Ngày 07-02-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy chèo thuyền ra khơi mà thả lưới bắt cá
Lm Đan Vinh
05:23 07/02/2019
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN C
Is 6,1-2a.3-8 ; 1 Cr 15,1-11 ; Lc 5,1-11

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 5,1-11

(1) Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên Người để nghe Lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghen-nê-xa-rét. (2) Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lướt. (3) Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-mon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. (4) Giảng xong, Người bảo ông Si-mon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. (5) Ông Si-mon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. (6) Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. (7) Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá đến gần chìm. (8) Thấy vậy, ông Si-mon Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (9) Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-mon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. (10) Cả hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-mon cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ, Đức Giê-su bảo ông Si-mon: “Đừng sợ. Từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta”. (11) Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

2. Ý CHÍNH: MAU MẮN ĐÁP LẠI ƠN CHÚA KÊU GỌI LÀM TÔNG ĐỒ

Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã ngồi trên thuyền của Si-mon mà rao gảng Tin mừng cho dân chúng, và sau đó đã cho Si-mon đánh bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước phép lạ này, Si-mon đã tuyên xưng đức tin: Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và đã “Từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-2: + Bờ hồ Ghen-nê-xa-rét: Đây là chiếc hồ lớn hình quả trám nằm tại miền Ga-li-lê, được thánh sử Lu-ca gọi là hồ Ghen-nê-xa-rét (x Lc 5,1), Mát-thêu gọi là biển hồ Ga-li-lê (x. Mt 4,13) Mác-cô gọi trống là Biển Hồ (x. Mc 4,1), còn Gio-an gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,1).
- C 3-4: + Người bảo ông Si-mon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”: Ra chỗ nước sâu hay “ra khơi”, là chỗ “nước trên vực thẳm”. Đức Giê-su ra lệnh cho con thuyền Hội thánh tiến vào nơi vực thẳm của thế gian với nhiều nguy hiểm đang chờ đón (x. Lc 10,3).
- C 5-7: + Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả: Câu nói của Phê-rô cho thấy sự yếu đuối bất lực của các ông. Nhưng chính sự bất lực này lại làm nổi bật quyền năng mạnh mẽ vô song của Thiên Chúa (x Ga 15,5).
- C 8-9: + Si-mon Phê-rô: Ở đây Lu-ca dùng biệt danh Phê-rô (nghĩa là Đá) mà sau đó Đức Giê-su sẽ chính thức đặt cho ông khi chọn ông vào danh sách 12 Tông đồ (x. Lc 6,14; Mt 16,18). + Sấp mình dưới chân Đức Giê-su: Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Si-mon cảm thấy mình tội lỗi bất xứng và đã run sợ sấp mặt xuống đất vì không dám diện kiến thánh nhan của Chúa như Mô-sê (x. Xh 2,6) hay như I-sai-a xưa (x. Is 6,4). + “Lạy Chúa”: “Ku-ri-os” trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là “Chúa”, một danh hiệu dành riêng để gọi Đức Giê-su sau khi phục sinh (x. Lc 24,34-35 ; Pl 2,6-11).
- C 10-11: + “Đừng sợ”: Đây chính là một lời an ủi thường được các thiên sứ nói với những kẻ đang sững sờ khi gặp điều linh thánh (x. Lc 1,13.30; 2,10); là lời Đức Giê-su nói với các Tông đồ đang sợ hãi giữa biển khơi (x. Mt 14,27), và khi Người hiện ra vào buổi chiều ngày phục sinh (x. Mt 28,10). + Bỏ hết mọi sự mà theo Người: Các Tông đồ đã đáp trả ơn Chúa kêu gọi bằng việc quảng đại từ bỏ mọi sự mà đi theo Người và sẵn sàng cộng tác với Người chu toàn sứ vụ truyền giáo (x. Lc 5,11).

4. CÂU HỎI:

1) Hồ Ga-li-lê còn được các sách Tin mừng gọi bằng những tên gì khác nữa?
2) Ra khơi có liên quan thế nào đến công việc truyền giáo được Chúa trao cho Hội thánh?
3) “Đức Giê-su” được gọi là “Chúa” từ khi nào? 4) Câu “Đừng sợ” có nghĩa là gì?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5).

2. CÂU CHUYỆN:

1) ƠN GỌI CỦA NGÔN SỨ I-SAI-A:

Khi chứng kiến vinh quang của Đức Chúa nơi Đền thờ, Ngôn sứ I-sai-a đã thốt lên: “Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn!” (Is 6,5). Nhưng sau khi được một thiên thần lấy than hồng từ bàn thờ đến thanh tẩy môi miệng, ông đã tình nguyện xin lãnh nhận nhiệm vụ: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8).

2) ƠN GỌI RA KHƠI CỦA TÔNG ĐỒ SI-MON PHÊ-RÔ:

Bài Tin mừng hôm nay cho biết ông Si-mon đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì. Ông đã khiêm tốn nói lên sự bất lực của mình với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Quả thật nhờ vâng Lời Chúa mà Si-mon đã đánh bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước kết quả lớn lao này, ông đã tin Đức Giê-su chính là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, ông sấp mình dưới chân Người và thưa rằng: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con ra, vì con là kẻ tội lỗi!”. Kẻ tự nhận mình là tội lỗi bất xứng ấy sau này đã trở thành “đá tảng” của đức tin, mà trên đá đức tin đó, Hội thánh đã được xây dựng và sẽ tồn tại bền vững đến muôn đời (x. Mt 16,16-18). Từ đây, Phê-rô trở thành thủ lãnh của Nhóm 12, được Chúa Giê-su trao chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 16,19) và còn được trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Người là Hội thánh (x. Ga 21,15-17).

3) ƠN GỌI CỦA CHA GIO-AN VI-AN-NÂY:

Khi bị giáo sư thần học quở trách là dốt như con lừa! Thầy Vi-an-nây đã khiêm tốn thừa nhận sự dốt nát của mình, và chỉ biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Cuối cùng Vi-an-nây bất tài vô lực kia đã trở thành một vị thánh lớn trong Hội thánh, được đặt làm bổn mạng của các linh mục chăm sóc các linh hồn và nên gương mẫu cho các mục tử noi theo. Chính nhờ ơn Chúa giúp, mà cha Vi-an-nây đã làm được việc hoán cải các tâm hồn, đưa được nhiều tội nhân trở về với Chúa.

4) NHỮNG CUỘC RA KHƠI CỦA ĐỨC THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ II:

Noi gương Chúa Giê-su, đức thánh giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu lại vừa nguy hiểm. Qua 26 năm của triều đại giáo hoàng, ngài đã thực hiện 146 chuyến công du bên trong nước Ý (không tính Rô-ma), 104 chuyến công du ra ngoài nước Ý để thăm viếng hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt ngài là vị giáo hoàng đầu tiên bước vào một ngôi Đền thờ Hồi giáo cổ kính tại Sy-ri-a vào năm 2001.
Tính ra, Thánh Gio-an Phao-lô II đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài còn làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.

Ngài đã 'chèo' đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm cả những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những 'miền đất thánh' của Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo... vào cả những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài phải xin lỗi họ (như trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến cả những nơi mà tính mạng bị đe doạ... Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử, sẵn sàng ra khơi, dấn thân vào những 'chỗ nước sâu', những vũng xoáy, những nơi sóng gió nguy hiểm cho tính mạng... mà không hề biết sợ là gì, miễn sao Tin Mừng được loan báo.

3. THẢO LUẬN:

1) Phê-rô trong Tin mừng hôm nay đã thưa với Đức Giê-su: “Dựa vào Lời Thầy con sẽ thả lưới” và sau đó ông đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Vậy để làm được những việc tông đồ vượt quá sức tự nhiên như Phê-rô, chúng ta phải dựa vào ai ?
2) Trong những ngày này tôi sẽ làm gì để ra khơi, hầu đưa được nhiều đồng bào lương dân Việt Nam về làm con Thiên Chúa ?

4. SUY NIỆM:

Sau khi đã trải qua thử thách bị đồng hương bất tín hãm hại, Đức Giê-su vẫn tiếp tục chu toàn sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Tin Mừng hôm nay đan kết việc rao giảng của Đức Giê-su trên thuyền với phép lạ mẻ cá lạ lùng giúp đỡ ông Si-mon, nhằm kêu gọi ông và các bạn bè thuyền chài của ông quyết tâm từ bỏ mọi sự mà đi theo làm môn đệ của Người, tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian.

1) Gương đáp tại ơn Chúa kêu gọi của tông đồ Phê-rô:

- Đức Giê-su xuống thuyền của Si-mon giảng đạo và kêu gọi ông: Sau một đêm vất vả chài lưới luống công vô ích, Si-mon và các bạn đã neo thuyền gần bờ để giặt lưới. Đức Giê-su đã chọn xuống thuyền của ông Si-mon và yêu cầu ông chèo thuyền ra xa bờ một chút, rồi Ngừơi sử dụng thuyền ấy như một giảng đài lộ thiên để công bố Tin Mừng cho đám đông dân chúng đang đứng chen chúc nhau trên bờ hồ.
- “Hãy ra khơi thả lưới bắt cá”: Giảng xong, Đức Giê-su bảo ông Si-mon “Hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Trước lời mời gọi ấy, tuy cảm nhận được sự bất lực của mình do đã vất vả làm việc suốt đêm cách vô ích, nhưng sau khi nghe Đức Giê-su giảng đạo trên thuyền, ông Si-mon đã tin vào sứ vụ Thiên Sai của Người. Lòng tin yêu Chúa đã khiến ông mạnh dạn thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Kết quả thật bất ngờ: Si-mon đã bắt được một mẻ cá lớn. Sự thành công này cho thấy không phải do tài sức của ông mà hòan tòan do quyền năng của lời Đức Giê-su đem lại, khiến ông xác tín Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai rồi tình nguyện đầu phục Chúa và dứt khóa đi theo làm môn đệ của Người.
- “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !” : Phê-rô đã ý thức thân phận tội nhân yếu đuối của mình trước sự cao cả khôn lường của Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, nên ông đã khiêm tốn thưa với Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đây cũng là thái độ của các ngôn sứ như Mô-sê đã sấp mình xuống khi đối diện với Đức Chúa hiện ra trong lửa bụi gai cháy mãi không tàn; như I-sai-a khi được Chúa gọi đã cảm thấy mình dơ bẩn bất xứng… Còn chúng ta hôm nay cần có thái độ nào khi lên rước lễ mỗi ngày?
- “Từ nay, anh sẽ là người cứu sống người ta”: Qua câu này, Đức Giê-su đã chọn Si-mon vào hàng ngũ tông đồ của Người. Thực ra Si-môn được Đức Giê-su chọn làm tông đồ không phải vì sự tài giỏi: Về văn hóa chắc Si-mon học không cao. Về tài năng thì ngoài nghề lưới cá cũng không có gì giỏi giang. Về tính khí thì hay nóng nảy và phát ngôn bộc trực… Nhưng ông vẫn được Đức Giê-su chọn đứng đầu Hội Thánh chính nhờ đức tin (x Mt 16,15-19) và lòng mến dành cho Thầy (x Ga 21,15-17). Từ giây phút này tên của Si-mon được Đức Giê-su gắn liền với tên mới Phê-rô nghĩa là Đá Tảng đức tin (x Mt 16,18). Chính ơn Chúa đã biến đổi Si-mon từ một người bắt cá biển trở thành kẻ chuyên đánh bắt các linh hồn.

2) Chúng ta phải làm gì?

- Quảng đại góp phần và khiêm tốn cậy nhờ ơn Chúa giúp: Trong Tin Mừng hôm nay, chính nhờ vâng nghe và làm theo lời Chúa mà ông Si-mon đã ra khơi thả lưới và đã bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trong việc tông đồ, các tín hữu chúng ta cũng chỉ đạt kết quả nếu biết năng học sống Lời Chúa và cậy trông vào Thần Khí của Chúa trợ giúp như Người đã cho biết: “Vì không có Thầy anh em không làm được gì” (Ga 15,5).
- Bỏ hết mọi sự mà đi theo Chúa: Đức Giê-su không từ chối thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối tội lỗi như thế nào… Người luôn mời gọi chúng ta đồng hành để loan báo Tin Mừng cho những anh em lương dân chưa biết Thiên Chúa. Chúng ta hãy mau mắn đáp lại ơn Chúa kêu gọi bằng việc năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần, quyết tâm chừa bỏ các thói hư, xin ơn Chúa biến đổi chúng ta nên hòan thiện hơn, chu tòan được sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, hầu giúp mọi người được ơn cứu độ.

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trước đây con cứ thắc mắc không biết tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học và đã có vợ con đùm đề, đi theo làm môn đệ của Chúa, trở thành người đứng đầu Nhóm 12 Tông Đồ. Xem ra Chúa đã xây dựng Hội thánh trên tảng đá Phê-rô không mấy vững chắc, vì ông đã từng hèn nhát chối Chúa ba lần và có nhiều khuyết điểm khiến Chúa phải uốn nắn, có những lời nói chiều theo ý riêng khiến Chúa phải nặng lời quở trách là Sa-tan! Nhưng qua Tin mừng hôm nay, con nhận ra rằng: Chúa thường sử dụng những gì thế gian coi thường, những con người yếu đuối, dốt nát... như các người thuyền chài, người thu thuế, gái điếm ... cộng tác với Chúa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Chúa cũng chọn một Vi-an-nây bị đánh giá dốt như con lừa làm linh mục... để qua những con người yếu đuối này, Chúa biểu lộ quyền năng cao cả của Chúa.

- LẠY CHÚA. Xin dạy con biết sống quảng đại: Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng. Biết cho đi mà không cần tính toán. Biết chiến đấu mà không sợ thương tích. Biết làm việc mà không tìm an nghỉ. Biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã thi hành thánh ý Chúa- AMEN” (Lời cầu của thánh I-nha-xi-ô Loy-ô-la).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 
Dẫn Nhập & Lời Nguyện Giáo Dân Chủ Nhật 5 Mùa Thường Niên C 10.2.2019
Lm Francis Lý văn Ca
06:42 07/02/2019
Đầu Lễ: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta được Chúa mời gọi để thông phần vào đời sống ân sủng. Đồng thời, chúng ta cũng được kêu mời để thực hiện trong cuộc sống tinh thần phục vụ Thiên Chúa. Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay sẽ trình bày cho chúng ta vài gương mẫu sống thực tế qua những gương khác nhau của tiên tri Isaia, Thánh Phaolô và Thánh Phêrô, trong cách thức của các ngài đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
Qua tinh thần của ngày lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Thiên Chúa tăng thêm sức mạnh để chúng ta biết đáp lại lời mời gọi của Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:

TRƯỚC BÀI I:
Tiên tri Isaia đươc Chúa kêu mời đi làm tiên tri. Ngài cảm thấy bất xứng. Nhưng Chúa bảo ông vâng lời, qua đức vâng lời nầy Chúa đã biến ông trên nên dụng cụ của Chúa.

TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô bắt đầu cuộc rao giảng, Ngài chọn đề tài Chúa Kitô phục sinh, vì chính Ngài là nhân chứng đã cảm nghiệm được khi Đức Kitô đã hiện ra với Ngài trên đường Đamas.

TRƯỚC BÀI PÂ:
Chúa Giêsu kêu gọi những môn đồ đầu tiên sau mẻ cá lạ lùng. Ông Phêrô đã cảm nghiệm mình bất xứng trước phép lạ nầy. Nhưng với sự khuyến khích của Chúa, ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.

Lời Nguyện Giáo Dân.

Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng trên chiếc thuyền của thánh Phêrô, Ngài đã nhìn thấy những khó khăn và nhu cầu của các tông đồ. Giờ đây, chúng ta đặt vào tay Chúa quan phòng những nhu cầu của Cộng Đoàn chúng ta:

1. Xin cho chúng ta biết lắng nghe những huấn lệnh của Chúa qua các Đấng kế vị Thánh Phêrô: Đức Thánh Cha Phanxicô, Các Giám Mục và những đấng kế vị của các Ngài. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

2. Xin cho các Cộng Đoàn Anh Em đó đây, biết lắng nghe Lời Chúa và đem áp dụng trong đời sống, để Lời Chúa được sinh hoa kết trái. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

3. Xin cho các trường trong niên học mới, với sự cộng tác của thầy cô và phụ Huynh cùng với sự cố gắng của học sinh sẽ gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

4. Xin cho ơn gọi của mỗi người giúp chúng ta biết canh tân cuộc sống, để đời sống thêm phong phú hơn mỗi ngày đặc biệt trong năm mới Kỷ Hợi nầy. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

5. Xin cho các tôi tớ của Chúa đã qua đời, được hưởng niềm vui bất diệt muôn đời trên thiên quốc. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

Linh mục:
Chúa đã ban cho Isaia, Phêrô và Phaolô sự can đảm dấn thân theo tiếng gọi. Xin chấp nhận những ý nguyện chúng con dâng hiệp với của lễ tiến dâng trên bàn thờ chính là Mình Máu Con yêu dấu của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Cha Conley: Nhiều Hồng Y có quan điểm “rất đáng lo ngại” về luân lý
Đặng Tự Do
00:25 07/02/2019
Đức Giám Mục James Conley của Lincoln, Nebraska nhận xét rằng có những “hồ nghi và nhầm lẫn” trong Giáo Hội về giáo huấn luân lý, ngay cả “ở các cấp rất cao” trong hàng giáo phẩm. Nguyên bản tiếng Anh: Bishop Conley: Some cardinals have ‘very disturbing’ views on morality được đăng trên Catholic Herald ngày 6 tháng Hai, 2019. Dưới đây là bản dịch sang Việt Ngữ.

Trong khi đánh giá cao Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Cha Conley cũng đã thảo luận về vai trò của Đức Giáo Hoàng, và nói rằng ngay cả các vị Giáo Hoàng cũng “không thể lật ngược những gì đã được dạy bảo một cách không thể sai lầm”.

Những nhận xét của Đức Cha Conley được đưa ra trong một cuộc phỏng vấn với Giáo sư Robert George của Đại học Princeton, và xuất hiện như một chương trong cuốn sách mới nhan đề Mind, Heart, and Soul: Intellectuals and the Path to Rome (Tâm trí, Trái tim và Linh hồn: Những nhà trí thức và Con đường dẫn đến Rome).

Khi được hỏi về sự chia rẽ trong Giáo Hội, Đức Cha Conley đã trả lời rằng “Xem ra có một số tiếng nói trong Giáo Hội, một số ở cấp độ rất cao, đang đặt vấn đề về một số sự thật cơ bản liên quan đến con người.” Đức Cha Conley, chủ tịch ủy ban Đề cao và Bảo vệ Hôn nhân, cho biết ngài muốn đề cập đến những sự thật về hôn nhân và tình dục.

“Những sự thật này đã được Giáo Hội giảng dạy từ lâu”, Đức Cha Conley nói với Giáo sư George, “và được tái khẳng định mạnh mẽ bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô. Đó là các vấn đề liên quan đến bản chất và chức năng của lương tâm, tội lỗi và hành vi luân lý, tội ác nội tại và luật tự nhiên. “

Theo Đức Cha Conley, “một số tiếng nói này” là “rất đáng lo ngại. Và một số tiếng nói ấy là những tiếng nói rất quan trọng - các nhà thần học và thậm chí là giám mục, tổng giám mục và Hồng Y”. Nhưng bất chấp những “chia rẽ sâu sắc” này, vị giám mục nói rằng ông không “bị lung lay”. “Tôi tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần cuối cùng sẽ sắp xếp tất cả và không để Giáo Hội đi ra khỏi đường ngay nẻo chính.”

Đức Cha Conley nói rằng ngài nghĩ Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề cao các giáo huấn của Giáo Hội. Tuy nhiên, ngài cũng đề cập đến “những gì các tín hữu Công Giáo bị ràng buộc bởi lương tâm phải làm nếu lương tâm được hình thành đúng đắn của họ có sự xung đột với những điều một vị giáo hoàng nói. Đó có thể là Đức Giáo Hoàng Phanxicô hoặc bất kỳ vị Giáo Hoàng nào.”

Trong những hoàn cảnh như vậy, Đức Cha Conley lập luận rằng cần phải “tuân theo Sensus fidelium”, đó là “niềm tin của Giáo Hội qua các thời đại, ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi”. Đức Cha Conley nêu bật sự tương phản giữa Sensus fidelium là “giáo lý vững chắc, liên tục và đúng đắn của Giáo Hội” – và những quan điểm bất đồng hiện đại, chẳng hạn như, các biện pháp tránh thai.

Đức Cha Conley nói rằng trong lịch sử “hiếm” khi một vị Giáo Hoàng lại nói “điều gì đó mâu thuẫn hoặc không phù hợp về mặt luận lý với giáo huấn vững chắc và liên tục của Giáo Hội về vấn đề đức tin hay luân lý”. Nếu điều này xảy ra, theo Đức Cha Conley, điều quan trọng cần nhớ là “Một vị Giáo Hoàng không thể lật ngược lại những gì đã được dạy một cách không thể sai lầm, cho dù là bởi chính huấn quyền Giáo Hoàng hay bởi một Công Đồng Chung hay bởi các đấng bản quyền của Giáo Hội phổ quát. Đức tin của Giáo Hội không nằm trong tay một vị Giáo Hoàng”.

Đức Cha Conley nói rằng Chân phước John Henry Newman có thể giúp người Công Giáo “hiểu sứ vụ Phêrô, đặc biệt là trong triều đại giáo hoàng hiện nay”. Trong khi Newman “có một sự tôn trọng, vâng lời và ngưỡng mộ giáo hoàng rất lành mạnh”, thì ông cũng “biết rằng không phải mọi phát ngôn phát ra từ miệng giáo hoàng đều là các học thuyết Kitô giáo chân thực nhất.” Đức Cha Conley nói rằng nhận thức này khiến Newman không được lòng nhiều nhân vật quyền thế và có thể đã ngăn Newman trở thành một giám mục.[ Đức Giáo Hoàng Lêô thứ 13 đã tấn phong Hồng Y cho Newman vào ngày 12/5/1879, mặc dù ngài không phải là một giám mục và không bao giờ trở thành giám mục. Theo như thông lệ, một vị không phải là giám mục sẽ được tấn phong giám mục trước khi được phong Hồng Y. Nhưng theo thỉnh cầu của ngài, ngài không muốn được tấn phong giám mục - chú thích của người dịch].


Source:Catholic Herald
 
Tình cảnh của các tín hữu Kitô Bắc Hàn theo tự thuật của những người đào thoát
Đặng Tự Do
14:34 07/02/2019
Bọn lãnh đạo cộng sản bắt dân thờ như các thần minh
Tình cảnh các tín hữu Kitô ở Bắc Triều Tiên ra sao là điều ít ai biết đến vì sự bưng bít thông tin của một chế độ hầu như cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Hôm 2 tháng Hai, thông tấn xã AP có bài "Christians in N. Korea tell of struggle to practice faith" – “Các Kitô hữu Bắc Hàn kể về nỗi vất vả để thực hành đức tin”. Bài báo vén lên được một chút bức màn bí mật này. Dưới đây là bản dịch sang Việt Ngữ.

Kitô giáo hầu như bị đặt ra ngoài vòng pháp luật ở Bắc Triều Tiên, nơi nhà độc tài Kim Chính Ân được coi là nhân vật chính của một giáo phái tôn sùng lãnh tụ coi ông ta như một vị thần. Việc sở hữu Kinh Thánh, điều hành các dịch vụ tôn giáo công khai, và bất kỳ nỗ lực nào để xây dựng mạng lưới giáo hội hầm trú đều có thể dẫn đến bị tra tấn, ở tù dài hạn hoặc xử tử.

Sau đây là những gì những người đào thoát khỏi Bắc Triều Tiên, một nhà hoạt động Kitô giáo và một giám mục Công Giáo Hàn Quốc có những liên kết trước đó với Bắc Triều Tiên nói với Associated Press về cách người Bắc Triều Tiên duy trì niềm tin của họ:

LEE HANBYEOL

Lee, 35 tuổi, là một người tị nạn Bắc Triều Tiên tại Hán Thành, có người cha Kitô giáo đã cầu nguyện mỗi khi mẹ cô đến Trung Quốc để vay tiền từ người thân vào giữa những năm 1990.

“Tôi thấy cha tôi cầu nguyện nhiều lần. ... Mẹ tôi đã liều mạng sang Trung Quốc để nuôi sống gia đình chúng tôi. Vì vậy, khi mẹ tôi cất bước ra đi, cha tôi tiếp tục cầu nguyện, ngồi xếp bằng và run rẩy ở góc phòng của chúng tôi,” Lee nói.

Lee nói rằng cô ấy không biết gì về Kitô Giáo vào thời điểm đó. Cha cô giữ niềm tin cho riêng mình cho đến khi qua đời vào năm 1997 rõ ràng vì lo ngại các con ông phải khổ vì đạo. Lee tin rằng cha mình là một phần của dân số Kitô giáo phát triển mạnh ở Bắc Triều Tiên trước Chiến tranh Triều Tiên 1950-53.

Lee, hiện là một Kitô hữu sùng đạo nói: “Tôi thường nghĩ là sẽ tuyệt vời thế nào nếu cha tôi và tôi có thể cầu nguyện cùng nhau trong khi nắm tay nhau”.

J.M.

Một cựu cư dân của tỉnh Hamgyong ở Bắc Triều Tiên, anh J.M cho biết anh biết đến niềm tin Kitô sau khi trốn sang Trung Quốc vào năm 1998. Anh ta bị cảnh sát Trung Quốc bắt giữ và đưa về nước năm 2001. Sau khi ngồi tù vài tháng, anh đã cố gắng truyền bá đức tin của mình cho cha mẹ mình.

“Cha tôi cảm thấy khó khăn để có thể đón nhận Kitô Giáo nhưng mẹ tôi đã nhanh chóng chấp nhận niềm tin này”. Mặc dù anh đã đồng ý nói chuyện với AP để làm nổi bật cảnh ngộ của các Kitô hữu ở Bắc Triều Tiên, anh đã yêu cầu viết tắt tên của mình vì lo lắng cho sự an nguy của người thân ở miền Bắc. “Mẹ tôi nói với tôi rằng bà sẽ cầu nguyện cho tôi.”

Năm 2002, J.M. đã trốn thoát đến Hàn Quốc để anh ta có thể thờ phượng tự do. Sau đó, anh nhận được tin cả hai cha mẹ anh đều đã chết.

Bây giờ là một mục sư có trụ sở tại Hán Thành, J.M. đang cố gắng quảng bá Kitô giáo ở Bắc Triều Tiên. Anh đã viếng thăm Trung Quốc và rửa tội cho sáu người Bắc Triều Tiên được phép thăm viếng các thị trấn biên giới Trung Quốc trong một thời gian ngắn.

PETER JUNG

Jung là người Nam Hàn, chồng của Lee và là một mục sư chuyên truyền bá Kitô giáo ở Bắc Triều Tiên. Ông nói rằng nhóm của ông cung cấp nơi trú ẩn, thực phẩm và tiền bạc cho người Bắc Triều Tiên đến thăm các thị trấn biên giới Trung Quốc trước khi dạy họ về niềm tin Kitô.

Khi họ trở về nhà, Jung cho biết nhóm của anh yêu cầu một số du khách đáng tin cậy Bắc Triều Tiên ghi nhớ những câu Kinh Thánh hoặc mang theo Kinh Thánh về nước. Một số thường xuyên quay lại và nhận được những hỗ trợ tài chính và huấn luyện mới về Kitô giáo. Nhiệm vụ của họ ở Bắc Triều Tiên bao gồm tạo ra một “bầu không khí tôn giáo” bằng cách khiến mọi người ở đó trao đổi những tin nhắn với những từ ngữ chứa đựng các chủ đề Kitô giáo như “hòa bình”, Jung nói.

Đức Cha JOHN CHANG

Đức Cha Chang là một giám mục Công Giáo đã đến thăm Bắc Triều Tiên vào năm 1987 và đã gặp năm người Bắc Triều Tiên được nhà cầm quyền giới thiệu với ngài là người Công Giáo. Sau khi nói chuyện với những người Bắc Triều Tiên, tất cả những người này đều có tên thánh khi được rửa tội, Đức Cha Chang nói rằng ngài tin chắc rằng họ là người Công Giáo chân chính.

“Tôi hỏi họ nơi họ được rửa tội và ai rửa tội cho họ. Họ đều quen thuộc các thuật ngữ Công Giáo. Nếu chỉ biết những thuật ngữ này bằng cách học thuộc lòng, họ không thể sử dụng tất cả những thuật ngữ ấy một cách tự nhiên như thế,” ngài nói. “Câu chuyện của họ không phải là những chuyện được dàn dựng.”

Năm sau, hai người Công Giáo Bắc Triều Tiên đã được đến thăm Thành phố Vatican và được gặp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Các nhà hoạt động Kitô giáo bảo thủ ở Hán Thành nói rằng những người Hàn Quốc đó có thể là những tín hữu giả hoặc những người đã từ bỏ đức tin của họ từ lâu để sống sót sau những cuộc đàn áp tôn giáo khắc nghiệt. Các chuyên gia cho biết vào cuối những năm 1980, Bắc Triều Tiên đã tìm cách cải thiện mối quan hệ với Vatican như một cách để giảm bớt sự cô lập quốc tế.


Source:AP
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ Giáo Thừa tại giáo xứ Thánh Philipphê Phan Văn Minh, Orlando, Florida
Nguyễn Ngọc Sáng
19:40 07/02/2019
Lễ Giáo Thừa tại giáo xứ Thánh Philipphê Phan Văn Minh, Orlando, Florida

Thánh lễ Giao Thừa năm 2019 của giáo xứ thánh Philipphê Phan Văn Minh được tổ chức vào lúc 8g00 chiều ngày 04-02-2019 (nhằm ngày 30 tháng Chạp năm Mậu Tuất) do Đức Cha John Noonan, giám quản giáo phận Orlando chủ tế. Cùng đồng tế với ngài có cha chánh xứ Giuse Nguyễn Thanh Châu, cha phó Philipphê Lâm Bá Trọng, cha cố Phêrô Hoàng Xuân Nghiêm, thầy sáu Đaminh Đặng Văn Nước, cùng 6 cha khách Việt Nam trong vùng.

Giáo dân đã bao phủ đầy nhà thờ, mặt tiền và ở hội trường, hai nơi này được trang bị máy chiếu để bà con có thể theo dõi thánh lễ, nghe tiếng nói và thấy được hình ảnh.

Mở đầu buổi lễ, Đức Cha và các cha đã cùng dâng hương theo tục lệ cổ truyền, và thánh lễ bắt đầu trong tiếng trống tiếng chiêng. Đến phần dâng của lễ, 10 gia đình trong y phục cổ truyền đã tiến lên dâng lễ vật. Giáo dân đã say sưa dâng lòng lên Chúa cùng với tiếng hát các bài dân ca và các điệu múa.

Khi giảng lễ, bập bệ mấy câu tiếng Việt, Đức Cha đã chúc lành cho đoàn con và không quên nhắc nhở mọi người cố gắng noi gương ông bà tử đạo mà trung thành với đạo Chúa. Sau thánh lễ Đức Cha và các cha trao “lộc thánh” cho mọi người, và đặc biệt các em được lì xì.

Thánh lễ cuối cùng thật sự chấm dứt với màn đốt pháo bông, sáng lòa và vang vang. Cảm tạ Chúa và xin Chúa chúc lành cho năm mới.

Nguyễn Ngọc Sáng,
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 4
Vũ Văn An
17:58 07/02/2019
CHƯƠNG 4: HỒI TÂM ĐỂ ĐỔI MỚI TÍNH ĐỒNG NGHỊ

103. Tính đồng nghị được thiết lập để lên năng lực cho đời sống và sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của Giáo hội trong sự hợp nhất với và dưới sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, Đấng đã hứa: "nơi hai hoặc ba người họp nhau nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở đó giữa họ" (Mt 18: 20); "này, Thầy luôn ở bên các con; đúng thế, cho đến ngày tận thế" (Mt 28: 20). Dĩ nhiên, sự đổi mới của Giáo hội diễn ra qua việc tái lên sinh lực cho các cơ cấu đồng nghị, nhưng tự phát biểu trước nhất và trên hết để đáp lại lời kêu gọi nhân từ của Thiên Chúa, muốn ta sống như Dân của Người, một dân đang lữ hành qua lịch sử hướng về việc hoàn thành Vương quốc. Chương này chỉ ra một số yếu tố chuyên biệt của việc đáp lại này: huấn luyện về linh đạo hiệp thông và các thực hành lắng nghe, đối thoại và biện phân cộng đồng; sự liên quan của nó với hành trình đại kết và việc phục vụ (diakonia) có tính tiên tri trong việc xây dựng một triết lý sống có tính xã hội dựa trên tình huynh đệ, liên đới và hòa nhập.

4.1 Để đổi mới đời sống và sứ mệnh của Giáo hội theo lối đồng nghị

104. "Xét về yếu tính, mọi sự đổi mới Giáo hội đều đặt cơ sở trong việc gia tăng lòng trung thành đối với ơn kêu gọi của chính mình" [130]. Vì vậy, khi thực hiện sứ mệnh của mình, Giáo hội cũng được kêu gọi hồi tâm liên tục, tức một "hồi tâm mục vụ và truyền giáo"; điều này liên quan đến việc làm mới các não trạng, thái độ, thực hành và cơ cấu, để trung thành hơn với ơn gọi của mình [131]. Một não trạng giáo hội được hình thành bởi lối suy nghĩ đồng nghị sẽ hân hoan chào đón và phát huy ơn thánh mà nhờ đó tất cả những người đã chịu phép rửa đều có đủ điều kiện và được kêu gọi làm môn đệ truyền giáo. Thách thức lớn trong việc hồi tâm mục vụ phát sinh từ việc này đối với đời sống Giáo hội là phải tăng cường việc cộng tác hỗ tương của mọi người trong việc làm chứng truyền giảng Tin Mừng dựa trên các ơn phúc và vai trò của mọi người, mà không giáo sĩ hóa tín hữu giáo dân và không biến giáo sĩ thành tín hữu giáo dân, và dù sao cũng phải tránh cơn cám dỗ "giáo sĩ trị quá trớn giữ họ [giáo dân] cách xa diễn trình ra quyết định" [132].

105. Hồi tâm mục vụ để thực thi tính đồng nghị có nghĩa là: một số mô hình thường vẫn hiện diện trong văn hóa giáo hội (ecclesiastical culture) cần phải được hủy bỏ, vì chúng phát biểu một cái hiểu về Giáo hội chưa được đổi mới bởi giáo hội học hiệp thông. Chúng bao gồm: tập trung trách nhiệm truyền giáo vào thừa tác vụ của các mục tử; không đánh giá cao đủ đời sống thánh hiến và những ơn đặc sủng; ít khi sử dụng sự đóng góp chuyên biệt và giá trị của tín hữu giáo dân, trong đó có phụ nữ, trong các lĩnh vực chuyên môn của họ.

106. Trong viễn cảnh hiệp thông và thực thi tính đồng nghị, một số đường hướng căn bản trong hành động mục vụ có thể được xác định như sau:

a. việc thực thi trong Giáo hội địa phương và trên mọi bình diện của mối liên hệ luân hoàn giữa thừa tác vụ của các mục tử, sự tham gia và đồng trách nhiệm của giáo dân, sự kích thích xuất phát từ các ơn đặc sủng theo đường nối kết luân hoàn năng động giữa "một người", "một số người" và “mọi người";

b. sự tích hợp của việc thực thi tính hợp đoàn của các mục tử và tính đồng nghị sống bởi toàn thể Dân Thiên Chúa như một biểu thức hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương trong Giáo hội hoàn vũ;

c. việc thi hành thừa tác vụ hợp nhất của tòa Phêrô và việc lãnh đạo Giáo hội của Giám mục Rôma trong hiệp thông mọi Giáo hội địa phương, trong hợp động (synergy) với thừa tác vụ hợp đoàn của các Giám mục và hành trình đồng nghị của dân Chúa;

d. sự cởi mở của Giáo Hội Công Giáo đối với các Giáo hội và cộng đồng giáo hội khác trong cam kết không thể đảo ngược để cùng nhau hành trình hướng tới sự hiệp nhất hoàn toàn trong tính đa dạng đã được hòa giải của các truyền thống liên hệ của họ;

e. việc phục vụ (diakonia) về phương diện xã hội và cuộc đối thoại mang tính xây dựng với các người nam nữ của các tuyên tín và xác tín tôn giáo khác ngõ hầu mang lại một nền văn hóa gặp gỡ.

4.2 Linh đạo hiệp thông và huấn luyện đời sống đồng nghị

107. Triết lý sống của Giáo hội, dân Chúa được Chúa Cha quy tụ với nhau và được Chúa Thánh Thần dẫn dắt để, trong Chúa Kitô, trở thành "như một bí tích hoặc như một dấu chỉ và công cụ của cả việc kết hợp chặt chẽ với Thiên Chúa lẫn của việc hợp nhất của toàn thể loài người "[133], bộc phát và được nuôi dưỡng bằng một cuộc hồi tâm bản thân hướng về nền linh đạo hiệp thông [134]. Mọi chi thể của Giáo hội được mời gọi chấp nhận cuộc hồi tâm này như một ơn phúc và lời bảo đảm của Chúa Thánh Thần sẽ được sống theo sự hướng dẫn của Người, và học cách sống, trong hiệp thông, ơn thánh đã nhận được trong phép rửa và nên hoàn hảo trong Bí tích Thánh Thể: cuộc chuyển đổi có tính vượt qua từ cái "tôi" hiểu theo nghĩa lấy mình làm trung tâm sang cái "chúng ta", trong đó, mọi cái "tôi", nhờ mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27), sống và hành trình với anh chị em mình như một tác nhân có trách nhiệm và tích cực của sứ mệnh duy nhất của dân Chúa.

Do đó, Giáo hội cần phải trở thành "căn nhà và ngôi trường hiệp thông" [135]. Không có sự hồi tâm của trái tim và tâm trí và không có việc đào tạo có kỷ luật để chào đón và lắng nghe nhau, các phương thế hiệp thông bên ngoài sẽ hầu như không ích lợi chi; ngược lại, chúng có thể biến thành những chiếc mặt nạ vô tâm, vô hình đơn thuần. "Trong khi sự khôn ngoan của luật lệ, nhờ cung cấp các quy tắc chính xác cho việc tham gia, có chứng thực cho cơ cấu phẩm trật của Giáo hội và ngăn cản bất cứ cơn cám dỗ nào muốn chủ trương võ đoán hoặc bất chính, linh đạo hiệp thông, nhờ cổ vũ sự tín thác và cởi mở hoàn toàn phù hợp với phẩm giá và trách nhiệm của mọi thành viên của dân Chúa, đã cung cấp một thực tại thể chế có linh hồn "[136].

108. Cùng các thiên hướng vốn cần để sống và làm cho sensus fidei (cảm thức đức tin) chín mùi, một cảm thức mà mọi tín hữu đều được phú ban, cũng cần có để sử dụng nó trên nẻo đường đồng nghị. Đây là một điểm chủ yếu trong việc huấn luyện người ta trong tinh thần đồng nghị, vì chúng ta sống trong một nền văn hóa trong đó, các đòi hỏi của Tin Mừng và của cả các nhân đức nhân bản thường không phải là đối tượng được đánh giá cao hoặc chuẩn bị đầy đủ [137]. Các thiên hướng sau đây đáng được ghi nhớ: tham gia vào đời sống của Giáo hội lấy Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa giải làm tâm điểm; lắng nghe Lời Chúa để bước vào đối thoại với nó và đem nó ra thực hành; tuân theo Huấn Quyền trong các giáo huấn của nó về đức tin và luân lý; ý thức mình là chi thể của nhau như là Thân thể của Chúa Kitô và được sai đến với anh chị em của chúng ta, trước hết và quan trọng nhất với những người nghèo nhất và bị loại trừ nhất. Đây có ý nói tới các thái độ được tóm tắt trong công thức sentire cum Ecclesia: "cảm nhận, cảm thức và nhận thức một cách hòa hợp với Giáo hội", một điều "kết hợp mọi thành viên của dân Chúa khi họ thực hiện hành trình lữ thứ" và là "chìa khóa để họ 'cùng đi với nhau' "[138]. Thực thế, đây có ý nói về việc biểu lộ nền linh đạo hiệp thông như là "nguyên tắc hướng dẫn giáo dục ở bất cứ nơi nào các cá nhân và các Kitô hữu được đào tạo, bất cứ nơi nào các thừa tác viên bàn thờ, các người thánh hiến và nhân viên mục vụ được đào tạo, bất cứ nơi nào các gia đình và cộng đồng được xây đắp" [139 ].



109. Các cộng đoàn Thánh Thể là nguồn gốc và mô hình của linh đạo hiệp thông. Trong đó, các yếu tố chuyên biệt của đời sống Kitô giáo vốn được kêu gọi để lên khuôn cho affectus synodalis (cảm thức đồng nghị) được phát biểu.

a. Khẩn cầu Chúa Ba Ngôi. Cộng đoàn Thánh Thể bắt đầu từ việc khẩn cầu Thiên Chúa Ba Ngôi. Được Chúa Cha tụ tập, trong sự tuôn đổ của Chúa Thánh Thần, Giáo hội trở thành bí tích sống động của Chúa Kitô: "Nơi hai hoặc ba người gặp nhau nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở đó giữa họ" (Mt 18: 19). Sự hợp nhất của Chúa Ba Ngôi chí thánh trong sự hiệp thông của ba ngôi vị Thiên Chúa được mạc khải trong cộng đồng Kitô giáo, một cộng đồng được kêu gọi sống "sự hợp nhất của con cái Thiên Chúa trong chân lý và bác ái" [140], trong việc thực thi các ơn phúc và đặc sủng khác nhau lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần vì lợi ích chung.

b. Hòa giải. Cộng đoàn Thánh Thể mở đường cho hiệp thông bằng phương thức hòa giải với Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta. Confessio peccati (xưng tội) cử hành tình yêu thương xót của Chúa Cha và bày tỏ lòng mong muốn đi theo không phải con đường chia rẽ do tội lỗi gây nên, mà là con đường dẫn đến sự hợp nhất: "nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình"(Mt 5: 23-24). Các biến cố đồng nghị giả định rằng chúng ta nhìn nhận sự yếu đuối của mình và yêu cầu sự tha thứ của nhau. Hòa giải là cách sống việc truyền giảng tin mừng cách mới mẻ.

c. Lắng nghe lời Thiên Chúa. Trong cộng đồng Thánh Thể, chúng ta lắng nghe Lời Chúa để chấp nhận thông điệp của nó và để nó soi sáng con đường của chúng ta. Chúng ta học cách nghe tiếng Chúa, bằng cách suy niệm Thánh Kinh, nhất là Tin Mừng, bằng cách cử hành các bí tích, trên hết là Bí tích Thánh Thể, và bằng cách chào đón các anh chị em của chúng ta, nhất là người nghèo. Bất cứ ai thi hành thừa tác mục vụ và được kêu gọi bẻ bánh Lời Chúa cùng với bánh Thánh Thể cần phải làm quen với đời sống của cộng đồng, để truyền đạt thông điệp của Thiên Chúa, trong cuộc sống tại đây và bây giờ. Cơ cấu đối thoại của phụng vụ Thánh Thể là mô hình của biện phân cộng đồng: trước khi lắng nghe lẫn nhau, các môn đệ phải lắng nghe Lời Chúa.

d. Hiệp thông. Bí tích Thánh Thể "tạo ra sự hiệp thông và phát huy sự hiệp thông" [141] với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta. Được Đức Kitô sinh ra qua Chúa Thánh Thần, sự hiệp thông được chia sẻ bởi những người đàn ông và đàn bà, những người, vì đã chịu phép rửa, có phẩm giá ngang nhau và nhận được những ơn gọi khác nhau từ Chúa Cha và sống chúng một cách có trách nhiệm - những ơn gọi xuất phát từ phép rửa, phép thêm sức, phép truyền chức thánh và từ đặc sủng của Chúa Thánh Thần - để tạo thành một Thân thể từ nhiều chi thể. Sự hội tụ phong phú và tự do của tính đa nguyên trong hợp nhất này là điều được khởi động trong các biến cố đồng nghị.



e. Sai đi. Ite, missa est (hãy ra đi, thánh lễ đã hoàn tất). Sự hiệp thông được làm thành hiện thực trong Bí tích Thánh Thể thúc đẩy chúng ta đi truyền giáo. Bất cứ ai tham dự Mình và Máu Chúa Kitô đều được mời gọi chia sẻ kinh nghiệm vui mừng về điều đó với mọi người. Mỗi biến cố đồng nghị đều thúc giục Giáo hội ra ngoài lều trại của mình (xem Dt 13: 13) để đưa Chúa Kitô đến với những người đang chờ được Người cứu vớt. Thánh Augustinô nói rằng chúng ta cần "trở thành một tâm và một trí trên hành trình hướng về Thiên Chúa" [142]. Sự hợp nhất của cộng đồng không có thực chất nếu không có thứ télos (mục đích tối hậu) bên trong này hướng dẫn nó theo nẻo đường thời gian hướng tới mục tiêu cánh chung của nó, tức "Thiên Chúa là tất cả trong tất cả" (1 Cr 15: 28). Chúng ta phải luôn luôn đương đầu với câu hỏi: làm thế nào chúng ta có thể thực sự trở thành một Giáo hội đồng nghị trừ khi chúng ta sống "hướng ra ngoài" về phía mọi người để cùng nhau tiến về hướng Thiên Chúa?

4.3 Lắng nghe và đối thoại để biện phân cộng đồng

110. Đời sống đồng nghị của Giáo hội xuất hiện nhờ việc chân thực thông truyền đức tin, sự sống và cam kết truyền giáo nơi mọi thành viên. Nó mang lại biểu thức cho communio sanctorum (hiệp thông các thánh) vốn sống nhờ cầu nguyện, được nuôi dưỡng bằng các Bí tích, nảy nở trong tình yêu thương nhau và mọi người, phát triển nhờ chia sẻ các niềm vui và thử thách của Nàng dâu của Chúa Kitô. Truyền thông cần phải trở nên rõ ràng thông qua cộng đồng lắng nghe Lời Chúa để biết "điều Chúa Thánh Thần đang nói với các Giáo hội" (Kh 2: 29). "Giáo hội đồng nghị là một Giáo hội biết lắng nghe... Các tín hữu giáo dân, hợp đoàn Giám mục, Giám mục Rôma: tất cả lắng nghe nhau; và tất cả lắng nghe Chúa Thánh Thần" [143].

111. Đối thoại đồng nghị phụ thuộc lòng can đảm trong cả việc nói lẫn việc nghe. Nó không phải là tham gia vào một cuộc tranh luận, trong đó, người nói cố gắng thắng thế những người khác hoặc phản bác các chủ trương của họ bằng những lập luận thô bạo, nhưng là việc phát biểu bất cứ điều gì xem ra được Chúa Thánh Thần gợi ý là hữu ích cho việc biện phân của cộng đồng, đồng thời sẵn sàng chấp nhận bất cứ điều gì đã được cùng một Thần Trí gợi ý trong các chủ trương của người khác, "vì lợi ích chung" (1 Cr 12: 7).

Tiêu chuẩn theo đó "sự hợp nhất thắng thế xung đột" có giá trị đặc biệt trong việc tiến hành đối thoại, biết cách xoay xở các ý kiến và kinh nghiệm khác nhau và học hỏi "phong cách xây dựng lịch sử, một lĩnh vực quan trọng trong đó các thanh chấp, căng thẳng và đối lập có thể đạt tới sự hợp nhất đa dạng tạo ra sự sống mới", làm cho khả hữu việc "xây dựng hiệp thông giữa bất đồng "[144]. Thực sự, đối thoại cung cấp cơ hội để có được những viễn ảnh và quan điểm mới nhằm soi sáng cho việc giải quyết vấn đề đang được đề cập.

Đó là vấn đề chấp nhận "một cách nhìn thế giới theo lối tương quan, một cách nhìn, sau đó, trở thành một dạng kiến thức chung, tầm nhìn qua con mắt của người khác và tầm nhìn chung về tất cả những gì hiện hữu" [145]. Đối với Chân phúc (nay là Thánh) Phaolô VI, cuộc đối thoại đích thực là một hình thức truyền thông thiêng liêng [146], đòi hỏi nhiều thái độ chuyên biệt: tình yêu, lòng tôn trọng, lòng tín thác và thận trọng khôn ngoan [147]; "Đối thoại triển nở trên tình bạn, và đặc biệt nhất là trên việc phục vụ" [148]. Vì sự thật - như Đức Bênêđictlô XVI từng nhấn mạnh - "là lógos (lời), một lógos tạo ra các diá-logos (đối lời) và do đó tạo ra truyền thông và hiệp thông" [149].

112. Một thái độ thiết yếu trong cuộc đối thoại có tính đồng nghị là sự khiêm nhường, một sự khiêm nhường hướng mỗi người vào việc vâng theo thánh ý Thiên Chúa và vâng theo nhau trong Chúa Kitô [150]. Thánh tông đồ Phaolô, trong Thư gửi tín hữu Philíphê, đã minh họa ý nghĩa của nó và cách thức hoạt động của nó liên quan đến đời sống hiệp thông là có cùng "một cảm nghĩ duy nhất (φρόνησις), cùng một lòng mến (άγάπη), cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau "(2:2). Ngài nhấn mạnh tới hai cám dỗ vốn phá hoại cuộc sống của cộng đồng: Tinh thần ghen tuông (έριθεία) và hư danh (κενοδοξία) (2: 3a). Ngược lại, thái độ cần có là sự khiêm nhường (ταπεινοφρυσύνη): hoặc xem người khác quan trọng hơn bản thân chúng ta, hoặc đặt thiện ích và lợi ích chung lên hàng đầu (2: 3b-4). Ở đây, Thánh Phaolô nhắc nhớ Đấng mà nơi Người, nhờ đức tin, chúng ta đã trở thành một cộng đồng: " hãy có những tâm tình như chính Chúa Giêsu Kitô " (2:5). Thứ φρόνησις (cảm nghĩ) của các môn đệ phải là thứ cảm nghĩ mà chúng ta nhận được từ Chúa Cha nếu chúng ta sống trong Chúa Kitô. Việc kenosis (tự hủy) của Chúa Kitô (2:7-10) là hình thức triệt để đức vâng lời của Người đối với Chúa Cha và đối với các môn đệ, đó là lời kêu gọi cảm nhận, suy nghĩ và cùng biện phân với nhau một cách khiêm nhường thánh ý Thiên Chúa khi theo chân Thầy và là Chúa mình.

113. Việc thi hành biện phân nằm ở tâm điểm các diễn trình và biến cố đồng nghị. Đó là cách nó luôn hiện diện trong đời sống đồng nghị của Giáo hội. Giáo hội học hiệp thông và nền linh đạo và triết lý hành động chuyên biệt từ đó mà có liên quan đến sứ mệnh của toàn thể Dân Thiên Chúa, để, “ngày nay nó trở nên cần thiết hơn bao giờ hết (...) phải được hình thành theo các nguyên tắc và phương pháp biện phân không những của bản thân mà còn của cộng đồng nữa"[151]. Cần phải nhận diện và tiến bước như một Giáo hội, nhờ việc giải thích, về thần học, các dấu chỉ thời đại, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, con đường phải theo để phục vụ kế hoạch của Thiên Chúa đến chỗ hoàn thành cánh chung trong Chúa Kitô [152]; điều này cũng phải được hoàn thành trong mọi thời khắc (kairós) suốt trong lịch sử [153]. Việc biện phân cộng đồng cho phép chúng ta khám phá lời mời gọi của Thiên Chúa trong một hoàn cảnh lịch sử đặc thù [154].

114. Biện phân cộng đồng ngụ hàm việc cẩn thận và can đảm lắng nghe "những tiếng rên rỉ" của Chúa Thánh Thần (xem Rm 8: 26) phát ra từ tiếng kêu rõ ràng hoặc đôi khi im lặng của dân Chúa: "lắng nghe Thiên Chúa, để chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu than của Dân Người; lắng nghe Dân Người cho đến khi chúng ta hòa hợp với thánh ý mà Thiên Chúa gọi chúng ta hướng tới"[155]. Môn đệ của Chúa Kitô phải giống như một người giảng thuyết, người "phải suy gẫm Lời Chúa, nhưng cũng phải suy gẫm về dân của Người" [156]. Sự biện phân phải được thực hiện trong một không gian cầu nguyện, suy niệm, suy tư và nghiên cứu, mà chúng ta cần nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần; bằng đối thoại chân thành, thanh thản và khách quan với anh chị em chúng ta; bằng việc chú ý đến các kinh nghiệm và thách thức thực sự của mọi cộng đồng và mọi tình huống; trong việc trao đổi các ơn phúc và trong việc hội tụ mọi năng lực nhằm xây dựng Thân thể Chúa Kitô và loan báo Tin Mừng; trong việc tổng hợp các cảm quan và ý nghĩ giúp chúng ta hiểu thánh ý Chúa; bằng việc tìm kiếm cách để được Tin Mừng giải phóng khỏi mọi trở ngại có thể làm suy yếu sự cởi mở của chúng ta đối với Chúa Thánh Thần.

4.4 Tính đồng nghị và hành trình đại kết

115. Vatican II dạy rằng Giáo Hội Công Giáo, trong đó tồn hữu Giáo hội duy nhất và phổ quát của Chúa Kitô [157], vì nhiều lý do, thấy mình hợp nhất với mọi người đã chịu phép rửa [158] và "Thần Trí Chúa Kitô đã không ngần ngại sử dụng chúng làm phương tiện cứu rỗi, một phương tiện có được hiệu quả nhờ chính sự viên mãn của ơn thánh và sự thật được ủy thác cho Giáo hội "[159]. Do đó, sự cam kết của tín hữu Công Giáo cùng đồng hành với các Kitô hữu khác hướng về sự hợp nhất trọn vẹn và hữu hình dưới nhan Chúa bị đóng đinh và đã sống lại, Đấng một mình có khả năng chữa lành các thương tích trên Thân thể Người trong suốt lịch sử và hòa giải các dị biệt bằng các ơn của Chúa Thánh Thần, theo sự thật, trong tình yêu.

Cam kết đại kết đánh dấu một cuộc hành trình liên quan đến toàn thể Dân Thiên Chúa và đòi phải có sự hoán cải trái tim và cởi mở với nhau để triệt phá mọi bức tường khác biệt vốn phân cách các Kitô hữu với nhau trong nhiều thế kỷ và để khám phá, chia sẻ và vui mừng trong nhiều kho tàng vốn kết hợp chúng ta như những hồng phúc của một Chúa duy nhất nhờ phép rửa mà chúng ta cùng chia sẻ: từ việc cầu nguyện đến nghe Lời Chúa và cảm nghiệm tình yêu chúng ta dành cho nhau trong Chúa Kitô, từ việc làm chứng cho Tin Mừng đến việc phục vụ người nghèo và người bị ruồng bỏ, từ cam kết cho một xã hội công bằng và liên đới tới một cam kết cho hòa bình và lợi ích chung.



116. Điều quan trọng là phải vui mừng thừa nhận rằng, trong thời đại của chúng ta, đối thoại đại kết đã tiến đến chỗ nhìn nhận tính đồng nghị như một điều tỏ lộ bản tính của Giáo hội, một điều chủ yếu cho sự hợp nhất của nó trong tính đa dạng của các biểu hiện của nó. Có sự hội tụ về khái niệm Giáo hội như là koinonía (hiệp thông), được thể hiện trong mỗi Giáo hội địa phương và trong mối quan hệ của nó với các Giáo hội khác, nhờ các cơ cấu và diễn trình đồng nghị chuyên biệt.

Trong cuộc đối thoại giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo hội Chính thống, Tài liệu Chieti gần đây tuyên bố rằng, trong Thiên niên kỷ thứ nhất, ở Đông và Tây, sự hiệp thông giáo hội, với nguồn gốc vững chắc trong Ba Ngôi Chí Thánh [160], đã khai triển "nhiều cơ cấu đồng nghị có liên hệ chặt chẽ với tính tối thượng (primacy)"[161]; di sản thần học và giáo luật của các cơ cấu này là "một điểm tham chiếu cần thiết... để chữa lành vết thương chia rẽ họ vào đầu thiên niên kỷ thứ ba" [162].

Các tài liệu của Ủy ban Đức tin và Trật tự của Hội đồng Các Giáo hội Thế giới, Giáo hội. Hướng tới một Viễn Kiến chung, nhấn mạnh rằng "dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, toàn thể Giáo hội là đồng nghị / đồng hội (conciliar), ở mọi bình diện của đời sống giáo hội: địa phương, khu vực và hoàn vũ. Phẩm chất của tính đồng nghị hay tính đồng hội phản ảnh mầu nhiệm đời sống Ba Ngôi của Thiên Chúa và các cơ cấu của Giáo hội nói lên phẩm chất này để biến cuộc sống của cộng đồng như một hiệp thông thành hiện thực"[163].

117. Đồng thuận đối với viễn kiến trên về Giáo hội cho phép chúng ta tập trung sự chú ý, một cách thanh thản và khách quan, vào các nút thắt thần học quan trọng vẫn cần được tháo cởi. Trước hết, là vấn đề liên quan đến mối liên hệ giữa việc tham gia vào đời sống đồng nghị của mọi người chịu phép rửa, nơi họ Thần Trí Chúa Kitô khơi dậy và nuôi dưỡng Sensus fidei (cảm thức đức tin) và năng quyền và trách nhiệm do đó mà ra để biện phân sứ vụ, và thẩm quyền riêng của các mục tử, một thẩm quyền vốn xuất phát từ một đặc sủng chuyên biệt được ban cho qua bí tích; thứ đến, là việc giải thích sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ được phát biểu qua sự hiệp thông giữa các Mục tử của họ và Giám mục Rôma, với việc ấn định bao nhiêu thì thuộc tính đa nguyên hợp pháp trong các hình thức phát biểu đức tin trong các nền văn hóa khác nhau và điều gì thuộc về bản sắc nghìn đời và sự hợp nhất Công Giáo của nó.

Trong bối cảnh này, việc thực thi đời sống đồng nghị và đánh giá sâu sắc hơn ý nghĩa thần học của nó là một thách thức và cơ hội lớn lao để tiếp tục cuộc hành trình đại kết của chúng ta. Trong sự trung thành một cách sáng tạo với depositum fidei (kho tàng đức tin) và nhất quán với tiêu chuẩn của hierarchia veritatum (phẩm trật chân lý) [164], chân trời đồng nghị thực sự cho chúng ta thấy việc trao đổi ơn phúc có tính hứa hẹn xiết bao, qua đó chúng ta có thể làm giàu cho nhau khi chúng ta đồng hành hướng tới sự hợp nhất: sự hài hòa đã được hòa giải của sự phong phú vô tận của mầu nhiệm Chúa Kitô, phản ảnh trong vẻ đẹp của khuôn mặt Giáo hội.

4.5 Tính đồng nghị và việc phục vụ (diakonia) xã hội

118. dân Chúa đi qua lịch sử để chia sẻ với mọi người men, muối, ánh sáng của Tin Mừng. Đó là lý do tại sao "việc truyền giảng Tin Mừng cũng liên quan đến con đường đối thoại" [165] mà chúng ta tiến hành với anh chị em của các tôn giáo, các thế giới quan và văn hóa khác nhau đang tìm kiếm sự thật và cam kết xây dựng công lý, để mở rộng tâm trí mọi người để họ nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô đang đi bên cạnh chúng ta. Các sáng kiến liên quan đến việc gặp gỡ, đối thoại và hợp tác giành được sự tin tưởng như là những giai đoạn quý giá trong cuộc hành hương chung của chúng ta và hành trình đồng nghị của dân Chúa tự cho thấy đó là một trường học dạy đời sống trong đó, chúng ta sở đắc được ethos (triết lý sống) cần thiết để thực hành đối thoại với mọi người – mà không chủ hoà thái quá (irenicism) hoặc thỏa hiệp. Thực thế, ngày nay, khi càng ngày người ta càng ý thức được sự liên thuộc hỗ tương giữa các dân tộc buộc chúng ta phải coi thế giới như ngôi nhà chung của mình, Giáo hội được kêu gọi chứng tỏ rằng tính Công Giáo của mình và con đường đồng nghị mà Giáo Hội sống và làm việc trong đó là một chất xúc tác cho sự hợp nhất trong sự đa dạng và cho sự hiệp thông trong tự do. Đây là một đóng góp đáng kể mà đời sống và sự hoán cải đồng nghị của dân Chúa có thể tạo ra để cổ vũ nền văn hóa gặp gỡ và liên đới, lòng tôn trọng và đối thoại, việc hòa nhập và tích nhập, lòng biết ơn và ơn phúc.

119.Đời sống đồng nghị của Giáo Hội tự thể hiện một cách đặc biệt như một diakonia (phục vụ) trong việc cổ vũ đời sống xã hội, kinh tế và chính trị của mọi dân tộc dưới ngọn cờ công lý, liên đới và hòa bình. "Thiên Chúa, trong Chúa Kitô, không chỉ cứu chuộc cá nhân, mà cả các mối liên hệ xã hội hiện diện giữa họ nữa" [166]. Việc thực hành đối thoại và việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu chung mà chúng ta cam kết đối với hòa bình và công lý là một ưu tiên tuyệt đối trong một tình huống gặp khủng hoảng cơ cấu trong các thủ tục tham gia dân chủ và mất niềm tin vào các nguyên tắc và giá trị gây cảm hứng của nó, với mối đe dọa sai lạc độc đoán và kỹ trị. Trong bối cảnh này, nghĩa vụ quan trọng và là tiêu chuẩn cho mọi hành động xã hội của dân Chúa là nghe tiếng than của người nghèo và tiếng than của trái đất [167], và trong việc xác định các lựa chọn và kế hoạch của xã hội, kéo sự chú ý khẩn cấp vào vị trí và vai trò vinh dự của người nghèo, mục đích đến phổ quát của hàng hóa, tính ưu việt của tình liên đới và việc chăm sóc đối với ngôi nhà chung của chúng ta.

Kỳ cuối: Kết luận và các ghi chú