936-1950), đức cha Jonh Dooley (1950-1959 (109).
Cần lưu ý rằng, hai lần kể từ khi lập hai giáo phận đầu tiên (1659), Roma đã gửi qua Việt Nam hai Vị Kinh Lược Tòa Thánh (Visiteur Apostolique): lần thứ nhất vào năm 1739, là đức cha Achard de la Baume, giám mục Harlicarnasse, ngài từ trần tại Huế ngày lễ Phục Sinh, 02.04.1741 (110); và lần thứ hai, vào năm 1922 là đức cha Lecronat sj, giám mục Archialus và Đại Diện Tông Tòa ở Sienlisien (Trung Hoa) (110).
VIII. Công Đồng Đông Đương 1934.
Công việc đầu tiên đáng ghi nhớ của đức khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam là triệu tập một công đồng cho tất cả các giáo phận (đại diện tông tòa) ở Đông Dương năm 1934 tại Hà Nội. Công Đồng Đông Dương quy tụ tất cả các giám mục tại Việt Nam, Cao Miên và Lào. Công đồng đặt dưới quyền chủ tọa của đức tổng giám mục Columbano Dreyer, khâm sứ Tòa Thánh. Một cách chung, có thể nói: các nghị phụ của công đồng thảo luận cách rộng rãi những vấn đề mà chúng ta đã đọc được trong văn bản của công nghị Bắc Kỳ năm 1900, trừ những điểm liên quan đến tổ chức Công Giáo Tiến Hành theo thông điệp ‘Nulla dies sine circulo’ (Không ngày nào mà không hội họp) của đức giáo hoàng Piô XI ban hành ngày 4.3.1928 (111). Sau đây là những kết quả quan trọng của công đồng:
Thống nhất, ít ra là trong các đường hướng chung, các hoạt động truyền giáo trong toàn nước Việt Nam cho dù trên bình diện chính trị, Việt Nam bị chia thành ba miền (Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ) từ năm 1874 và mỗi miền đặt dưới một chế độ khác nhau, thuộc địa hay bảo hộ.
Chấm dứt giai đoạn tái thiết và từ nay bắt đầu giai đoạn phát triển hay củng cố với phong trào Công Giáo Tiến Hành mà chính Tòa Thánh nhiệt liệt khuyến khích.
Thúc đẩy các giáo phận củng cố và phát triển tất cả những công trình đã tái thiết hay mới thực hiện theo tinh thần chung của công đồng bằng cách soạn thảo những cuốn Chỉ Nam riêng cho mỗi giáo phận. Cụ thể, sau cuốn Chỉ Nam của giáo phận Sài Gòn và Cao Miên (1922), là cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế (1940), của giáo phận Hà Nội (1941) và của giáo phận Quy Nhơn (1942). Những cuốn Chỉ Nam này trung thành với những quyết định của Công đồng Đông Dương.
IX. Máu của các Vị Tử Đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu.
Đúng như lời ông Tertulien đã nói: “Sanguis Martyrum, semen christianorum” (Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu). Số người công giáo Việt Nam năm 1890 là 708.000 và năm 1953 lên tới 1.800.000 trên 36.000.000 dân cư Việt Nam. Các linh mục Việt Nam, từ con số 4 vào năm 1668 đã tăng lên 43 vào năm 1700, 119 vào năm 1800, 385 vào năm 1900 và 1.300 vào năm 1954. Ngoài ra còn có chừng 1.931 nhà thờ và 4.071 nhà nguyện, nghĩa là 6.000 họ đạo và mỗi họ đạo đều có một Hội Đồng Quý Chức hay Hội Đồng Chức Việc. Sự thật, người công giáo mới chỉ là 1/10 hay 10% dân số Việt Nam. Tuy nhiên, họ đã tạo thành một khối dân quan trọng, đồng nhất trong niềm tin, trong hành động và trong cơ cấu tổ chức. Các họ đạo là những đơn vị cơ bản của giáo phận mà năm 1659 mới chỉ có hai, và sau thời bách hại tức năm 1888 có 8, nhưng đến năm 1954 đã lên 15 giáo phận. Hơn thế, năm 1933 là năm tấn phong giám mục tiên khởi Việt Nam, đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (113). Và năm 1954 có 7 giáo phận đã giao về cho các giám mục Việt Nam. Họa đồ dưới đây cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lịch sử của Giáo Hội Việt Nam từ khởi thủy cho đến năm 1954.
X. Họa đồ phát triển lịch sử của Giáo Hội Việt Nam từ 1659 đến 1954.
LES VICARIATS APOSTOLIQUES DU VIETNAM EN 1953
------------------------------------------
Chú thích
(1) Những tài liệu về thời đầu truyền giáo tại Việt Nam ít được phổ biến. Chúng tôi rút ra từ một bài báo ký tên V.B. với tựa đề “Les premiers missionnaires européens en pays d’Annam et au Cambodge 1533-1633’, trg Annuaire Pontifical Catholique de 1928 tr. 599 và tt. – Xem LÊ THÀNH KHÔI, Le Viêtnam, Histoire et civilisation, I Paris 1955, tr. 288; A. VŨ VĂN ĐÌNH, De Fontibus Juris Particularis Ecclesiastici Missionis Vietnamensis, Roma 1964 tr. 34 chú thích (5).
(2) Theo Ordonnez de Cevallos trg ‘Historia de las Missiones Dominicas en Tungkin’, Avila de Gisbert, 1928, impenta Catolica, Pedro de la Gasca 6, ‘Thánh Tôma Tông Đồ có lẽ đã đích thân đến Bắc Việt và đã hối cải một ông hoàng trở lại… rồi đến thế kỷ XIII, Kitô giáo xâm nhập vào Việt Nam do đoàn quân của Khoubilai Khan… và thế kỷ XIV, dưới triều đại của The-an-Nan (1318-1342) (Chê–a-Nam), cha đáng kính Odorico de Pordenone, dòng Phanxicô, đã viếng thăm Champa: “Cha đã chứng kiến những điều diệu kỳ, như có những đàn cá chạy đến tôn chào đức vua, mười bốn con bạch tượng ăn mặc diễm lệ và một con hải quy kếch sù, to lớn hơn cái chuông của thánh Martin thành Padoue, nhưng không có tôn giáo…” – Xem thêm PHAN PHÁT HUỒN, ‘Việt Nam Giáo Sử’ I, tr. 25; NGUYỄN HỒNG, ‘Lịch Sử Truyền Giáo ở Việt Nam’ I, tr. 17. – GUENNOU J. ‘Vigne Nouvelle aux Missions d’Indochine’ trg SCP FMR I, tr.573.
(3) MGR DEPIERRE ‘Situation du Christianisme en Cochinchine à la fin du XIXe Siècle’, Saigon 1898, tr.6; P. GRANJEAN, ‘Le Statut des Missions en Indochine’, Hà Nội 1941, tr. 24; VŨ VĂN ĐÌNH sd. Tr.34, chú thích (6); GENNOU sd. I, tr. 573-574.
(4) P. GRANJEAN sd. tr.25; GENOU J. sd I, tr. 574
(5) VŨ VĂN ĐINH, sd, tr. 56, chú thích (10)
(6) Mgr DEPIERRE, sd. tr.9
(7) VŨ VĂN ĐÌNH, sd, tr.36 chú thích (11).
(8) VŨ VĂN ĐÌNH, sd. tr. 36, chú thích (12).
(9) Cần lưu ý rằng chúng ta gọi Nam Kỳ (Conchinchine) từ 1600 đến khi quân Pháp chiếm đóng thì không phải là Nam Kỳ mà thủ đô là Sài Gòn, còn Anam mà thủ đô là Huế, thì đúng hơn là Centre-Annam, xem CHAPOULIE R. ‘Aux Origines d’une Eglise’, I, tr. 8: ‘L’origine de la division Tonkin et Cochinchine’.
(10) Xem VŨ VĂN ĐÌNH sd, tr. 37 chú thích (16); CHARMOT CL. ‘Histoire de l’Evangélisation’ trg Sacerdos (1974), ss 155-157, tr. 55-57.
(11) VŨ VĂN ĐÌNH, sd. tr.38 chú thích (19); - GENOU sd, trg. SCPFMR I tr.575-577
(12) VŨ VĂN ĐÌNH sd tr. 38 chú thích (20) – MGR DEPIERRE sd. tr.10
(13) Xem ROMANET DU CAILLOT, ‘Essai sur les Origines du Christianisme au Tonkin et dans les autres Pays Anamites’ tr. 83-144, - PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.24-31; - NGUYỄN HỒNG, sd. I. tr. 29-31.
(14) Năm 1614, Daifusama, hoàng đế nước Nhật ra lệnh trục xuất tất cả các thừa sai và bắt bớ người công giáo. Một nhóm người Nhật công giáo đã chạy qua Hội An (Faifô) và Cửa Hàn (Touranne). Xem NGUYỄN HỒNG sd; I, tr.46
(15) Theo PHAN PHÁT HUỒN, sd I tr.35 chú thích (1), thì các linh mục dòng thánh Aucơtinh đã đến Hội An như là các tuyên úy của thủy quân Bồ Đào Nha vào khoảng năm 1595; - xem BARTOLI, ‘Istoria della Compagnia di Giesu’, IV, tr.184; - NGUYỄN HỒNG, sd. I, tr.63.
(16) RHODES A. ‘Divers Voyages et Missions’ tr. 74; - BARTOLI sd. tr.30.
(17) Xem NGUYỄN HỒNG, sd. I. tr.73-94; - BARTOLI sd. tr. 207-230
(18) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr.99-105
(19) Xem NGUYỄN HỒNG, sd. I. tr.105-106
(20) RHODES A. ‘Histoire du Royzume de Tonkin et des grands progrès que la prédications de l’Evangile y a faits en la conversion des infidèles’ tr.292.
(21) BONIFACY ‘Les débuts du Christianisme en Annam’ tr.11.
(22) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.82
(23) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.88
(24) BARTOLI sd. IV. tr. 182
(25) Xem RHODES R. Divers Voyages et Missions… tr.156-157
(26) LAUNAY A. ‘Histoire générale de la Société des Missions Etrangères de Paris’, I, tr.7
(27) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr.60
(28) NGUYEN HỒNG sd. I, tr.128
(29) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.138
(30) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.175
(31) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.199
(32) Nhiều tác giả nói rằng: Các linh mục Việt Nam đầu tiên là quý cha Jean Huế, Benoit Hiền. Trong cuốn ‘Việt Nam Giáo Sử’ cha Phan Phát Huồn đưa ra những tư liệu chính xác chứng tỏ ngược lại. Vì thế ở đây chúng ta chấp nhận ý kiến của cha Huồn. Xem PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.136-138
(33) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr. 206
(34) BARTOLI sd. IV, tr. 89
(35) Xem BORRI C. ₡Relatione della nuova missione delli PP della Comagnia de Giesu al Regno della Cocincina’ tr.181
(36) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.133-140
(37) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr.155.
(38) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr. 193-197; - PHAN PHÁT HUỒN sd.I. tr.93
(39) RHODES A. ‘Divers voyages et Missions …’ tr.194
(40) RHODES A. ‘Divers voyages et Missions …’ tr.197
(41) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.199-201
(42) NGUYỄN HỒNG sd. I, tr.180-183
(43) RHODES A. ‘Divers voyages et Missions…’ tr.211
(44) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.114
(45) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.145
(46) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.146
(47) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.154-156
(48) PHAN PHÁT HUỒN sd, I, tr.172-173
(49) PHAN PHÁT HUỒN sd, I, tr.160,180-185
(50) NGUYỄN VĂN QUẾ ‘Histoire des pays de l’Union Indochine’ tr.141; PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.228
(51) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.210
(52) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.342-343
(53) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.343
(54) PHAN PHÁT HUỒn sd. I, tr.354-379;
(55) TRỊNH VIỆT YÊN ‘Máu tử đạo trên đất Việt’ tr.67
(56) CHAPOULIE H. sd. I, tr. 110-113; - LOUVET L. ‘La Cochinchine Religieuse’, I, tr. 254, - VŨ VĂN ĐÌNH sd. tr. 40
(57) CHAPOULIE H. sd. I, tr.144-145 – LAUNAY A. ‘Histoire de la Mission du Tonkin’ I, tr. 24-26; ‘Histoire de la Mission de la Cochinchine’ I, tr.7-9.
(58) RHODES A. ‘Divers voyages et Missions…’ tr. 102 chú thích (1). – MADRAS ‘Catholic directory for 1883: Missions Annamites’ tr. 196-199.
(59) Đức cha FALLU Đại Diện Tông Tòa Bắc Kỳ, bấy giờ bận công việc Giáo Hội tại Âu Châu đã giao quyền giám quản Tông Tòa của ngài cho đức cha Lambert de la Motte. Xem PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr. 448.
(60) CHAPOULIE H. sd I. tr.235-236. - LAUNAY A. ‘Histoire générale de Société des MEP’ L tr. 140-141; - PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.106-107; 134-135.
(61) LAUNAY A. ‘Histoire de la Mission de Cochinchine’ I, tr.107-108; PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.106-107
(62) LOUVET H. sd. I. tr.362 –LAUNAY A. ‘Histoire de la Mission de Cochinchine’ II, tr.149-206.
(63) Xem PERZ L. ‘Los Espanoles en el imperio de Annam’ trg Archive Ibero - Americano XXVII (Madrid 1927) tr.176-195
(64) Trg Regiona de PP Domenicani’ (Roma 1757) tr.14
(65) LAUNAY A. ‘Memorial de la Société des Missions Etrangères de Paris’ 1916, tr.408
(66) Văn khố Bộ Truyền Giáo tr.162-175
(67) Trg ‘Annales de la Prop. De la Foi 29’ (Lyon 1857), tr.63
(68) RHODES A. ‘Relatio ad B.R.E. Cardinales’ (in Annamitica Ecclesia) trg LAUNAY A. Documents historiques relatifs à la Société des M.E.P., Paris 1904, I, tr. 507-508: «… Et certe miser Japonias Ecclesias status, cui nulla nuno humana industria subvenire potest, probe ostendit quam necessarios singulis Ecclesìs pastores qui de sufficientibus sacerdotibus mature providere illis possint, ne postest igniente persecutione, nullum possit adhibent remedium ut in Japonia patet… Ne igitur simile dannum Ecclesiae Anamiticae accedat, opere pretium est ut egregius aliquis est sanctus vir ad hoc divinum opus elegatur… Nullo autem modo id Regis Catholici jurisdictioni officit, tum quis non petuntur proprì eorum locorum episcopi, sed tantum ad alias Ecclesias in partibus pertinentes, qui in praesznti necessitate Christianis illis consultant ne sine sacramentis interis decedant…».
(69) Mgr DEPIERRE sd. tr.10
(70) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.113
(71) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.141-143.
(72) LOUVET H sd.II tr.336: - PHAN PHÁT HUỒN sd I. tr.351
(73) LOUVET H. sd, II. tr.359; - PHAN PHÁT HUỒN sd I tr.353
(74) LOUVET H. sd, II, tr.346; - PHAN PHÁT HUỒN sd I. tr.352
(75) CHAPOULIE sd, I; tr.325-326; - DESTOMBES ‘Le collège général de la Société des MEP’ tr.7 – LAUNAY A. ‘Histoire de Mission de Cochinchine’ I, tr.84-89.
(76) BONIFACY sd. tr. 91
(77) Trg ‘Missionnes Catholicae descriptae 1891’ (Ex typographia polyglotta S.C. de Prop. Fidei, Roma), tr.237
(78) PHAN PHÁT HUỒN sd.I. tr.112
(79) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.121, 167
(80) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.291, 307
(81) NGUYỄN HỒNG sd. I. tr.126-128, 160-163
(82) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.448-461
(83) Năm 1818, nước Pháp đòi vua Gia Long nhượng cửa Touranne và đảo Côn Sơn cho nước Pháp; năm 1856 vua nước Pháp gửi một lá thư cho vua Tự Đức khiển trách là đã giết các thừa sai Pháp. Xem PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.308.
(84) LOUVET H. sd. II, tr.228
(85) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.315
(86) PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.362.
(87) TRẦN TRỌNG KIM ‘Việt Nam sử lược’ tr.525; - LÊ THÀNH KHÔI ‘Le Vietnam’ tr. 376-377. PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.367.
(88) TEYSSEYRE, ‘Un Missionnaire albigeois en Cochinchine’ phần phụ lục, tr. 339-357: Chúng tôi xin đặt công nghị Nam Kỳ (Cochinchine) 1880 vào thời kỳ tái thiết, bởi vì, mặc dầu có sự phân chia lịch sử, các giáo phận của Miền Nam thực tế đã được bình định từ hòa ước1874 ký kết giữa Việt Nam và Pháp.
(89) Xem ‘Acta et Decreta Primae Regionalis Synodi Tunquinensis 1900’, Kẻ Sở, Ex typis Missionis Tunquini Occ. 1905.
(90) Phần lớn các thư chung được tập trung lại, được in ra và phổ biến trong các cuốn: 1) ‘Les lettres pastorales de Mgr Miche et Mgr Colombert, vicaires apostoliques de la Cochinchine Occidentale’, Sàigòn, 1908; 2) ‘Những thư chung của đức cha Chiểu và đức cha Phước đã làm từ 1868-1890’, Kẻ Sở 1890; 3) ‘Thư chung của Bề Trên địa phận Tây Đàng Ngoài từ 1895-1906’, 3 cuốn, Kẻ Sở 1905; 4) ‘Sách thuật lại các thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài’, Kẻ Sở 1908; 5) ‘Mười bảy thư chung của ba giám mục địa phận Sàigòn’, 3 cuốn, nhà in Tân Định, 1918; 6) ‘Thư chung địa phận Thanh’, 2 cuốn, Hồng Kông, 1920.
(91) Mgr Colombert: Mùa Chay 1880, 1881, 1883, 1884, 1886, 1901; Mgr Gendreau: Phục Sinh 1889, Mùa Vọng 1890, Mùa Giáng Sinh 1905; Mgr Marcou: Mùa Giáng Sinh 1903, Mùa Chay 1908, 1911.
(92) Mgr Miche, ngày 15.08. 1869; Mgr Colombert: thư chung vào Tháng Đức Bà 1876, Mùa Vọng 1877, Lễ Ba Vua 1882; Mgr F.M. Gendreau: Mùa Giáng Sinh 1899, 1908
(93) Mgr Miche: các thư ra ngày 15.08.1869, Mgr Colombert, thư ra ngày 01.01.1881, Mùa Chay 1882, 1900; Mgr Theurel, thư ra ngày 27.08.1868; Mgr Pigunier thư ra 27.02.1869; Mgr P.M. Gendreau thư ra ngày 21.11.1850, ngày 08.02.1899, Mùa Chay 1911; Mgr Marcou thư ra ngày 02.03.1888, ra ngày 08.09.1908, Mùa Chay 1911, 1916, 1917.
(94) Mgr P.M. Gendreau: Các thư ra ngày 01.01.1847, 07.09.1894, 08.09.1903, 09.11.1903; Mgr Marcou các thư ra Giáng Sinh 1902, 08.09.1908, Mùa Chay 1914.
(95) Thư viết cho M. Alary, trg LAUNAY A. ‘Histoire de la Mission de Cochinchine’ III., tr.221.
(96) Mgr DEPIERRE sd. tr.34.
(97) Trưng dẫn trong PHAN PHÁT HUỒN sd. I. tr.345
(98) Khoản 17, ch.II, trg TEYSEYRE, sd. tr.345
(99) Trg ‘Missiones Catholicae descriptae 1907’, tr.258
(100) Mgr DEPIERRE sd. Tr.36
(101) Trg ‘Missiones catholicae descriptae 1907’ tr.234
(102) Các khoản 18-37, ch. III, trg TTEYSEYRE sd. tr.345-349
(103) Tiết I, ch.V, tr.51-54
(104) Khoản 50 ch.III, trg TEYSEYRE sd. tr.352
(105) Tiết IV ch. VIII, tr.121-124
(106) Tiết IV ch.IX tr.138-140
(107) Trg ‘Missiones catholicae descriptae 1927’ (Roma 1930) tr.116
(108) PHAN PHÁT HUỒN sd. II, tr.241-365
(109) Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh chuyển vào Sàigòn năm 1557 và đóng cửa năm 1976.
(110) PHAN PHÁT HUỒN sd. I, tr.113; GUENOU J. ‘Les Missions d’Indochine au 18e siècle’, trg SCPFMR cuốn II, tr.979-980
(110’) VŨ VĂN ĐÌNH sd. Tr.51
(111) Xem PCI, tr.115 chú thích (1)
(112) Những con số lấy lại hoặc từ ‘L’Annuaire Pontifical 1953’, hoặc từ ‘La Mission en Indochine 1939’ hoặc từ ‘Việt Nam Công Giáo Niên Giám 1964 (Sàigòn), hoặc nữa từ báo MISSI số đặc biệt về Việt Nam (01968) s.319 tr.114-115.
(113) Đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng sinh ngày 07.08.1860, tại Gò Công, địa phận Sàigòn. Ngài theo học trường các Sư Huynh Lasan tại Mỹ Tho và Sàigòn, rồi vào chủng viện Sàigòn, và chịu chức linh mục ngày 19.09.1898. Trong nhiều năm, ngài làm thư ký của tòa giám mục, nhưng vì lý do sức khoẻ, ngài phải xin đi coi xứ ở Bà Rịa. Mười năm sau, ngài được bổ nhiệm làm cha sở họ Tân Định. Sau bảy năm, ngày 10.01.1933, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó cho đức cha Marcou, giáo phận Phát Diệm. Ngài được chính đức giáo hoàng Piô XI tấn phong tại đền thờ Thánh Phêrô ngày 11.06.1933. Ngày 20.10.1935, đức cha Marcou từ chức và đức cha Nguyễn Bá Tòng chính thức coi sóc địa phận Phát Diệm. Ngài từ trần năm 1950. Xem PHAN PHÁT HUỒN sd. II, tr.249-251.
Tin Đáng Chú Ý
Hoa Kỳ chỉ trích Việt Nam ngăn chận tự do internet
RFA
09:18 17/02/2011
Việt Nam nằm trong danh sách các nước có chế độ cầm quyền độc đoán ngăn cấm các nhà dân chủ và bất đồng chính kiến trên mạng sử dụng internet.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố như vậy tại Washington hôm thứ Ba 15-2, để bày tỏ những cố gắng và nỗ lực từ phía hành pháp Hoa Kỳ để ủng hộ các nhà dân chủ và bất đồng chính kiến trên mạng internet.
Trong bài diễn văn nói về tự do internet đọc tại Đại học George Washington, Ngoại trưởng Mỹ nhấn mạnh rằng, Hoa Kỳ cam kết tiếp tục hỗ trợ cho người dân ở các nước cách thoát khỏi sự kiểm soát trên internet, khỏi các vụ tấn công internet mà các chính phủ một số nước áp dụng đối với công dân của mình.
Bà nhìn nhận thực tế internet đang bị ngăn chặn và kiểm duyệt tại khắp nơi trên thế giới, từ châu Á sang châu Mỹ:
“Internet vẫn bị hạn chế bằng nhiều cách. Ở Trung Quốc, chính phủ kiểm duyệt nội dung và chuyển hướng các lệnh tìm kiếm sang các trang khác. Tại Miến Điện, các trang web đối lập bị tấn công bởi lệnh từ chối dịch vụ, còn tại Cuba, chính phủ cố gắng thiết lập một mạng trong nước thay vì cho phép người dân được truy cập internet toàn cầu. Còn tại Việt Nam, những blogger nào chỉ trích chính phủ bị bắt bớ.”
Và thực trạng này theo bà sẽ càng trở nên khó khăn hơn trong các năm sắp tới khi có hàng tỷ người tham gia vào mạng internet và các quyền cơ bản của họ không được chính phủ các nước tôn trọng.
Xem tin tuc trên internet. Ảnh minh họa. AFP
Và do đó sự lựa chọn mà Hoa Kỳ có lúc này là đứng về phía người dân các nước, đảm bảo cho họ một mạng internet toàn cầu mở để đảm bảo các quyền tự do ngôn luận và quyền hội họp bất chấp những thách thức đi kèm với một mạng internet mở. Bà Hillary nói:
“Đối với Hoa kỳ, sự lựa chọn là rõ ràng, chúng ta đứng về phía của sự cởi mở, chúng ta hiểu một mạng internet cởi mở sẽ mang đến những thách thức và cần những luật lệ để bảo vệ chúng ta khỏi những tác động xấu, và tự do internet cũng có những căng thẳng như bất cứ quyền tự do nào khác, nhưng cái lợi lớn hơn cái giá phải trả.”
Ngoại trưởng Hillary Clinton cho biết Hoa Kỳ sẽ gia tăng thêm ngân sách để đầu tư vào các công nghệ, và khóa đào tạo giúp phá vỡ các rào cản mà chính phủ các nước độc tài đã dựng lên trên internet.
Bà Clinton cho biết Hoa Kỳ sẽ chi 25 triệu đô la năm nay để bảo vệ các bloggers đang bị ngăn cấm hoạt động tại Trung Quốc, Iran, Cuba, Syria, Vietnam, Miến Điện và Ai Cập.
Bà nói, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã thành lập Twitter bằng tiếng Ả Rập và Farsi để liên kết với người dân tại tất cả các quốc gia Ả Rập và Iran, cung cấp cho họ phương tiện thông tin về dân chủ và quyền làm người.
Bà thách thức các nhà lãnh đạo cùng các chế độ độc tài hãy cho phép dân chúng nước họ được tự do sử dụng mạng Internet hoặc sẽ phải gánh chịu hậu quả như đã từng xảy ra đối với hai nguyên thủ quốc gia cầm quyền lâu năm như tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak và tổng thống Tunisia Zine El Abidine Ben Ali.
Vẫn theo bà Clinton thì, lịch sử đã chứng minh mọi sự áp bức sẽ dẫn tới cuộc cách mạng, vì độc tài, quân phiệt chỉ thống trị người dân trong một giai đoạn nào đó, chứ không thể khóa miệng, xiềng xích họ mãi mãi.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ cũng khẳng định là Hoa Kỳ mạnh mẽ ủng hộ quyền tự do internet trên toàn cầu, và cảnh cáo các quốc gia ngăn chặn Internet rằng họ không thể kềm hãm mãi mãi những bất mãn của công chúng, và sẽ có nguy cơ mất đi những lợi ích có được từ việc mở rộng kết nối internet.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố như vậy tại Washington hôm thứ Ba 15-2, để bày tỏ những cố gắng và nỗ lực từ phía hành pháp Hoa Kỳ để ủng hộ các nhà dân chủ và bất đồng chính kiến trên mạng internet.
Trong bài diễn văn nói về tự do internet đọc tại Đại học George Washington, Ngoại trưởng Mỹ nhấn mạnh rằng, Hoa Kỳ cam kết tiếp tục hỗ trợ cho người dân ở các nước cách thoát khỏi sự kiểm soát trên internet, khỏi các vụ tấn công internet mà các chính phủ một số nước áp dụng đối với công dân của mình.
Bà nhìn nhận thực tế internet đang bị ngăn chặn và kiểm duyệt tại khắp nơi trên thế giới, từ châu Á sang châu Mỹ:
“Internet vẫn bị hạn chế bằng nhiều cách. Ở Trung Quốc, chính phủ kiểm duyệt nội dung và chuyển hướng các lệnh tìm kiếm sang các trang khác. Tại Miến Điện, các trang web đối lập bị tấn công bởi lệnh từ chối dịch vụ, còn tại Cuba, chính phủ cố gắng thiết lập một mạng trong nước thay vì cho phép người dân được truy cập internet toàn cầu. Còn tại Việt Nam, những blogger nào chỉ trích chính phủ bị bắt bớ.”
Và thực trạng này theo bà sẽ càng trở nên khó khăn hơn trong các năm sắp tới khi có hàng tỷ người tham gia vào mạng internet và các quyền cơ bản của họ không được chính phủ các nước tôn trọng.
Xem tin tuc trên internet. Ảnh minh họa. AFP
Và do đó sự lựa chọn mà Hoa Kỳ có lúc này là đứng về phía người dân các nước, đảm bảo cho họ một mạng internet toàn cầu mở để đảm bảo các quyền tự do ngôn luận và quyền hội họp bất chấp những thách thức đi kèm với một mạng internet mở. Bà Hillary nói:
“Đối với Hoa kỳ, sự lựa chọn là rõ ràng, chúng ta đứng về phía của sự cởi mở, chúng ta hiểu một mạng internet cởi mở sẽ mang đến những thách thức và cần những luật lệ để bảo vệ chúng ta khỏi những tác động xấu, và tự do internet cũng có những căng thẳng như bất cứ quyền tự do nào khác, nhưng cái lợi lớn hơn cái giá phải trả.”
Ngoại trưởng Hillary Clinton cho biết Hoa Kỳ sẽ gia tăng thêm ngân sách để đầu tư vào các công nghệ, và khóa đào tạo giúp phá vỡ các rào cản mà chính phủ các nước độc tài đã dựng lên trên internet.
Bà Clinton cho biết Hoa Kỳ sẽ chi 25 triệu đô la năm nay để bảo vệ các bloggers đang bị ngăn cấm hoạt động tại Trung Quốc, Iran, Cuba, Syria, Vietnam, Miến Điện và Ai Cập.
Bà nói, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã thành lập Twitter bằng tiếng Ả Rập và Farsi để liên kết với người dân tại tất cả các quốc gia Ả Rập và Iran, cung cấp cho họ phương tiện thông tin về dân chủ và quyền làm người.
Bà thách thức các nhà lãnh đạo cùng các chế độ độc tài hãy cho phép dân chúng nước họ được tự do sử dụng mạng Internet hoặc sẽ phải gánh chịu hậu quả như đã từng xảy ra đối với hai nguyên thủ quốc gia cầm quyền lâu năm như tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak và tổng thống Tunisia Zine El Abidine Ben Ali.
Vẫn theo bà Clinton thì, lịch sử đã chứng minh mọi sự áp bức sẽ dẫn tới cuộc cách mạng, vì độc tài, quân phiệt chỉ thống trị người dân trong một giai đoạn nào đó, chứ không thể khóa miệng, xiềng xích họ mãi mãi.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ cũng khẳng định là Hoa Kỳ mạnh mẽ ủng hộ quyền tự do internet trên toàn cầu, và cảnh cáo các quốc gia ngăn chặn Internet rằng họ không thể kềm hãm mãi mãi những bất mãn của công chúng, và sẽ có nguy cơ mất đi những lợi ích có được từ việc mở rộng kết nối internet.
Văn Hóa
Giấ ngủ trong tay Người
Jos. Tú Nạc, NMS
10:34 17/02/2011
Lời kinh đêm đưa ta vào giấc ngủ.
Giấc ngủ ngọc ngà không mộng xa xôi.
Lời kinh ru trong bàn tay nâng đỡ,
Xếp lại đôi bờ tiếng hát trong nôi.
Có những đêm ta chập chờn thao thức,
Nhìn bóng đêm ta cất tiếng hỏi Người,
Phải chăng vì lời kinh chưa trọn vẹn?
Giấc cô miên không ấp ủ tay Người!
Rồi những đêm thao thức bên nến trắng
Đắm đuối nhìn theo lệ nến long lanh.
Ta thổn thức lới kinh trong lệ nến,
Xin đêm này giấc ngủ hết mong manh.
Ta biết rồi lời kinh chưa trọn vẹn,
Và vụng về lời khấn nguyện trên môi.
Nên giấc ngủ trong tay Người hờ hững,
Ta thành tâm gửi gắm chuỗi Mân Côi.
Và đêm nay nghe lời kinh tha thiết,
Bao ân tình mở rộng với tay Người.
Ta ngất ngây xuôi dần vào giấc ngủ,
Giấc ngủ tay Người khép lại trong nôi.
Giấc ngủ ngọc ngà không mộng xa xôi.
Lời kinh ru trong bàn tay nâng đỡ,
Xếp lại đôi bờ tiếng hát trong nôi.
Có những đêm ta chập chờn thao thức,
Nhìn bóng đêm ta cất tiếng hỏi Người,
Phải chăng vì lời kinh chưa trọn vẹn?
Giấc cô miên không ấp ủ tay Người!
Rồi những đêm thao thức bên nến trắng
Đắm đuối nhìn theo lệ nến long lanh.
Ta thổn thức lới kinh trong lệ nến,
Xin đêm này giấc ngủ hết mong manh.
Ta biết rồi lời kinh chưa trọn vẹn,
Và vụng về lời khấn nguyện trên môi.
Nên giấc ngủ trong tay Người hờ hững,
Ta thành tâm gửi gắm chuỗi Mân Côi.
Và đêm nay nghe lời kinh tha thiết,
Bao ân tình mở rộng với tay Người.
Ta ngất ngây xuôi dần vào giấc ngủ,
Giấc ngủ tay Người khép lại trong nôi.
Trái tim của Mẹ
Trầm Thiên Thu
23:52 17/02/2011
Khi bạn nhìn vào cuộc đời mình, bạn sẽ thấy hạnh phúc lớn nhất là hạnh phúc gia đình (Dr. Joyce Brothers).
Có ít nhất nửa mét tuyết vào buổi sáng mùa xuân. Anh chị em tôi cùng ngồi trên băng ghế, xem phim hoạt hình. Mẹ thúc giục chúng tôi đứng dậy và lấy áo ấm mặc vào. Chúng tôi cằn nhằn một chút, không biết có như máy kéo của Ba bị hư không và chúng tôi không thể cày xới tiếp, nghĩa là chúng tôi phải lấy xẻng cào tuyết cả hai con đường. Mẹ quả quyết với chúng tôi là máy kéo của Ba không bị hư. Những gì chúng tôi phải làm là đi theo Mẹ.
Ra tới cánh đồng, Mẹ nói chúng tôi đi hàng một phía sau Mẹ. Tôi không biết có gì khác thường hay không. Nhưng chúng tôi nhận ra khi nhìn lại những dấu vết chúng tôi để lại trên tuyết, đó là chúng tôi đang tạo nên một hình trái tim giữa cánh đồng. Trước đây tôi đã thấy nhiều hình trái tim. Tôi đã thấy những trái tim lấp lánh đỏ hoặc hồng, những trái tim vẽ bằng bút chì màu, những trái tim phác họa,… Tôi đã được bao quanh bằng những trái tim vào một buổi chiều ở trường học. Nhưng việc tạo được một trái tim lớn trên cánh đồng tuyết đã khiến tôi ngạc nhiên vì chưa từng thấy bao giờ.
Chúng tôi về nhà thu gom những chai đổ đầy nước pha màu đỏ. Chúng tôi đổ nước đỏ vào những dấu hình trái tim của chúng tôi, và tuyết biến thành đỏ. Dù mũi chúng tôi tê cóng, chân tay lạnh buốt, chúng tôi vẫn về nhà lấy nước màu đỏ đem ra đổ vào hình trái tim trên tuyết. Khi hình trái tim đỏ hết, hợp với những cánh hoa uất kim hương (tulips) trong vườn hoa mùa xuân của Mẹ, chúng tôi chất lên xe và Ba lái chúng tôi xuôi xuống đường phía dưới.
Dù chỉ mất vài phút là đến đó, nhưng hình như con đường vẫn dài hơn, không biết chúng tôi có thể nhận ra trái tim đó từ xa hay không, không biết chúng tôi làm vậy có gây ấn tượng với những người nhìn thấy hay không. Chúng tôi rướn người tới, muốn ngắm nhìn hình trái tim hồng trên tuyết. Thật vậy, trái tim chúng tôi ở đó, không đối xứng chính xác nhưng dù sao cũng vẫn có một trái tim. Chúng tôi vui mừng ngắm nhìn “công trình” mà chúng tôi đã cùng nhau tạo ra trước khi về nhà.
Ít là đã 12 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ ngày hôm đó. Trái tim mà chúng tôi đã tạo ra trên cánh đồng tuyết hôm đó không khác trái tim của Mẹ: rộng lớn, duy nhất và đại lượng. Cảm ơn Mẹ!
(Chuyển ngữ từ Chicken Soup for the Soul: Thanks Mom)
Có ít nhất nửa mét tuyết vào buổi sáng mùa xuân. Anh chị em tôi cùng ngồi trên băng ghế, xem phim hoạt hình. Mẹ thúc giục chúng tôi đứng dậy và lấy áo ấm mặc vào. Chúng tôi cằn nhằn một chút, không biết có như máy kéo của Ba bị hư không và chúng tôi không thể cày xới tiếp, nghĩa là chúng tôi phải lấy xẻng cào tuyết cả hai con đường. Mẹ quả quyết với chúng tôi là máy kéo của Ba không bị hư. Những gì chúng tôi phải làm là đi theo Mẹ.
Ra tới cánh đồng, Mẹ nói chúng tôi đi hàng một phía sau Mẹ. Tôi không biết có gì khác thường hay không. Nhưng chúng tôi nhận ra khi nhìn lại những dấu vết chúng tôi để lại trên tuyết, đó là chúng tôi đang tạo nên một hình trái tim giữa cánh đồng. Trước đây tôi đã thấy nhiều hình trái tim. Tôi đã thấy những trái tim lấp lánh đỏ hoặc hồng, những trái tim vẽ bằng bút chì màu, những trái tim phác họa,… Tôi đã được bao quanh bằng những trái tim vào một buổi chiều ở trường học. Nhưng việc tạo được một trái tim lớn trên cánh đồng tuyết đã khiến tôi ngạc nhiên vì chưa từng thấy bao giờ.
Chúng tôi về nhà thu gom những chai đổ đầy nước pha màu đỏ. Chúng tôi đổ nước đỏ vào những dấu hình trái tim của chúng tôi, và tuyết biến thành đỏ. Dù mũi chúng tôi tê cóng, chân tay lạnh buốt, chúng tôi vẫn về nhà lấy nước màu đỏ đem ra đổ vào hình trái tim trên tuyết. Khi hình trái tim đỏ hết, hợp với những cánh hoa uất kim hương (tulips) trong vườn hoa mùa xuân của Mẹ, chúng tôi chất lên xe và Ba lái chúng tôi xuôi xuống đường phía dưới.
Dù chỉ mất vài phút là đến đó, nhưng hình như con đường vẫn dài hơn, không biết chúng tôi có thể nhận ra trái tim đó từ xa hay không, không biết chúng tôi làm vậy có gây ấn tượng với những người nhìn thấy hay không. Chúng tôi rướn người tới, muốn ngắm nhìn hình trái tim hồng trên tuyết. Thật vậy, trái tim chúng tôi ở đó, không đối xứng chính xác nhưng dù sao cũng vẫn có một trái tim. Chúng tôi vui mừng ngắm nhìn “công trình” mà chúng tôi đã cùng nhau tạo ra trước khi về nhà.
Ít là đã 12 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ ngày hôm đó. Trái tim mà chúng tôi đã tạo ra trên cánh đồng tuyết hôm đó không khác trái tim của Mẹ: rộng lớn, duy nhất và đại lượng. Cảm ơn Mẹ!
(Chuyển ngữ từ Chicken Soup for the Soul: Thanks Mom)
Thân con nhỏ bé Chúa thương
Tuyết Mai
23:56 17/02/2011
Xin dâng Chúa, con nhỏ bé!
Yếu đuối chỉ biết khóc nhè mà thôi!
Đời con là mầu đen tối
Quanh quẩn kiếm tìm, mù lối, lạc đường
Xin cho con biết phương hướng
Để thấy cuộc đời có hướng để đi
Chứ đời con rất lắm khi
Đi hoài đi mãi biết đi phương nào?
Lậy Chúa ngự trên tòa cao!
Thương dùm con nhỏ đang khao khát Người
Dậy con giữ Giới Răn Người
Dậy con Lời Chúa để đời đổi thay
Chúa dậy con sống lành ngay
Chúa dậy đối xử thật ngay cùng người
Chúa dậy hữu ích cho đời
Đôi tay nhỏ bé giúp người sống vui
Ôi con tha thiết tươi vui!
Đem tình yêu Chúa tạo vui cho người
Để người bệnh có nụ cười
Để người thôi bớt thấy đời khổ đau
Chúa ơi, nhân trần thương đau!
Chúng con xa Chúa bể dâu khốn cùng
Chúng con tội lỗi …vì chưng
Thờ tiền danh vọng Chúa chung chẳng thờ!
Vì yêu xin Chúa hẵng chờ!
Chờ thời gian ngắn con thời đổi thay!
Trở về Đường thẳng nẻo ngay
Bao nhiêu lỗi tội hôm nay xin chừa
Chừ chúng quỷ phải chào thua
Vì con chối bỏ chúng vua cô hồn
Giúp con hồn xác được luôn
An bình bên Chúa, Chúa thương, con nhờ
Chúa ơi, hãy thương con nhỏ!
Lúc buồn, chán nản, đừng bỏ mặc con
Xin Chúa hãy ôm chặt con
Vì con bé nhỏ sợ còn ham chơi
Trên đời có lắm trò chơi
Trò chơi ma dẫn trò chơi quỷ bầy
Ảo ảnh làm con đắm say
Chết trong sa đọa mới hay bị lừa
Chúa ơi, cứu con đi Chúa!
Đào tường đào vách để vừa con chui
Kẻo linh hồn con cháy thui
Cả đời tôi mọi ma vui quỷ mừng
Giờ con ân hận đến cùng
Trở về với Chúa sống cùng đàn chiên
Đồng xanh suối mát thiên nhiên
Chúa đâu con đó thần tiên cuộc đời
Yếu đuối chỉ biết khóc nhè mà thôi!
Đời con là mầu đen tối
Quanh quẩn kiếm tìm, mù lối, lạc đường
Xin cho con biết phương hướng
Để thấy cuộc đời có hướng để đi
Chứ đời con rất lắm khi
Đi hoài đi mãi biết đi phương nào?
Lậy Chúa ngự trên tòa cao!
Thương dùm con nhỏ đang khao khát Người
Dậy con giữ Giới Răn Người
Dậy con Lời Chúa để đời đổi thay
Chúa dậy con sống lành ngay
Chúa dậy đối xử thật ngay cùng người
Chúa dậy hữu ích cho đời
Đôi tay nhỏ bé giúp người sống vui
Ôi con tha thiết tươi vui!
Đem tình yêu Chúa tạo vui cho người
Để người bệnh có nụ cười
Để người thôi bớt thấy đời khổ đau
Chúa ơi, nhân trần thương đau!
Chúng con xa Chúa bể dâu khốn cùng
Chúng con tội lỗi …vì chưng
Thờ tiền danh vọng Chúa chung chẳng thờ!
Vì yêu xin Chúa hẵng chờ!
Chờ thời gian ngắn con thời đổi thay!
Trở về Đường thẳng nẻo ngay
Bao nhiêu lỗi tội hôm nay xin chừa
Chừ chúng quỷ phải chào thua
Vì con chối bỏ chúng vua cô hồn
Giúp con hồn xác được luôn
An bình bên Chúa, Chúa thương, con nhờ
Chúa ơi, hãy thương con nhỏ!
Lúc buồn, chán nản, đừng bỏ mặc con
Xin Chúa hãy ôm chặt con
Vì con bé nhỏ sợ còn ham chơi
Trên đời có lắm trò chơi
Trò chơi ma dẫn trò chơi quỷ bầy
Ảo ảnh làm con đắm say
Chết trong sa đọa mới hay bị lừa
Chúa ơi, cứu con đi Chúa!
Đào tường đào vách để vừa con chui
Kẻo linh hồn con cháy thui
Cả đời tôi mọi ma vui quỷ mừng
Giờ con ân hận đến cùng
Trở về với Chúa sống cùng đàn chiên
Đồng xanh suối mát thiên nhiên
Chúa đâu con đó thần tiên cuộc đời
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thập giá Ngày Đông
Joseph Nguyễn Tro Bụi
22:16 17/02/2011
THẬP GIÁ NGÀY ĐÔNG
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
"Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như thế,
rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?"
(Lc 24, 26).
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
"Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như thế,
rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?"
(Lc 24, 26).
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền