Phụng Vụ - Mục Vụ
Đánh mất Hồng Ân
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
20:11 30/01/2019
Chúa Nhật 4 Thường Niên C
Dịp Tết hằng năm, có nhiều bà con Việt Kiều về thăm thân nhân và ăn Tết ở quê nhà.
Sau những tháng ngày rao giảng Tin Mừng đó đây, hôm nay Chúa Giêsu trở về thăm làng quê Nagiarét. Ngày Sabbat, Chúa vào Hội đường tham dự giờ cầu nguyện và nghe giảng giải Thánh Kinh. Hội đường Do thái không phải là nơi thờ phượng, nhưng là nơi người do thái tập hợp hàng tuần vào các ngày Sabat để nghe đọc Sách Thánh và diễn giải Lời Chúa. Người Do thái chỉ có một nơi duy nhất dành để thờ phượng Thiên Chúa, để dâng lên Người Lễ Toàn Thiêu và lễ Tạ Tội, đó là đền thờ Giêrusalem. Các Hội đường ở các thành phố và làng mạc trong cả nước còn được sử dụng để dạy và đào tạo tàng lớp thanh thiếu niên về Kinh thánh. Trong thời tuổi trẻ, Đức Giêsu từng là một trong các thanh thiếu niên có mặt thưởng xuyên trong các giờ giáo lý Kinh thánh, và còn hơn thế nữa, là một học trò ưu tú bậc nhất và quen thuộc của ông Trưởng Hội đường tại quê nhà Nadarét .
Vì thế, khi Đức Giêsu trở lại Nadarét và đi vào Hội đường vào Ngày Thứ Bảy, ông Trưởng Hội đường tất nhiên đã nhận ra ngay cậu học trò ưu tú năm xưa của mình và đã đưa Sách Thánh cho Ngài đọc. Đây là hành động đầy kính trọng mà các vị Trưởng Hội đường thường dành cho các vị khách quý đặc biệt của họ. Đức Giêsu đọc sách Ngôn sứ Isaia và bắt đầu giảng giải Kinh Thánh.
Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì ?”.
Những người đồng hương ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác. Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc của Ngài, chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường, họ không tin. Dân làng Nadaret và cả họ hàng Chúa Giêsu không tin Chúa, đó là điều cả bốn sách Tin Mừng cho biết. Riêng Luca cho thấy họ đi tới chỗ muốn giết Chúa bằng cách xô xuống vực. Nhưng Chúa băng qua giữa họ mà đi, tiếp tục rao giảng cho những làng mạc khác.
Dân chúng xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ nên họ muốn giết Đức Giêsu.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ xì xầm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Để cảnh tỉnh họ, Đức Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Êlia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Itraen phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Êlia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ítraen thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xarépta, miền Xiđôn. Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Êlisa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Itraen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Naaman ngoại giáo, người nước Syri.Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Đức Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành, kéo lên tận đỉnh núi, để xô xuống vực cho nát thịt tan xương.Lòng đố kỵ ganh ghét thật khủng khiếp! Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi. Sự kiện này là khởi điểm những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Đức Giêsu trong những tháng ngày sắp tới.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).
Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về những điều này khi cầu nguyện. Tôi nhận thấy mình được mời gọi và chắc chắn mọi người cũng được mời gọi phải nhận ra những gì là ghen ghét, đố kỵ trong tâm hồn hình, vì chúng luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng, hạnh phúc được. Người có lòng ghen ghét, đố kỵ luôn nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác có chống lại họ. Và đó là khởi đầu của bao nhiêu tội lỗi, gian ác khác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét, đố kỵ đi vào, vì chúng chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi”. (Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta, sáng thứ năm, ngày 21.01.2016, lễ kính thánh Anê, trinh nữ tử đạo. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã giảng về sự ghen ghét và đố kỵ. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này).
Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi người ta biết tôn trọng, cảm thông, tha thứ và nâng đỡ nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái bao dung. Cuộc sống thật đẹp khi người ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.
Xin Chúa cho chúng con có một trái tim luôn rộng mở để yêu thương mọi người. Amen.
Dịp Tết hằng năm, có nhiều bà con Việt Kiều về thăm thân nhân và ăn Tết ở quê nhà.
Sau những tháng ngày rao giảng Tin Mừng đó đây, hôm nay Chúa Giêsu trở về thăm làng quê Nagiarét. Ngày Sabbat, Chúa vào Hội đường tham dự giờ cầu nguyện và nghe giảng giải Thánh Kinh. Hội đường Do thái không phải là nơi thờ phượng, nhưng là nơi người do thái tập hợp hàng tuần vào các ngày Sabat để nghe đọc Sách Thánh và diễn giải Lời Chúa. Người Do thái chỉ có một nơi duy nhất dành để thờ phượng Thiên Chúa, để dâng lên Người Lễ Toàn Thiêu và lễ Tạ Tội, đó là đền thờ Giêrusalem. Các Hội đường ở các thành phố và làng mạc trong cả nước còn được sử dụng để dạy và đào tạo tàng lớp thanh thiếu niên về Kinh thánh. Trong thời tuổi trẻ, Đức Giêsu từng là một trong các thanh thiếu niên có mặt thưởng xuyên trong các giờ giáo lý Kinh thánh, và còn hơn thế nữa, là một học trò ưu tú bậc nhất và quen thuộc của ông Trưởng Hội đường tại quê nhà Nadarét .
Vì thế, khi Đức Giêsu trở lại Nadarét và đi vào Hội đường vào Ngày Thứ Bảy, ông Trưởng Hội đường tất nhiên đã nhận ra ngay cậu học trò ưu tú năm xưa của mình và đã đưa Sách Thánh cho Ngài đọc. Đây là hành động đầy kính trọng mà các vị Trưởng Hội đường thường dành cho các vị khách quý đặc biệt của họ. Đức Giêsu đọc sách Ngôn sứ Isaia và bắt đầu giảng giải Kinh Thánh.
Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì ?”.
Những người đồng hương ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác. Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc của Ngài, chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường, họ không tin. Dân làng Nadaret và cả họ hàng Chúa Giêsu không tin Chúa, đó là điều cả bốn sách Tin Mừng cho biết. Riêng Luca cho thấy họ đi tới chỗ muốn giết Chúa bằng cách xô xuống vực. Nhưng Chúa băng qua giữa họ mà đi, tiếp tục rao giảng cho những làng mạc khác.
Dân chúng xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ nên họ muốn giết Đức Giêsu.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ xì xầm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Để cảnh tỉnh họ, Đức Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Êlia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Itraen phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Êlia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ítraen thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xarépta, miền Xiđôn. Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Êlisa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Itraen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Naaman ngoại giáo, người nước Syri.Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Đức Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành, kéo lên tận đỉnh núi, để xô xuống vực cho nát thịt tan xương.Lòng đố kỵ ganh ghét thật khủng khiếp! Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi. Sự kiện này là khởi điểm những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Đức Giêsu trong những tháng ngày sắp tới.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).
Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về những điều này khi cầu nguyện. Tôi nhận thấy mình được mời gọi và chắc chắn mọi người cũng được mời gọi phải nhận ra những gì là ghen ghét, đố kỵ trong tâm hồn hình, vì chúng luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng, hạnh phúc được. Người có lòng ghen ghét, đố kỵ luôn nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác có chống lại họ. Và đó là khởi đầu của bao nhiêu tội lỗi, gian ác khác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét, đố kỵ đi vào, vì chúng chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi”. (Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta, sáng thứ năm, ngày 21.01.2016, lễ kính thánh Anê, trinh nữ tử đạo. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã giảng về sự ghen ghét và đố kỵ. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này).
Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi người ta biết tôn trọng, cảm thông, tha thứ và nâng đỡ nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái bao dung. Cuộc sống thật đẹp khi người ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.
Xin Chúa cho chúng con có một trái tim luôn rộng mở để yêu thương mọi người. Amen.
Suy Niệm Chúa Nhật IV Thường Niên – C
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
20:28 30/01/2019
Chúa Giêsu, Vị Thầy Thuốc Cao Tay Đầy Lòng Nhân Ái
Suy Niệm Chúa Nhật IV Thường Niên – C
(Lc 4, 21-30)
Nếu như Chúa Nhật III Thường niên, Chúa Giêsu thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai, Danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi, Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là vui mừng và sung sướng; mọi người đều thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh Người.
Nhưng hôm nay hoàn toàn ngược lại, vì sau một thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một tư cách hoàn toàn mới: Chúa Giêsu vào hội đường đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4,21), khiến cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Ðiều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, "mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra" (Lc 4,22). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói: "Ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ" (Ðức Giêsu thành Nagiarét, 11). "Người này không phải là con ông Giuse sao?" (Lc 4,22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có khát vọng gì đây?
Sự biết của họ gợi nhớ câu ngạn ngữ: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình! Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông" (Lc 4,23). Liền sau đó, Chúa Giêsu đã thở dài và tuyên bố câu nói để đời: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình"(Lc 4,24). Tuyên bố của Chúa Giêsu vang lên trong hội đường như một sự khiêu khích. Người kể lại hai phép lạ mà các ngôn sứ Elia và Elisêo đã làm cho những người không phải dân Do thái, để chứng minh rằng đôi khi ngoài dân Israel có nhiều kẻ tin mạnh hơn. Tới đây thì tất cả những người có mặt đều phản ứng: "Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi" (Lc 4,28-30). Người ta phải tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại khơi dậy sự đổ bể ấy? Ban đầu dân chúng thán phục Người và có lẽ Người đã có thể có được một sự đồng ý nào đó của họ. Chúa Giêsu đã không đến để tìm sự đồng ý của loài người. Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chân lý, sẵn sàng trả giá.
Về điểm này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau: "Người rẽ qua giữa họ mà đi", nghĩa là Chúa Giêsu là một thầy thuốc cao tay đã đến giữa chúng ta. Người vẫn rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh. Chúa Giêsu đã đến, và Người thấy hội chứng mù lòa trong lòng nhân loại, Người liền hứa ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là: "Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm" ( 1 Cr 2, 9).
Nếu Chúa Giêsu, một Vì Thiên Chúa, là Thầy thuốc đến để chữa bệnh thì Người chữa bệnh gì cho nhân loại ? Người đã dùng phương thuốc nào ?
Người đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm nhường của Đức Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh nhân, với phương thuốc: Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường trong lòng, như Người mời gọi ta. Thật vậy, Người biết rằng, phương thuốc để chữa lành bệnh bệnh kiêu ngạo của chúng ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta, Người đến cứu chúng ta, vì Người biết điều chúng ta cần.
Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Có người hỏi: Thiên Chúa vẫn ở trên cao, làm thế nào để ta có thể bắt chước Người được? Và nếu không bắt chước được Người, thì làm sao con người có thể được chữa lành? Người đến trong sự khiêm nhường, vì Người biết rõ tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh: thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng Thiên Chúa, tay cầm chén, và nói: "Lạy Thiên Chúa của con, Người là ai?" Người được sinh ra, Người đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.
Thường thì kẻ mắc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy tình thương không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn cố gắng để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, Người không sợ bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Người đã làm cho cái chết của mình trở nên thần dược chữa lành họ, Người đã chết và đã sống lại.
Như thế Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Chính lập trường của Chúa Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực để thực hiện một cảnh ngoại mục cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Người đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, chúng ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Người sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con trung thành và tươi vui bước theo Chúa Giêsu trên con đường ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy Niệm Chúa Nhật IV Thường Niên – C
(Lc 4, 21-30)
Nếu như Chúa Nhật III Thường niên, Chúa Giêsu thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai, Danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi, Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là vui mừng và sung sướng; mọi người đều thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh Người.
Nhưng hôm nay hoàn toàn ngược lại, vì sau một thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một tư cách hoàn toàn mới: Chúa Giêsu vào hội đường đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4,21), khiến cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Ðiều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, "mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra" (Lc 4,22). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói: "Ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ" (Ðức Giêsu thành Nagiarét, 11). "Người này không phải là con ông Giuse sao?" (Lc 4,22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có khát vọng gì đây?
Sự biết của họ gợi nhớ câu ngạn ngữ: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình! Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông" (Lc 4,23). Liền sau đó, Chúa Giêsu đã thở dài và tuyên bố câu nói để đời: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình"(Lc 4,24). Tuyên bố của Chúa Giêsu vang lên trong hội đường như một sự khiêu khích. Người kể lại hai phép lạ mà các ngôn sứ Elia và Elisêo đã làm cho những người không phải dân Do thái, để chứng minh rằng đôi khi ngoài dân Israel có nhiều kẻ tin mạnh hơn. Tới đây thì tất cả những người có mặt đều phản ứng: "Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi" (Lc 4,28-30). Người ta phải tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại khơi dậy sự đổ bể ấy? Ban đầu dân chúng thán phục Người và có lẽ Người đã có thể có được một sự đồng ý nào đó của họ. Chúa Giêsu đã không đến để tìm sự đồng ý của loài người. Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chân lý, sẵn sàng trả giá.
Về điểm này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau: "Người rẽ qua giữa họ mà đi", nghĩa là Chúa Giêsu là một thầy thuốc cao tay đã đến giữa chúng ta. Người vẫn rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh. Chúa Giêsu đã đến, và Người thấy hội chứng mù lòa trong lòng nhân loại, Người liền hứa ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là: "Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm" ( 1 Cr 2, 9).
Nếu Chúa Giêsu, một Vì Thiên Chúa, là Thầy thuốc đến để chữa bệnh thì Người chữa bệnh gì cho nhân loại ? Người đã dùng phương thuốc nào ?
Người đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm nhường của Đức Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh nhân, với phương thuốc: Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường trong lòng, như Người mời gọi ta. Thật vậy, Người biết rằng, phương thuốc để chữa lành bệnh bệnh kiêu ngạo của chúng ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta, Người đến cứu chúng ta, vì Người biết điều chúng ta cần.
Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Có người hỏi: Thiên Chúa vẫn ở trên cao, làm thế nào để ta có thể bắt chước Người được? Và nếu không bắt chước được Người, thì làm sao con người có thể được chữa lành? Người đến trong sự khiêm nhường, vì Người biết rõ tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh: thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng Thiên Chúa, tay cầm chén, và nói: "Lạy Thiên Chúa của con, Người là ai?" Người được sinh ra, Người đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.
Thường thì kẻ mắc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy tình thương không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn cố gắng để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, Người không sợ bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Người đã làm cho cái chết của mình trở nên thần dược chữa lành họ, Người đã chết và đã sống lại.
Như thế Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Chính lập trường của Chúa Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực để thực hiện một cảnh ngoại mục cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Người đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, chúng ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Người sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con trung thành và tươi vui bước theo Chúa Giêsu trên con đường ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Vượt Thắng Mọi Thành kiến - Bài giảng CN 4 QN
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
21:27 30/01/2019
Chúa Nhật IV THƯỜNG NIÊN
VƯỢT THẮNG MỌI THÀNH KIẾN
Gr 1,4-5.17-19; 1Cr 12,31 – 13,13; Lc 4,21-30
1- Từ chuyện con bọ cạp
Chuyện kể, có một thiền sư ngắm nhìn dòng suối hiền hòa, bỗng nhiên trông thấy một con bọ cạp rớt xuống suối. Thầy đưa tay vớt nó và nhẹ nhàng để nó lên mặt đất. Con bọ cạp theo phản ứng tự nhiên: cong đuôi chích bất cứ ai đụng đến nó. Mặc dù bị nó chích rất đau, nhưng thầy không hề tức giận.
Sau đó, thầy đứng lên, đi được vài bước và quay lại nhìn con bọ cạp, thấy nó lại té xuống suối. Thiền sư vội vàng chạy lại cứu nó, rồi cẩn thận đưa nó lên mặt đất. Lần này, nó cũng chích thầy phát nữa.
Một người đi ngang qua, thấy vậy bực mình lớn tiếng: “Con bọ cạp vô ơn bạc nghĩa như vậy, cứu nó làm gì cho mệt. Kệ xác nó.”
Thiền sư nghe vậy thản nhiên trả lời: “Chích người là bản năng của con bọ cạp, còn lương thiện là bản năng của ta, sao ta có thể vì bản năng của nó, mà vứt bỏ bản năng của ta?”
Câu chuyện trên diễn tả lòng từ bi và cao thượng của vị thiền sư đối với con bọ cạp. Lòng từ bi khiến vị thiền sư sẵn sàng cứu vớt con bọ cạp chết đuối dẫu biết rằng rất có thể bị nó quay lại chích vào tay. Một cách nào đó, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu hơn câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
2- Đến câu chuyện Tin Mừng
Tiếp nối câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật vừa rồi, Chúa Giêsu trở về Nadarét. Đây là lần đầu tiên Người trở về thăm quê sau khi bắt đầu sứ vụ công khai. Chúa Giêsu vào hội đường, đọc và giải thích Sách Thánh. Dân chúng ngạc nhiên và thán phục những lời của Người. Nhưng sau đó, những người đồng hương của Chúa thắc mắc: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Họ thách thức Chúa làm phép lạ như đã làm tại Caphanaum để họ tin. Trước sự khước từ của người đồng hương, Chúa Giêsu nói rằng: “Không một tiên tri nào được tôn trọng ở chính quê hương mình” (Lc 4,24). Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy và lôi Người ra khỏi thành, rồi đưa Người lên núi để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi (Lc 4,21-30).
Khi tường thuật lại sự kiện này, thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy rằng, những gì Kinh Thánh báo trước nay đã ứng nghiệm; những gì đã được hứa trong Cựu Ước nay được thực hiện nơi Đức Giêsu. Người đến khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ. Và cả những lời tiên báo của ông già Simêon về sự chống đối Đức Giêsu hôm nay cũng ứng nghiệm. Thánh Máccô còn cho thấy rằng sự chống đối này bắt nguồn từ ngay trong gia đình họ hàng của Người, khi họ nghĩ rằng Chúa Giêsu “bị mất trí và đi bắt Người về.” Còn thánh Luca liên hệ đến số phận của các tiên tri trong Cựu Ước, những người bị từ chối, bách hại, tù đày và bị giết chết. Đây cũng là số phận của Đấng Cứu Thế phải trải qua khi thực thi sứ mạng cứu độ.
Nguyên nhân của sự khước từ này là do sự thành kiến của những người đồng hương của Chúa. Họ bị giới hạn tầm nhìn của mình nơi sự hiểu biết hẹp hòi về lý lịch gia đình của Người. Họ chỉ nhìn nhận Đức Giêsu là một con người chứ không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai. Nên họ không tin vào Người và không nhận ra căn tính đích thực của Người.
Vì thế, Đức Giêsu không làm một phép lạ nào tại chính quê hương mình. Điều đó không có nghĩa là vì Người đã bị tước đoạt quyền năng làm phép lạ, nhưng vì sự cứng lòng, thành kiến và thiếu niềm tin của người đồng hương. Những thái độ đó ngăn cản Chúa không muốn thực hiện những dấu lạ cho họ. Bởi lẽ, dẫu Thiên Chúa quyền năng, phán một lời liền có trời đất, nhưng Người phải dừng bước trước thái độ cứng lòng và thiếu cộng tác của con người. Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để lòe mắt thiên hạ, hay ra oai quyền phép thần thánh của mình. Phép lạ Người thực hiện như là kết quả và phần thưởng cho những ai đã tin. Như Chúa thường nói: “Đức Tin con cứu chữa con.”
Như thế, khi bắt đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu phải đối diện với sự khước từ và chống đối. Điều đó cho thấy mầu nhiệm thập giá luôn xuất hiện trong cuộc đời và sứ vụ của Người. Đỉnh cao của sự chống đối và khước từ đó chính là thập giá. Nơi đó, sự phản trắc, tệ bạc và độc ác của con người được phơi bày đến mức tột đỉnh. Nhưng nơi đó, lòng từ bi, nhân hậu và tình yêu của Thiên Chúa cũng đạt tới sự viên mãn vô biên. Một Thiên Chúa bị con người từ chối và đóng đinh vào thập giá. Một Thiên Chúa đón nhận tất cả sự bạc nhược vô ân đó bằng một tình yêu không bờ bến, nhờ đó để chữa lành và cứu độ con người.
3- Thái độ của người Kitô hữu
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có thể mắc phải thái độ thành kiến, hẹp hòi và vô ơn đối với Thiên Chúa và tha nhân như người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay. Thái độ thành kiến là một hàng rào ngăn cản con người tới việc khám phá chân lý và những gì mới mẻ của cuộc sống do Chúa Thánh Thần mang lại. Thành kiến nhốt con người trong tầm nhìn hạn hẹp của mình, như cóc ngồi ở đáy giếng chỉ nhìn trời bằng cái vung. Nên nó làm cho con người không nhận ra những điều kỳ diệu và tốt đẹp nơi người khác. Vì thế, chúng ta loại bỏ nơi mình thành kiến khi tiếp cận cuộc sống bằng cách biết mở rộng tầm nhìn, cởi mở và tôn trọng người khác, biết đón nhận và học hỏi những điều mới mẻ từ người khác, cũng như biết bao dung và chấp nhận những khác biệt của họ mà không hề có thái độ loại trừ. Cuộc sống này đáng ngưỡng mộ và có nhiều điều mới mẻ đối với ai biết sống tích cực và ngạc nhiên.
Đối với Thiên Chúa, mỗi ngày chúng ta được mời gọi luôn có thái độ ngoan ngùy trước những tác động của Chúa Thánh Thần, trở nên dễ bảo và sẵn sàng để được Người hướng dẫn. Bởi lẽ, Người không thể làm gì trước sự chai lì của chúng ta và phép lạ không thể xảy ra với những người không có niềm tin như Tin Mừng hôm nay minh chứng.
Nguyện xin Chúa biến đổi lòng trí chúng ta theo thánh ý của Người. Amen!
VƯỢT THẮNG MỌI THÀNH KIẾN
Gr 1,4-5.17-19; 1Cr 12,31 – 13,13; Lc 4,21-30
1- Từ chuyện con bọ cạp
Chuyện kể, có một thiền sư ngắm nhìn dòng suối hiền hòa, bỗng nhiên trông thấy một con bọ cạp rớt xuống suối. Thầy đưa tay vớt nó và nhẹ nhàng để nó lên mặt đất. Con bọ cạp theo phản ứng tự nhiên: cong đuôi chích bất cứ ai đụng đến nó. Mặc dù bị nó chích rất đau, nhưng thầy không hề tức giận.
Sau đó, thầy đứng lên, đi được vài bước và quay lại nhìn con bọ cạp, thấy nó lại té xuống suối. Thiền sư vội vàng chạy lại cứu nó, rồi cẩn thận đưa nó lên mặt đất. Lần này, nó cũng chích thầy phát nữa.
Một người đi ngang qua, thấy vậy bực mình lớn tiếng: “Con bọ cạp vô ơn bạc nghĩa như vậy, cứu nó làm gì cho mệt. Kệ xác nó.”
Thiền sư nghe vậy thản nhiên trả lời: “Chích người là bản năng của con bọ cạp, còn lương thiện là bản năng của ta, sao ta có thể vì bản năng của nó, mà vứt bỏ bản năng của ta?”
Câu chuyện trên diễn tả lòng từ bi và cao thượng của vị thiền sư đối với con bọ cạp. Lòng từ bi khiến vị thiền sư sẵn sàng cứu vớt con bọ cạp chết đuối dẫu biết rằng rất có thể bị nó quay lại chích vào tay. Một cách nào đó, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu hơn câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
2- Đến câu chuyện Tin Mừng
Tiếp nối câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật vừa rồi, Chúa Giêsu trở về Nadarét. Đây là lần đầu tiên Người trở về thăm quê sau khi bắt đầu sứ vụ công khai. Chúa Giêsu vào hội đường, đọc và giải thích Sách Thánh. Dân chúng ngạc nhiên và thán phục những lời của Người. Nhưng sau đó, những người đồng hương của Chúa thắc mắc: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Họ thách thức Chúa làm phép lạ như đã làm tại Caphanaum để họ tin. Trước sự khước từ của người đồng hương, Chúa Giêsu nói rằng: “Không một tiên tri nào được tôn trọng ở chính quê hương mình” (Lc 4,24). Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy và lôi Người ra khỏi thành, rồi đưa Người lên núi để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi (Lc 4,21-30).
Khi tường thuật lại sự kiện này, thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy rằng, những gì Kinh Thánh báo trước nay đã ứng nghiệm; những gì đã được hứa trong Cựu Ước nay được thực hiện nơi Đức Giêsu. Người đến khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ. Và cả những lời tiên báo của ông già Simêon về sự chống đối Đức Giêsu hôm nay cũng ứng nghiệm. Thánh Máccô còn cho thấy rằng sự chống đối này bắt nguồn từ ngay trong gia đình họ hàng của Người, khi họ nghĩ rằng Chúa Giêsu “bị mất trí và đi bắt Người về.” Còn thánh Luca liên hệ đến số phận của các tiên tri trong Cựu Ước, những người bị từ chối, bách hại, tù đày và bị giết chết. Đây cũng là số phận của Đấng Cứu Thế phải trải qua khi thực thi sứ mạng cứu độ.
Nguyên nhân của sự khước từ này là do sự thành kiến của những người đồng hương của Chúa. Họ bị giới hạn tầm nhìn của mình nơi sự hiểu biết hẹp hòi về lý lịch gia đình của Người. Họ chỉ nhìn nhận Đức Giêsu là một con người chứ không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai. Nên họ không tin vào Người và không nhận ra căn tính đích thực của Người.
Vì thế, Đức Giêsu không làm một phép lạ nào tại chính quê hương mình. Điều đó không có nghĩa là vì Người đã bị tước đoạt quyền năng làm phép lạ, nhưng vì sự cứng lòng, thành kiến và thiếu niềm tin của người đồng hương. Những thái độ đó ngăn cản Chúa không muốn thực hiện những dấu lạ cho họ. Bởi lẽ, dẫu Thiên Chúa quyền năng, phán một lời liền có trời đất, nhưng Người phải dừng bước trước thái độ cứng lòng và thiếu cộng tác của con người. Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để lòe mắt thiên hạ, hay ra oai quyền phép thần thánh của mình. Phép lạ Người thực hiện như là kết quả và phần thưởng cho những ai đã tin. Như Chúa thường nói: “Đức Tin con cứu chữa con.”
Như thế, khi bắt đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu phải đối diện với sự khước từ và chống đối. Điều đó cho thấy mầu nhiệm thập giá luôn xuất hiện trong cuộc đời và sứ vụ của Người. Đỉnh cao của sự chống đối và khước từ đó chính là thập giá. Nơi đó, sự phản trắc, tệ bạc và độc ác của con người được phơi bày đến mức tột đỉnh. Nhưng nơi đó, lòng từ bi, nhân hậu và tình yêu của Thiên Chúa cũng đạt tới sự viên mãn vô biên. Một Thiên Chúa bị con người từ chối và đóng đinh vào thập giá. Một Thiên Chúa đón nhận tất cả sự bạc nhược vô ân đó bằng một tình yêu không bờ bến, nhờ đó để chữa lành và cứu độ con người.
3- Thái độ của người Kitô hữu
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có thể mắc phải thái độ thành kiến, hẹp hòi và vô ơn đối với Thiên Chúa và tha nhân như người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay. Thái độ thành kiến là một hàng rào ngăn cản con người tới việc khám phá chân lý và những gì mới mẻ của cuộc sống do Chúa Thánh Thần mang lại. Thành kiến nhốt con người trong tầm nhìn hạn hẹp của mình, như cóc ngồi ở đáy giếng chỉ nhìn trời bằng cái vung. Nên nó làm cho con người không nhận ra những điều kỳ diệu và tốt đẹp nơi người khác. Vì thế, chúng ta loại bỏ nơi mình thành kiến khi tiếp cận cuộc sống bằng cách biết mở rộng tầm nhìn, cởi mở và tôn trọng người khác, biết đón nhận và học hỏi những điều mới mẻ từ người khác, cũng như biết bao dung và chấp nhận những khác biệt của họ mà không hề có thái độ loại trừ. Cuộc sống này đáng ngưỡng mộ và có nhiều điều mới mẻ đối với ai biết sống tích cực và ngạc nhiên.
Đối với Thiên Chúa, mỗi ngày chúng ta được mời gọi luôn có thái độ ngoan ngùy trước những tác động của Chúa Thánh Thần, trở nên dễ bảo và sẵn sàng để được Người hướng dẫn. Bởi lẽ, Người không thể làm gì trước sự chai lì của chúng ta và phép lạ không thể xảy ra với những người không có niềm tin như Tin Mừng hôm nay minh chứng.
Nguyện xin Chúa biến đổi lòng trí chúng ta theo thánh ý của Người. Amen!
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ khách hành hương về lễ kính Thánh Gioan Bosco, linh mục lập Dòng
Thanh Quảng sdb
15:07 30/01/2019
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ khách hành hương về lễ kính Thánh Gioan Bosco, linh mục lập Dòng
Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi triều yết ngày 30 tháng 1 năm 2019, nhắc nhở các khách hành hương về ngày - 31 tháng 1 - lễ kính Cha Thánh Gioan Bosco.
ĐTC nói: Ngày mai chúng ta mừng lễ Cha thánh Gioan Bosco, một người cha và là thầy dậy của thanh thiếu niên, Ngài là một linh mục tuyệt vời! Don Bosco có khiếu làm cho những người trẻ mà Cha gặp gỡ cảm nghiệm được ‘Thiên Chúa yêu thương ôm ấp các em’, Cha thánh đã mang đến cho các em hy vọng, một nơi dung thân và hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Ước gì nếp sống chứng nhân của Ngài giúp chúng ta ý thức được tầm quan trọng của việc giáo dục các thế hệ mới trước các giá trị tinh thần và con người nhân bản chân chính.
Cha Thánh đã sáng lập một Tu hội sống và hoạt động theo ba quy tắc: Đừng bao làm thiệt hại, sống thiếu bác ái với tha nhân; hãy trở thành một nhà giáo dục hướng đạo cho tuổi trẻ và hãy luôn tươi vui lạc quan…
Don Bosco và con cái của Cha đã luôn cố sống trong niềm vui, chu toàn bổn phận và sống trong tin yêu tôn thờ Chúa và phục vụ tha nhân.
Nếu chúng ta muốn biết thêm về cuộc dời Cha Thánh Gioan Bosco hãy tìm đọc cuộc phỏng vấn của Thông tấn xã Zenit 2015 nhân dịp mừng kỷ niệm ngày sinh nhật lần thứ 200 của Cha thánh.
Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi triều yết ngày 30 tháng 1 năm 2019, nhắc nhở các khách hành hương về ngày - 31 tháng 1 - lễ kính Cha Thánh Gioan Bosco.
ĐTC nói: Ngày mai chúng ta mừng lễ Cha thánh Gioan Bosco, một người cha và là thầy dậy của thanh thiếu niên, Ngài là một linh mục tuyệt vời! Don Bosco có khiếu làm cho những người trẻ mà Cha gặp gỡ cảm nghiệm được ‘Thiên Chúa yêu thương ôm ấp các em’, Cha thánh đã mang đến cho các em hy vọng, một nơi dung thân và hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Ước gì nếp sống chứng nhân của Ngài giúp chúng ta ý thức được tầm quan trọng của việc giáo dục các thế hệ mới trước các giá trị tinh thần và con người nhân bản chân chính.
Cha Thánh đã sáng lập một Tu hội sống và hoạt động theo ba quy tắc: Đừng bao làm thiệt hại, sống thiếu bác ái với tha nhân; hãy trở thành một nhà giáo dục hướng đạo cho tuổi trẻ và hãy luôn tươi vui lạc quan…
Don Bosco và con cái của Cha đã luôn cố sống trong niềm vui, chu toàn bổn phận và sống trong tin yêu tôn thờ Chúa và phục vụ tha nhân.
Nếu chúng ta muốn biết thêm về cuộc dời Cha Thánh Gioan Bosco hãy tìm đọc cuộc phỏng vấn của Thông tấn xã Zenit 2015 nhân dịp mừng kỷ niệm ngày sinh nhật lần thứ 200 của Cha thánh.
Hội Đồng Giám Mục Venezuela: “Nhân danh Chúa và dân tộc đau khổ này chúng tôi yêu cầu chấm dứt tức khắc các cuộc đàn áp”
Đặng Tự Do
17:15 30/01/2019
Ủy ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Venezuela kêu gọi chế độ độc tài Nicolas Maduro phải chấm dứt tức khắc chính sách dùng bạo lực để đàn áp người dân nói lên nguyện vọng chính đáng của họ.
Một thông cáo từ ủy ban đã lặp lại những lời của Thánh Oscar Romero ngay trong tiêu đề của mình: “Nhân danh Chúa và nhân danh dân tộc đau khổ này, mà những lời than van vươn tới tận thiên đàng chúng tôi yêu cầu chấm dứt tức khắc các cuộc đàn áp”.
Ủy ban Công lý và Hòa bình tố cáo rằng kể từ ngày 22 tháng Giêng cho đến nay, các lực lượng an ninh của chế độ và các nhóm dân quân vũ trang mệnh danh là “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa” tại Venezuela đã đẩy mạnh các hành động bạo lực chống lại người biểu tình. Trước tình trạng đó, ủy ban viết: “Chúng tôi vô cùng phẫn uất trước tình trạng có quá nhiều cái chết, trước nỗi đau và sự đau khổ tột cùng của nhân dân chúng tôi. Số người bị thương, số người chết, số người bị giam giữ tùy tiện, bị tra tấn và bắt bớ tiếp tục tăng cao trên khắp quê hương chúng ta. Đó là một sự chà đạp thẳng thừng nhân phẩm và nhân quyền của công dân. Vì thế, chúng tôi thấy phải la lên: CHẤM DỨT TỨC KHẮC CÁC CUỘC ĐÀN ÁP.”
Ít nhất 35 người đã chết, và hơn 850 người bị bắt trong các cuộc biểu tình rầm rộ diễn ra trên khắp Venezuela vào tuần trước, cơ quan nhân quyền “Observatorio Venezolano de Conflictividad Social” - Đài quan sát xung đột Venezuela - cho biết như trên dựa trên thông tin thu thập được từ các nhà xác, các bệnh viện và tòa án.
Kể từ khi Maduro kế nhiệm Hugo Chávez làm tổng thống Venezuela năm 2013, đất nước này đã bị tàn phá bởi bạo lực và các biến động xã hội. Dưới thời chính phủ xã hội chủ nghĩa, nước này đã chứng kiến tình trạng thiếu hụt hàng hóa cơ bản nghiêm trọng, với lạm phát lên tới ước tính 1.3 triệu % vào năm ngoái, theo báo cáo của Quốc hội. Khoảng 3 triệu người đã di cư ra nước ngoài từ năm 2014. Đức Tổng Giám Mục José Luis Azuaje của tổng giáo phận Maracaibo, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Venezuela nhận xét chua chát rằng: “Từ một nước giàu có nhất trong khu vực, ngày nay nhiều người phải bươi thùng rác kiếm ăn.”
Việc Maduro tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ tổng thống thứ hai vào đầu tháng này đã thúc đẩy một làn sóng phản đối trên khắp đất nước. Maduro tuyên bố đã giành được chiến thắng trong một cuộc bầu cử độc diễn hồi tháng 5 năm 2018. Cuộc bầu cử tổng thống này bị phe đối lập tẩy chay và đã bị phần lớn cộng đồng quốc tế coi là một trò hề.
Hôm 9 tháng Giêng, các giám mục của Venezuela, khi kết thúc phiên khoáng đại, đã ra một tuyên bố khẳng định nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Maduro là bất hợp pháp. Đồng thời, các ngài lên tiếng ủng hộ các cuộc biểu tình ôn hòa, gọi họ là một dấu hiệu của Hy vọng cho sự thay đổi dân chủ cần thiết. Một số giám mục đã tham gia tuần hành. Ủy ban Công lý và Hòa bình của Hội Đồng Giám Mục cũng kêu gọi “cầu nguyện để trật tự xã hội theo đúng hiến pháp được khôi phục và chúng ta có thể trở lại một quốc gia thịnh vượng về tinh thần và vật chất.”
Giao tranh giữa cảnh sát và các nhóm dân quân phò Maduro với những người biểu tình diễn ra suốt đêm ngày thứ Ba 29 tháng Giêng tại khu vực Puerta Caracas. Những người biểu tình đã đốt cháy một trung tâm văn hóa đồ sộ của đảng cầm quyền Xã hội Thống nhất Venezuela. Maduro gọi những người đốt cháy trụ sở này là “bọn tội phạm phát xít” và đe doạ trừng trị thẳng tay.
Tin tức về một chiếc máy bay hành khách của Nga đáp xuống Caracas để đưa 20 tấn vàng ra nước ngoài đã khuấy động lòng căm phẫn của người dân Venezuela và thúc đẩy các cuộc biểu tình rầm rộ vào hôm thứ Tư 30 tháng Giêng.
Source: Catholic News Agency Stop the repression,' Venezuelan bishops plead
Một thông cáo từ ủy ban đã lặp lại những lời của Thánh Oscar Romero ngay trong tiêu đề của mình: “Nhân danh Chúa và nhân danh dân tộc đau khổ này, mà những lời than van vươn tới tận thiên đàng chúng tôi yêu cầu chấm dứt tức khắc các cuộc đàn áp”.
Ủy ban Công lý và Hòa bình tố cáo rằng kể từ ngày 22 tháng Giêng cho đến nay, các lực lượng an ninh của chế độ và các nhóm dân quân vũ trang mệnh danh là “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa” tại Venezuela đã đẩy mạnh các hành động bạo lực chống lại người biểu tình. Trước tình trạng đó, ủy ban viết: “Chúng tôi vô cùng phẫn uất trước tình trạng có quá nhiều cái chết, trước nỗi đau và sự đau khổ tột cùng của nhân dân chúng tôi. Số người bị thương, số người chết, số người bị giam giữ tùy tiện, bị tra tấn và bắt bớ tiếp tục tăng cao trên khắp quê hương chúng ta. Đó là một sự chà đạp thẳng thừng nhân phẩm và nhân quyền của công dân. Vì thế, chúng tôi thấy phải la lên: CHẤM DỨT TỨC KHẮC CÁC CUỘC ĐÀN ÁP.”
Ít nhất 35 người đã chết, và hơn 850 người bị bắt trong các cuộc biểu tình rầm rộ diễn ra trên khắp Venezuela vào tuần trước, cơ quan nhân quyền “Observatorio Venezolano de Conflictividad Social” - Đài quan sát xung đột Venezuela - cho biết như trên dựa trên thông tin thu thập được từ các nhà xác, các bệnh viện và tòa án.
Kể từ khi Maduro kế nhiệm Hugo Chávez làm tổng thống Venezuela năm 2013, đất nước này đã bị tàn phá bởi bạo lực và các biến động xã hội. Dưới thời chính phủ xã hội chủ nghĩa, nước này đã chứng kiến tình trạng thiếu hụt hàng hóa cơ bản nghiêm trọng, với lạm phát lên tới ước tính 1.3 triệu % vào năm ngoái, theo báo cáo của Quốc hội. Khoảng 3 triệu người đã di cư ra nước ngoài từ năm 2014. Đức Tổng Giám Mục José Luis Azuaje của tổng giáo phận Maracaibo, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Venezuela nhận xét chua chát rằng: “Từ một nước giàu có nhất trong khu vực, ngày nay nhiều người phải bươi thùng rác kiếm ăn.”
Việc Maduro tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ tổng thống thứ hai vào đầu tháng này đã thúc đẩy một làn sóng phản đối trên khắp đất nước. Maduro tuyên bố đã giành được chiến thắng trong một cuộc bầu cử độc diễn hồi tháng 5 năm 2018. Cuộc bầu cử tổng thống này bị phe đối lập tẩy chay và đã bị phần lớn cộng đồng quốc tế coi là một trò hề.
Hôm 9 tháng Giêng, các giám mục của Venezuela, khi kết thúc phiên khoáng đại, đã ra một tuyên bố khẳng định nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Maduro là bất hợp pháp. Đồng thời, các ngài lên tiếng ủng hộ các cuộc biểu tình ôn hòa, gọi họ là một dấu hiệu của Hy vọng cho sự thay đổi dân chủ cần thiết. Một số giám mục đã tham gia tuần hành. Ủy ban Công lý và Hòa bình của Hội Đồng Giám Mục cũng kêu gọi “cầu nguyện để trật tự xã hội theo đúng hiến pháp được khôi phục và chúng ta có thể trở lại một quốc gia thịnh vượng về tinh thần và vật chất.”
Giao tranh giữa cảnh sát và các nhóm dân quân phò Maduro với những người biểu tình diễn ra suốt đêm ngày thứ Ba 29 tháng Giêng tại khu vực Puerta Caracas. Những người biểu tình đã đốt cháy một trung tâm văn hóa đồ sộ của đảng cầm quyền Xã hội Thống nhất Venezuela. Maduro gọi những người đốt cháy trụ sở này là “bọn tội phạm phát xít” và đe doạ trừng trị thẳng tay.
Tin tức về một chiếc máy bay hành khách của Nga đáp xuống Caracas để đưa 20 tấn vàng ra nước ngoài đã khuấy động lòng căm phẫn của người dân Venezuela và thúc đẩy các cuộc biểu tình rầm rộ vào hôm thứ Tư 30 tháng Giêng.
Source: Catholic News Agency Stop the repression,' Venezuelan bishops plead
Đức Thánh Cha kêu gọi sống nền văn minh huynh đệ để giúp con người đạt được cứu cánh
Thanh Quảng sdb
21:23 30/01/2019
Đức Thánh Cha kêu gọi sống nền văn minh huynh đệ để giúp con người đạt được cứu cánh
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp tới Hội nghị Quốc tế kéo dài 3 ngày bàn về thế cân bằng thế giới ở Havana, Cuba.
Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi mọi người thiện chí hãy cùng nhau đối thoại trong khuôn khổ tương kính để xây dựng một nền văn minh huynh đệ nhằm đưa con người đến cứu cánh.
ĐTC gửi một thông điệp tới Hội nghị Quốc tế bàn về thế Cân bằng thế giới lần thứ 4 khai mạc vào thứ Hai ngày 28/1 tại Havana, Cuba.
Cuộc họp ngày 28-31 tháng 1 do Dự án Đoàn kết Quốc tế của Jose Martí tổ chức nhằm mục đích khá nhạy cảm với nhân loại và kích thích xây dựng một thế giới tốt hơn đó là “Thế cân bằng”, bền vững, công bằng và hòa bình thông qua các cuộc tranh luận bình đẳng rộng rãi.
José Martí là một nhà cách mạng, nhà thơ, nhà báo người Cuba sống trong thế kỷ 19, người tổ chức cuộc đấu tranh giành độc lập cho Cuba, là một anh hùng dân tộc và là một nhân vật quan trọng thuộc Châu Mỹ Latinh.
Cổ súy cho con người
Chúng ta nhận xét tinh tế một chút sẽ nhận ra rằng nhiều sự kiện khác nhau đang góp phần đáng kể gây ra nguy cơ của thế mất cân bằng cho xã hội và nền văn minh hiện nay, Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thông điệp kêu gọi mọi người có thiện chí đoàn kết và cùng bàn luận các sự kiện có nguy cơ đưa tới sự bất cân bằng trong thế giới, hầu mang lại một sự thăng tiến đích thực cho con người. ĐTC xác quyết “Những người cam kết bảo vệ phẩm giá con người, có thể tìm gặp niềm tin Kitô giáo như cội nguồn sâu sắc nhất cho những cam kết này. "
Đức Thánh Cha Phanxicô, người Argentina kêu gọi những thành viên tham dự hội nghị hãy rút tỉa ra nguồn cảm hứng từ những suy tư và lý thuyết của Jose Marti, người mà Thánh Giáo Hoàng John Paul II mô tả là một con người của ánh sáng.
Môi trường
Đức Thánh Cha nêu ra thêm rằng môi trường của con người và môi trường tự nhiên phải song hành với nhau và cũng có thể bị suy thoái cùng nhau. Theo Ngài thì suy thoái môi trường không thể được giải quyết thỏa đáng nếu chúng ta không tìm hiểu nguyên nhân có liên quan đến những suy thoái của con người và xã hội.
Giới Trẻ
Về vấn đề này, ĐTC nhắc nhở rằng văn hóa gặp gỡ phải được thúc đẩy, đặc biệt nơi những người trẻ, bằng cách phát huy tình hữu nghị xã hội đoàn kết mọi người trong mục tiêu chung là làm thăng tiến con người.
Đức Thánh Cha hy vọng rằng công việc làm và những suy tư của Đại hội tại Havana này sẽ mang lại nhiếu thành quả hiểu biết và đối thoại trong tiến trình tiến đạt một nền văn minh huynh đệ hơn bao giờ hết.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp tới Hội nghị Quốc tế kéo dài 3 ngày bàn về thế cân bằng thế giới ở Havana, Cuba.
Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi mọi người thiện chí hãy cùng nhau đối thoại trong khuôn khổ tương kính để xây dựng một nền văn minh huynh đệ nhằm đưa con người đến cứu cánh.
ĐTC gửi một thông điệp tới Hội nghị Quốc tế bàn về thế Cân bằng thế giới lần thứ 4 khai mạc vào thứ Hai ngày 28/1 tại Havana, Cuba.
Cuộc họp ngày 28-31 tháng 1 do Dự án Đoàn kết Quốc tế của Jose Martí tổ chức nhằm mục đích khá nhạy cảm với nhân loại và kích thích xây dựng một thế giới tốt hơn đó là “Thế cân bằng”, bền vững, công bằng và hòa bình thông qua các cuộc tranh luận bình đẳng rộng rãi.
José Martí là một nhà cách mạng, nhà thơ, nhà báo người Cuba sống trong thế kỷ 19, người tổ chức cuộc đấu tranh giành độc lập cho Cuba, là một anh hùng dân tộc và là một nhân vật quan trọng thuộc Châu Mỹ Latinh.
Cổ súy cho con người
Chúng ta nhận xét tinh tế một chút sẽ nhận ra rằng nhiều sự kiện khác nhau đang góp phần đáng kể gây ra nguy cơ của thế mất cân bằng cho xã hội và nền văn minh hiện nay, Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thông điệp kêu gọi mọi người có thiện chí đoàn kết và cùng bàn luận các sự kiện có nguy cơ đưa tới sự bất cân bằng trong thế giới, hầu mang lại một sự thăng tiến đích thực cho con người. ĐTC xác quyết “Những người cam kết bảo vệ phẩm giá con người, có thể tìm gặp niềm tin Kitô giáo như cội nguồn sâu sắc nhất cho những cam kết này. "
Đức Thánh Cha Phanxicô, người Argentina kêu gọi những thành viên tham dự hội nghị hãy rút tỉa ra nguồn cảm hứng từ những suy tư và lý thuyết của Jose Marti, người mà Thánh Giáo Hoàng John Paul II mô tả là một con người của ánh sáng.
Môi trường
Đức Thánh Cha nêu ra thêm rằng môi trường của con người và môi trường tự nhiên phải song hành với nhau và cũng có thể bị suy thoái cùng nhau. Theo Ngài thì suy thoái môi trường không thể được giải quyết thỏa đáng nếu chúng ta không tìm hiểu nguyên nhân có liên quan đến những suy thoái của con người và xã hội.
Giới Trẻ
Về vấn đề này, ĐTC nhắc nhở rằng văn hóa gặp gỡ phải được thúc đẩy, đặc biệt nơi những người trẻ, bằng cách phát huy tình hữu nghị xã hội đoàn kết mọi người trong mục tiêu chung là làm thăng tiến con người.
Đức Thánh Cha hy vọng rằng công việc làm và những suy tư của Đại hội tại Havana này sẽ mang lại nhiếu thành quả hiểu biết và đối thoại trong tiến trình tiến đạt một nền văn minh huynh đệ hơn bao giờ hết.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tài Liệu Sau Cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2018 về Giới Trẻ, Kết luận và Kết quả bỏ phiếu
Vũ Văn An
18:38 30/01/2019
Kết luận
Được kêu gọi nên thánh
165. Mọi sự đa dạng về ơn gọi đều tụ hội trong một lời kêu gọi duy nhất và phổ quát là nên thánh, một việc, xét cho cùng, không thể là gì khác ngoài việc hoàn tất lời kêu gọi tiến tới niềm vui của tình yêu đang vang lên trong trái tim của mọi người trẻ. Thật vậy, chỉ khởi từ ơn gọi duy nhất nên thánh này, các dạng sống khác nhau mới có thể ăn khớp với nhau, khi biết rằng Thiên Chúa "muốn chúng ta nên thánh và Người không mong đợi chúng ta tự bằng lòng với một cuộc sống tầm thường, êm dịu, không vững vàng"(Đức Phanxicô, Gaudete et exsultate, số 1). Sự thánh thiện có nguồn vô tận của nó nơi Chúa Cha, Đấng, nhờ Chúa Thánh Thần của Người, gửi cho chúng ta Chúa Giêsu, "Đấng thánh của Thiên Chúa" (Mc 1: 24), đến giữa chúng ta để biến chúng ta thành thánh nhờ tình bạn với Người, Đấng đem niềm vui và bình an vào đời chúng ta. Tìm cách tiếp xúc sống động với sự hiện hữu hạnh phúc của Chúa Giêsu, trong mục vụ thông thường của Giáo hội, là điều kiện căn bản của mọi sự đổi mới.
Đánh thức thế giới bằng sự nên thánh
166. Chúng ta phải là thánh để có thể mời gọi người trẻ trở thành như vậy. Người trẻ đã kiên quyết đòi hỏi một Giáo hội chân chính, rõi sáng, minh bạch và hân hoan: chỉ một Giáo hội của các vị thánh mới có thể xứng hợp với các yêu cầu này! Nhiều người trong số họ đã rời bỏ Giáo Hội vì họ không tìm thấy sự thánh thiện, mà chỉ là sự tầm thường, tự phụ, chia rẽ và thối nát. Thật không may, thế giới phẫn nộ bởi sự lạm dụng của một số người trong Giáo hội hơn là tươi vui bởi sự thánh thiện của các thành viên Giáo Hội: đó là lý do tại sao toàn thể Giáo hội phải đạt được một sự thay đổi vững chắc về viễn tượng, tức thời và triệt để! Người trẻ cần các vị thánh để đào tạo các vị thánh khác, bằng cách nhờ thế cho thấy rằng "sự thánh thiện là khuôn mặt đẹp nhất của Giáo hội" (Đức Phanxicô, Gaudete và exsultate, số 9). Có một ngôn ngữ mà mọi người đàn ông và đàn bà ở mọi thời, mọi nơi và mọi nền văn hóa đều có thể hiểu vì đó là ngôn ngữ tức thời và sáng láng: đó là ngôn ngữ của sự thánh thiện.
Được lôi kéo bởi sự thánh thiện của người trẻ
167. Điều xem ra rõ ràng từ khi bắt đầu hành trình thượng hội đồng là người trẻ là một phần cấu tạo của Giáo hội. Do đó, sự thánh thiện của họ cũng là như vậy, và, trong nhiều thập niên qua, nó đã tạo được một mùa hoa muôn mầu ở khắp mọi nơi trên thế giới: chiêm ngưỡng và suy ngẫm trong thời gian Thượng hội đồng sự can đảm của nhiều người trẻ, những người đã từ bỏ mạng sống của họ để trung thành với Tin Mừng, quả là việc gây xúc động đối với chúng ta; lắng nghe các chứng từ của người trẻ có mặt tại Thượng hội đồng, những người, giữa những cuộc bách hại, đã chọn chia sẻ cuộc thống khổ của Chúa Giêsu, quả là điều làm ta được tái sinh. Nhờ sự thánh thiện của tuổi trẻ, Giáo hội có thể làm sống lại sự hăng say thiêng liêng và sinh lực tông đồ của mình. Dầu thơm thánh thiện phát sinh từ sự tốt lành trong đời sống của rất nhiều người trẻ có thể chữa lành các vết thương của Giáo hội và thế giới, bằng cách đưa chúng ta trở lại với sự viên mãn của tình yêu mà chúng ta vốn luôn được mời gọi: các vị thánh trẻ thúc đẩy ta trở về với tình yêu đầu tiên của chúng ta (xem Kh 2: 4).
_____________________________________________________________________________________________________________
[1] Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Tính đồng nghị trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, ngày 02 Tháng 3 năm 2018, số 9. Bên cạnh đó, tài liệu này minh họa bản chất của Tính đồng nghị bằng các hạn từ sau đây: "Chiều kích đồng nghị của Giáo hội nói lên tư cách chủ thể tích cực của mọi người đã chịu phép rửa và, đồng thời, vai trò chuyên biệt của thừa tác vụ giám mục trong hiệp thông hợp đoàn và phẩm trật với Giám mục Rôma. Viễn kiến giáo hội học này mời gọi cổ vũ việc triển khai hiệp thông đồng nghị giữa "mọi người", "nhiều người" và "một người". Ở các trình độ và dưới nhiều hình thức khác nhau, trên bình diện các Giáo Hội địa phương, trên bình diện họp nhóm của các giáo hội này ở cấp khu vực và trên bình diện của Giáo Hội hoàn vũ, tính đồng nghị hàm nghĩa việc thực thi sensus fidei (cảm thức đức tin) của Universitas fidelium (toàn bộ tín hữu = mọi người), thừa tác vụ hướng dẫn của hợp đoàn Giám mục, mỗi vị với linh mục đoàn của mình (nhiều người) và thừa tác vụ hợp nhất của Giám mục và Giáo hoàng (một người). Cũng liên hợp như thế, trong tính năng động đồng nghị, là khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể dân Chúa, chiều kích hợp đoàn liên hệ tới việc thi hành thừa tác vụ giám mục và thừa tác vụ tối thượng của Giám Mục Rôma. Sự tương quan qua lại này khuyến khích singularis conspiratio (sự hợp tác độc đáo) giữa các tín hữu và các mục tử, vốn là hình ảnh của conspiratio (sự hợp tác) vĩnh cửu hằng sống trong Thiên Chúa Ba Ngôi "(số 64).
Được kêu gọi nên thánh
165. Mọi sự đa dạng về ơn gọi đều tụ hội trong một lời kêu gọi duy nhất và phổ quát là nên thánh, một việc, xét cho cùng, không thể là gì khác ngoài việc hoàn tất lời kêu gọi tiến tới niềm vui của tình yêu đang vang lên trong trái tim của mọi người trẻ. Thật vậy, chỉ khởi từ ơn gọi duy nhất nên thánh này, các dạng sống khác nhau mới có thể ăn khớp với nhau, khi biết rằng Thiên Chúa "muốn chúng ta nên thánh và Người không mong đợi chúng ta tự bằng lòng với một cuộc sống tầm thường, êm dịu, không vững vàng"(Đức Phanxicô, Gaudete et exsultate, số 1). Sự thánh thiện có nguồn vô tận của nó nơi Chúa Cha, Đấng, nhờ Chúa Thánh Thần của Người, gửi cho chúng ta Chúa Giêsu, "Đấng thánh của Thiên Chúa" (Mc 1: 24), đến giữa chúng ta để biến chúng ta thành thánh nhờ tình bạn với Người, Đấng đem niềm vui và bình an vào đời chúng ta. Tìm cách tiếp xúc sống động với sự hiện hữu hạnh phúc của Chúa Giêsu, trong mục vụ thông thường của Giáo hội, là điều kiện căn bản của mọi sự đổi mới.
Đánh thức thế giới bằng sự nên thánh
166. Chúng ta phải là thánh để có thể mời gọi người trẻ trở thành như vậy. Người trẻ đã kiên quyết đòi hỏi một Giáo hội chân chính, rõi sáng, minh bạch và hân hoan: chỉ một Giáo hội của các vị thánh mới có thể xứng hợp với các yêu cầu này! Nhiều người trong số họ đã rời bỏ Giáo Hội vì họ không tìm thấy sự thánh thiện, mà chỉ là sự tầm thường, tự phụ, chia rẽ và thối nát. Thật không may, thế giới phẫn nộ bởi sự lạm dụng của một số người trong Giáo hội hơn là tươi vui bởi sự thánh thiện của các thành viên Giáo Hội: đó là lý do tại sao toàn thể Giáo hội phải đạt được một sự thay đổi vững chắc về viễn tượng, tức thời và triệt để! Người trẻ cần các vị thánh để đào tạo các vị thánh khác, bằng cách nhờ thế cho thấy rằng "sự thánh thiện là khuôn mặt đẹp nhất của Giáo hội" (Đức Phanxicô, Gaudete và exsultate, số 9). Có một ngôn ngữ mà mọi người đàn ông và đàn bà ở mọi thời, mọi nơi và mọi nền văn hóa đều có thể hiểu vì đó là ngôn ngữ tức thời và sáng láng: đó là ngôn ngữ của sự thánh thiện.
Được lôi kéo bởi sự thánh thiện của người trẻ
167. Điều xem ra rõ ràng từ khi bắt đầu hành trình thượng hội đồng là người trẻ là một phần cấu tạo của Giáo hội. Do đó, sự thánh thiện của họ cũng là như vậy, và, trong nhiều thập niên qua, nó đã tạo được một mùa hoa muôn mầu ở khắp mọi nơi trên thế giới: chiêm ngưỡng và suy ngẫm trong thời gian Thượng hội đồng sự can đảm của nhiều người trẻ, những người đã từ bỏ mạng sống của họ để trung thành với Tin Mừng, quả là việc gây xúc động đối với chúng ta; lắng nghe các chứng từ của người trẻ có mặt tại Thượng hội đồng, những người, giữa những cuộc bách hại, đã chọn chia sẻ cuộc thống khổ của Chúa Giêsu, quả là điều làm ta được tái sinh. Nhờ sự thánh thiện của tuổi trẻ, Giáo hội có thể làm sống lại sự hăng say thiêng liêng và sinh lực tông đồ của mình. Dầu thơm thánh thiện phát sinh từ sự tốt lành trong đời sống của rất nhiều người trẻ có thể chữa lành các vết thương của Giáo hội và thế giới, bằng cách đưa chúng ta trở lại với sự viên mãn của tình yêu mà chúng ta vốn luôn được mời gọi: các vị thánh trẻ thúc đẩy ta trở về với tình yêu đầu tiên của chúng ta (xem Kh 2: 4).
_____________________________________________________________________________________________________________
[1] Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Tính đồng nghị trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, ngày 02 Tháng 3 năm 2018, số 9. Bên cạnh đó, tài liệu này minh họa bản chất của Tính đồng nghị bằng các hạn từ sau đây: "Chiều kích đồng nghị của Giáo hội nói lên tư cách chủ thể tích cực của mọi người đã chịu phép rửa và, đồng thời, vai trò chuyên biệt của thừa tác vụ giám mục trong hiệp thông hợp đoàn và phẩm trật với Giám mục Rôma. Viễn kiến giáo hội học này mời gọi cổ vũ việc triển khai hiệp thông đồng nghị giữa "mọi người", "nhiều người" và "một người". Ở các trình độ và dưới nhiều hình thức khác nhau, trên bình diện các Giáo Hội địa phương, trên bình diện họp nhóm của các giáo hội này ở cấp khu vực và trên bình diện của Giáo Hội hoàn vũ, tính đồng nghị hàm nghĩa việc thực thi sensus fidei (cảm thức đức tin) của Universitas fidelium (toàn bộ tín hữu = mọi người), thừa tác vụ hướng dẫn của hợp đoàn Giám mục, mỗi vị với linh mục đoàn của mình (nhiều người) và thừa tác vụ hợp nhất của Giám mục và Giáo hoàng (một người). Cũng liên hợp như thế, trong tính năng động đồng nghị, là khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể dân Chúa, chiều kích hợp đoàn liên hệ tới việc thi hành thừa tác vụ giám mục và thừa tác vụ tối thượng của Giám Mục Rôma. Sự tương quan qua lại này khuyến khích singularis conspiratio (sự hợp tác độc đáo) giữa các tín hữu và các mục tử, vốn là hình ảnh của conspiratio (sự hợp tác) vĩnh cửu hằng sống trong Thiên Chúa Ba Ngôi "(số 64).
Kết quả đầu phiếu | |||
CÓ QUYỀN BỎ PHIẾU = 268 | |||
BỎ PHIẾU PHẦN I và II – HIỆN ĐIỆN = 249 - 2/3 những người hiện diện = 166 | |||
SỐ | TỰA ĐỀ | Thuận | Không thuận |
DẪN NHẬP | |||
1. | Biến cố Thượng Hội Đồng chúng ta đã sống | 227 | 1 |
2. | Diễn trình chuẩn bị | 229 | 1 |
3. | Tài Liệu Sau Cùng của Cuộc Họp Thượng hội đồng | 191 | 43 |
LỜI MỞ ĐẦU | |||
4. | Chúa Giêsu cùng đi với các môn đệ Emmau | 235 | 2 |
PHẦN I | |||
5. | “NGƯỜI CÙNG ĐI VỚI HỌ” | 239 | 1 |
Chương I: Một Giáo Hội lắng nghe | |||
Nghe và nhìn một cách tương cảm | |||
6. | Giá trị của việc lắng nghe | 238 | 2 |
7. | Các người trẻ muốn được lắng nghe | 238 | 1 |
8. | Lắng nghe trong Giáo hội | 236 | 5 |
9. | Lắng nghe các mục tử và giáo dân có tư cách | 235 | 7 |
Sự đa dạng của các bối cảnh và các nền văn hóa | |||
10. | Một thế giới ở số nhiều | 240 | 0 |
11. | Những thay đổi hiện có | 238 | 2 |
12. | Loại trừ và bị đẩy ra bên lề | 240 | 1 |
13. | Đàn ông và đàn bà | 221 | 18 |
14. | Thực dân văn hóa | 233 | 5 |
Cái nhìn đầu tiên về Giáo hội ngày nay | |||
15. | Cam kết giáo dục của Giáo hội | 233 | 2 |
16. | Các hoạt động của mục vụ tuổi trẻ | 238 | 3 |
17. | Sức nặng của việc quản trị hành chánh | 220 | 16 |
18. | Tình hình các giáo xứ | 228 | 9 |
19. | Khai tâm vào đời sống Kitô giáo | 239 | 2 |
20. | Việc đào tạo các chủng sinh và những người thánh hiến | 227 | 12 |
Chương II: Ba khía cạnh quan yếu | |||
Các mới lạ của thế giới kỹ thuật số | |||
21. | Một thực tại hiện diện khắp nơi | 235 | 3 |
22. | Mạng lưới cơ hội | 231 | 3 |
23. | Mặt tối của mạng lưới | 232 | 2 |
24. | Mặt tối của mạng lưới (phần 2) | 235 | 3 |
Các di dân như điển hình thời ta | |||
25. | Một hiện tượng nhiều mặt | 231 | 7 |
26. | Bạo lực và dễ bị tổn thương | 234 | 5 |
27. | Các câu chuyện phân ly và gặp gỡ | 234 | 3 |
28. | Vai trò tiên tri của Giáo hội | 235 | 3 |
Nhận biết và phản ứng trước mọi loại lạm dụng | |||
29. | Tỏ sự thật và xin tha thứ | 208 | 30 |
30. | Đi đến tận gốc | 204 | 31 |
31. | Lòng biết ơn và sự khích lệ | 234 | 8 |
Chương III: Căn tính và các mối liên hệ | |||
Gia đình và các tương quan liên thế hệ | |||
32. | Gia đình, điểm tham chiếu ưu việt | 237 | 2 |
33. | Tầm quan trọng của việc làm mẹ và làm cha | 222 | 18 |
34. | Các mối tương quan liên thế hệ | 237 | 1 |
35. | Giới trẻ và cội nguồn văn hóa | 233 | 4 |
36. | Tình bạn và các tương quan đồng trang lứa | 239 | 2 |
Cơ thể và cảm giới | |||
37. | Các thay đổi đang diễn tiến | 206 | 33 |
38. | Tiếp nhận các giáo huấn đạo đức của Giáo hội | 214 | 25 |
39. | Các vấn đề của người trẻ | 195 | 43 |
Các hình thức dễ bị thương tổn | |||
40. | Thế giới việc làm | 235 | 2 |
41. | Bạo lực và bách hại | 239 | 1 |
42. | Việc đẩy ra bên lề và bất ổn xã hội | 234 | 3 |
43. | Kinh nghiệm đau khổ | 241 | 1 |
44. | Tài nguyên dễ bị tổn thương | 235 | 3 |
Chương IV: Làm người trẻ ngày nay | |||
Các khía cạnh của nền văn hóa tuổi trẻ ngày nay | |||
45. | Tính độc đáo và chuyên biệt | 238 | 2 |
46. | Dấn thân và tham gia xã hội | 235 | 1 |
47. | Nghệ thuật, âm nhạc và thể thao | 232 | 7 |
Linh đạo và lòng đạo | |||
48. | Các bối cảnh tôn giáo khác nhau | 239 | 1 |
49. | Nghiên cứu tôn giáo | 238 | 1 |
50. | Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu | 238 | 1 |
51. | Mong muốn một phụng vụ sống động | 227 | 9 |
Tham gia và tính chủ động (protagonisme) | |||
52. | Giới trẻ muốn trở thành những người chủ động | 230 | 9 |
53. | Các lý do ra xa cách | 234 | 8 |
54. | Người trẻ trong Giáo hội | 235 | 3 |
55. | Phụ nữ trong Giáo Hội | 209 | 30 |
56. | Nhiệm vụ của người trẻ đối với những người đồng trang lứa | 237 | 2 |
57. | Mong muốn một cộng đồng giáo hội chân thực và huynh đệ hơn | 234 | 8 |
PHẦN II: | |||
58. | "Mắt họ mở ra" | 238 | 1 |
Một lễ Ngũ tuần mới | |||
59. | Hành động của Chúa Thánh Thần | 234 | 2 |
60. | Chúa Thánh Thần làm trẻ trung Giáo hội | 236 | 4 |
61. | Chúa Thánh Thần trong đời sống tín hữu | 238 | 2 |
62. | Một trải nghiệm đích thực về Thiên Chúa | 240 | 3 |
Chương I: Hồng phúc tuổi trẻ | |||
Chúa Giêsu trẻ giữa những người trẻ | |||
63. | Tuổi trẻ của Chúa Giêsu | 232 | 9 |
64. | Với ánh mắt của Chúa | 236 | 5 |
65. | Các đặc điểm của tuổi vị thành niên | 232 | 7 |
66. | Mối lo lắng lành mạnh của người trẻ | 232 | 5 |
67. | Các người trẻ bị thương | 235 | 5 |
Trở thành người lớn | |||
68. | Tuổi lựa chọn | 238 | 1 |
69. | Hiện hữu dưới dấu chỉ sứ mệnh | 238 | 2 |
70. | Một phương pháp sư phạm có thể chất vấn | 236 | 3 |
71. | Ý nghĩa thực sự của thẩm quyền | 237 | 1 |
72. | Mối liên kết với gia đình | 244 | 0 |
Được kêu gọi tới tự do | |||
73. | Tin Mừng về tự do | 226 | 4 |
74. | Một tự do có tính đáp ứng | 239 | 1 |
75. | Tự do và đức tin | 235 | 0 |
76. | Tự do bị thương tích và được chuộc lại | 238 | 0 |
Chương II: Mầu nhiệm ơn gọi | |||
Tìm kiếm ơn gọi | |||
77. | Ơn gọi, hành trình và khám phá | 237 | 3 |
78. | Ơn gọi, ơn thánh và tự do | 236 | 3 |
79. | Sáng tạo và ơn gọi | 235 | 3 |
80. | Vì một nền văn hóa ơn gọi | 230 | 10 |
Ơn gọi theo Chúa Giêsu | |||
81. | Sự lôi cuốn của Chúa Giêsu | 238 | 1 |
82. | Đức tin, ơn gọi và tình huống người môn đệ | 237 | 3 |
83. | Đức Trinh Nữ Maria | 236 | 2 |
Ơn gọi và các ơn gọi | |||
84. | Ơn gọi và sứ mệnh của Giáo hội | 230 | 2 |
85. | Sự đa dạng của các đặc sủng | 239 | 3 |
86. | Chuyên nghiệp và ơn gọi | 232 | 7 |
87. | Gia đình | 210 | 6 |
88. | Đời sống thánh hiến | 227 | 4 |
89. | Thừa tác vụ thụ phong | 231 | 7 |
90. | Tình trạng các "người độc thân" | 212 | 29 |
Chương III: Sứ mệnh đồng hành | |||
Giáo hội đồng hành | |||
91. | Đối diện với các lựa chọn | 234 | 2 |
92. | Cùng nhau bẻ bánh | 238 | 1 |
93. | Các môi trường và vai trò | 238 | 3 |
94. | Đồng hành với sự hội nhập vào xã hội | 241 | 3 |
Đồng hành cộng đồng, nhóm và bản thân | |||
95. | Một căng thẳng phong phú | 243 | 3 |
96. | Đồng hành cộng đồng và nhóm | 240 | 3 |
97. | Đồng hành thiêng liêng có tính bản thân | 241 | 3 |
98. | Đồng hành và Bí tích Hòa giải | 239 | 6 |
99. | Đồng hành toàn diện | 236 | 5 |
100. | Đồng hành trong việc đào tạo để gia nhập thừa tác vụ thụ phong và đời sống thánh hiến | 241 | 5 |
Các người đồng hành có phẩm chất | |||
101. | Được kêu gọi để đồng hành | 239 | 2 |
102. | Khuôn dạng người đồng hành | 240 | 4 |
103. | Sự quan trọng của việc đào tạo | 237 | 4 |
Chương IV: Nghệ thuật biện phân | |||
Giáo hội, môi trường biện phân | |||
104. | Rất nhiều ý nghĩa trong các truyền thống linh đạo | 235 | 3 |
105. | Tại tâm điểm Lời Chúa và Giáo Hội | 236 | 3 |
Lương tâm trong biện phân | |||
106. | Chúa nói với trái tim | 223 | 20 |
107. | Ý niệm Kitô giáo về lương tâm | 219 | 23 |
108. | Việc đào tạo lương tâm | 205 | 36 |
109. | Lương tâm giáo hội | 205 | 34 |
Việc thực hành biện phân | |||
110. | Quen thuộc với Chúa | 238 | 3 |
111. | Các thiên hướng của trái tim | 235 | 4 |
112. | Đối thoại đồng hành | 238 | 2 |
113. | Quyết định và xác nhận | 238 | 3 |
CÓ QUYỀN BỎ PHIẾU = 268 | |||
BỎ PHIẾU PHẦN III - HIỆN DIỆN = 248 - 2/3 người hiện diện = 166 | |||
PHẦN III | |||
114. | "NGAY GIỜ ẤY, HỌ LÊN ĐƯỜNG" | 242 | 0 |
Một Giáo Hội trẻ trung | |||
115. | Một hình tượng của phục sinh | 241 | 2 |
116. | Lên đường với người trẻ | 241 | 1 |
117. | Mong muốn vươn tới mọi người trẻ | 223 | 17 |
118. | Hồi tâm thiêng liêng, mục vụ và truyền giáo | 214 | 25 |
Chương I: Tính đồng nghị truyền giáo của Giáo hội | |||
Tính năng động tạo lập (Un dynamisme constitutif) | |||
119. | Người trẻ yêu cầu chúng ta cùng đi đường với nhau. | 206 | 34 |
120. | Diễn trình đồng nghị vẫn tiếp tục | 203 | 39 |
121. | Hình thức đồng nghị của Giáo hội | 191 | 51 |
122. | Hình thức đồng nghị của Giáo hội (phần 2) | 199 | 43 |
123. | Một Giáo Hội có tính tham gia và đồng trách nhiệm | 202 | 38 |
124. | Diễn trình biện phân cộng đồng | 208 | 33 |
Một phong cách để truyền giáo | |||
125. | Hiệp thông truyền giáo | 215 | 26 |
126. | Một sứ mệnh trong đối thoại | 230 | 10 |
127. | Hướng về các vùng ngoại vi của thế giới | 228 | 11 |
CHƯƠNG II: Cùng nhau bước trong những điều hàng ngày | |||
Từ các cơ cấu đến các mối liên hệ | |||
128. | Từ ủy quyền đến can dự trực tiếp | 224 | 13 |
129. | Đổi mới giáo xứ | 225 | 11 |
130. | Các cơ cấu mở và khó đoán | 222 | 15 |
Đời sống cộng đồng | |||
131. | Một tranh ghép nhiều khuôn mặt | 229 | 9 |
132. | Cộng đồng trên lãnh thổ | 229 | 8 |
133. | Sứ điệp sơ truyền (kérygme) và việc dạy giáo lý | 231 | 9 |
134. Tính trung tâm của phụng vụ 230 10 | |||
135. | Tính trung tâm của phụng vụ (phần 2) | 223 | 15 |
136. | Tính trung tâm của phụng vụ (phần 3) | 236 | 4 |
137. | Sự quảng đại phục vụ (diakonia) | 239 | 4 |
Mục vụ người trẻ trong một viễn tượng ơn gọi | |||
138. | Giáo hội, một ngôi nhà cho người trẻ | 236 | 6 |
139. | Lên sinh khí ơn gọi cho nền mục vụ | 234 | 3 |
140. | Một nền mục vụ ơn gọi cho người trẻ | 233 | 8 |
141. | Từ phân mảnh đến tích nhập | 230 | 8 |
142. | Mối quan hệ hữu hiệu giữa các biến cố và cuộc sống hàng ngày | 237 | 4 |
143. | Các trung tâm tuổi trẻ | 232 | 6 |
CHƯƠNG III: Một đà truyền giáo mới | |||
144. | Một số thách thức cấp bách | 222 | 17 |
145. | Sứ mệnh trong môi trường kỹ thuật số | 237 | 3 |
146. | Sứ mệnh trong môi trường kỹ thuật số (phần 2) | 234 | 6 |
147. | Di dân: hạ các bức tường và bắc các cây cầu | 228 | 12 |
148. | Phụ nữ trong Giáo hội đồng nghị | 201 | 38 |
149. | Tính dục: một từ ngữ rõ ràng, phóng khoáng, chân chính | 214 | 26 |
150. | Tính dục: một từ ngữ rõ ràng, phóng khoáng, chân chính (phần 2) | 178 | 65 |
151. | Kinh tế, chính trị, việc làm, ngôi nhà chung | 230 | 7 |
152. | Kinh tế, chính trị, việc làm, ngôi nhà chung (phần 2) | 236 | 1 |
153. | Kinh tế, chính trị, việc làm, ngôi nhà chung (phần 3) | 233 | 6 |
154. | Kinh tế, chính trị, việc làm, ngôi nhà chung (phần 4) | 229 | 6 |
155. | Trong các bối cảnh liên văn hóa và liên tôn giáo | 225 | 13 |
156. | Giới trẻ vì đối thoại đại kết | 228 | 9 |
CHƯƠNG IV: Đào tạo toàn diện | |||
157. | Tính cụ thể, tính phức tạp và tính toàn diện | 233 | 9 |
158. | Giáo dục, trường học và đại học | 230 | 6 |
159. | Chuẩn bị các nhà đào tạo mới | 230 | 7 |
160. | Đào tạo các môn đệ truyền giáo | 230 | 7 |
161. | Một thời để đồng hành với việc biện phân | 229 | 13 |
162. | Đồng hành với hôn nhân | 231 | 9 |
163. | Việc đào tạo các chủng sinh và các người thánh hiến | 217 | 22 |
164. | Việc đào tạo các chủng sinh và các người thánh hiến (phần 2) | 211 | 25 |
KẾT LUẬN | |||
165. | Được kêu gọi nên thánh | 234 | 2 |
166. | Đánh thức thế giới bằng sự nên thánh | 216 | 8 |
167. | Được lôi kéo bởi sự thánh thiện của người trẻ | 239 | 2 |
Văn Hóa
Chuyện con Heo
Trầm Thiên Thu
17:57 30/01/2019
TĂNG ĐỨC, TĂNG ÂN, TĂNG THÁNH THIỆN
ĐƯỢM TÌNH, ĐƯỢM NGHĨA, ĐƯỢM HY SINH
Năm 2019 là năm Kỷ Hợi – năm con HEO (lợn). Cứ 12 năm thì con HEO lại xuất hiện – gọi là năm HỢI, nhưng phải 60 năm thì con HEO mới xuất hiện với cái tên KỶ HỢI – gọi là lục thập hoa giáp.
Heo là loài vật đã gắn bó lâu đời với con người và có nhiều câu chuyện về con vật này. Trong văn hóa, con heo cũng được gọi bằng các tên khác như chú ỉn, cậu hợi, lão trư. Trong văn hóa Đông phương, Heo là con vật đứng cuối cùng trong 12 con giáp, và cũng đứng cuối cùng trong lục súc – sáu loại gia súc nuôi ở nhà: Ngựa (mã), Trâu/Bò (ngưu), Cừu/Dê (dương), Chó (cẩu), Heo (trư), và Gà (kê). Theo sách Tam Tự Kinh, thứ tự của lục súc là Mã (ngựa), Ngưu (trâu), Dương (dê), Kê (gà), Khuyển (chó), Thỉ (heo).
Heo là một trong các động vật tượng trưng cho chu kỳ 12 năm của Địa Chi trong nhiều tính toán liên quan tới Can-Chi của người Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên,... Nó gắn liền với địa chi Hợi.
Những người tin tưởng vào chiêm tinh học luôn gán ghép cho mỗi con vật với đặc điểm nào đó, từ đó suy ra đặc tính cá nhân. Do đó, người ta cho rằng người tuổi con này thì thế này, người tuổi con kia thì thế kia. Kể cũng tội nghiệp con Heo, vì nó bị người ta gán cho đủ các tính xấu: tham ăn, mê ngủ, lười biếng, phàm ăn, dơ bẩn, ô uế,... và tệ nhất là thói dâm ô, thế nên người ta gọi loại “phim đen” là “phim con heo”.
Tuy nhiên, đó cũng chỉ là tính mê tín dị đoan của con người, rồi từ đó “suy bụng ta ra bụng người” mà thôi. Thật là phiền toái quá! Con Heo vô tội, mà tại con người “chơi ép” nó, và rồi “bắt” nó làm vật tượng trưng cho sự phồn thực, tính dục và nhàn hạ (vì giàu có mà sinh tật). Người ta còn dùng hình ảnh con heo đất làm biểu tượng về tài chính. Ngoài ra, đầu heo (thủ lợn) là một sính vật quan trọng trong mâm cúng ở các buổi lễ long trọng và lễ nghi của dân Việt. Ngoài ra, người ta còn chê trách thói sĩ diện hão bằng cách nói mỉa mai: “Mượn đầu heo nấu cháo”.
I. SỰ TÍCH CON HEO
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân sống rất nhân hậu. Họ cần cù làm việc, tiết kiệm và hay giúp đỡ người nghèo. Họ đã cất được 5 gian nhà gỗ lim, có trâu khỏe, ruộng tốt, vườn cau, ao cá. Nhưng cuộc sống lại không đơn giản như thế, bởi vì họ vẫn buồn vì không có con cái. Làng xóm dị nghị, họ tìm thầy tìm thuốc khắp nơi, tốn kém nhiều rồi. Một hôm, có người mách rằng họ muốn có con thì phải cầu tự – nghĩa là phải làm điều gì đó để lại công đức cho thần thánh, cho người đời.
Từ đó, đêm nào họ cũng trằn trọc tìm việc làm công đức. Người chồng đề nghị lấy tiền xây dựng một ngôi đền, người vợ đồng ý. Ngay hôm sau, họ đi mua gỗ. Ba tháng sau, ngôi đền uy nghi mọc giữa thôn Đoài. Các vị thần Của Cải, Trí Tuệ, Sức Khỏe, Ăn Chơi đều quy tụ về. Ai ước nguyện sao thì được vậy.
Vợ chồng nọ cầu xin có con, thần thương lắm nên cho họ có con trai khôi ngô và khỏe mạnh. Nhưng họ quý con quá nên hóa tội. Được nuông chiều, cậu Hợi trái tính ngược nết, đối xử tệ với song thân. Cậu lười biếng, chỉ thích ngủ và chơi bời, dỗ dành mãi mới chịu đến trường, nhưng vừa ngồi xuống ghế đã ngủ gật, thế nên học suốt ba năm vẫn chưa viết được chữ Hợi – tên của nó. Rồi Hợi bỏ học, la cà lêu lổng khắp xóm làng, ngoài bãi, ven sông,... Tệ hơn nữa, khi có vợ thì Hợi lại đuổi cha mẹ ra ở riêng. Mặc thế, ông bà vẫn hết lòng chiều chuộng vì thương con.
Lúc người vợ hấp hối, bà bảo chồng gọi Hợi lại, nắm lấy tay và nói trong hơi thở thều thào: “Cha mẹ thật ân hận vì chưa lo cho con được nhiều. Nay mẹ sắp qua đời, mẹ muốn biết con có nguyện vọng gì để khi xuống suối vàng mẹ sẽ phù hộ cho con”. Nghe vậy, Hợi nói ngay: “Con ước suốt đời không làm mà được ăn no, ngủ không bị quấy rầy. Tóm lại, con muốn được người ta hầu hạ”.
Mai táng vợ xong, người chồng vào đền cầu xin cho con được như ý nguyện. Các thần linh hội ý với nhau và thấy thật khó xử. Nếu xin giàu sang, minh mẫn, khỏe mạnh hoặc ăn chơi phóng đãng thì dễ. Đằng này nó chỉ ước mơ tầm thường là ăn no, ngủ kỹ. Khó nữa là nó muốn bắt người ta hầu hạ, điều này vượt quá quyền hạn của các vị thần trong đền. Họ bàn với nhau tâu lên Ngọc Hoàng. Vừa nghe xong, Ngọc Hoàng ngoảnh lại nói với thần Trí Tuệ: “Thật đáng buồn cho giống người. Ta sinh ra họ cốt để làm đẹp cho thiên hạ. Vậy mà nay có kẻ chỉ ước ao ăn ngủ, lại còn muốn người ta hầu hạ nữa. Thật tồi tệ, tệ quá!”
Thần Trí Tuệ cúi đầu lạy: “Bẩm Ngọc Hoàng, cha mẹ của Hợi là người nhân đức, chính họ đã có công xây đền cho các thần linh. Nếu ta không giúp họ thì sẽ mất uy tín ạ”.
Ngọc Hoàng thấy thần Trí Tuệ nói đúng, nhưng như thế thì vô lý quá. Ai đời là đồng loại với nhau mà lại bắt người này hầu hạ người kia. Bỗng Ngọc Hoàng reo lên: “Ta nghĩ ra rồi. Thần lại đây ta bảo”.
Thần Trí Tuệ hớn hở đến quỳ dưới bệ rồng nghe Ngọc Hoàng ôn tồn: “Tên Hợi ước được ăn no, ngủ yên, có người hầu hạ chứ gì? Thế thì Ta cho nó làm kiếp con lợn. Nó được như thế, nhưng đoản thọ và chính tay người hầu hạ nó sẽ giết nó”.
Thần Trí Tuệ toan biện hộ cho người nông dân vài điều nữa nhưng Ngọc Hoàng đã giũ áo đi ra. Thần buồn bã bay về làng Đoài thì được tin ông lão nông dân và con trai tên Hợi đã mất cách đây nửa năm. Điều lạ là trong làng Đoài mọc lên một ngọn núi nhỏ có lửa, cháy chập chờn dòng chữ “Ốc Thượng Thổ”. Trong làng Đoài nhà ai cũng có ổ tò vò mọc chi chít trên nóc nhà, nhà nào cũng nuôi một giống vật lạ: Mõm dài, tai lớn, bốn chân nhỏ, thân mập ù, nục nịch thịt. Tiếng kêu “éc éc” nghe ghê lắm. Giống ấy phàm ăn, cứ ăn xong thì ngủ. Hơi ngót dạ lại rống đòi ăn làm cho người làng phải bưng xách nấu nướng thật vất vả. Vì nguyện vọng nuôi nó chóng lớn để mau giết thịt nên người ta đặt tên là Lớn. Lâu ngày, người ta gọi chệch là... Lợn.
Sự tích là câu chuyện răn đời. Sự Tích Con Lợn nhắc nhở các bậc cha mẹ đừng nuông chiều con cái, thương không đúng cách chỉ là hại con (và tự hại mình), ghét con đúng cách lại là thương con. Lời xưa vẫn không hề cũ: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”.
Thật vậy, tiền nhân so sánh: “Dưỡng nam bất giáo như dưỡng lư, dưỡng nữ bất giáo như dưỡng trư” – nghĩa là “Nuôi con trai mà không dạy cũng như nuôi con lừa, nuôi con gái mà không dạy cũng như nuôi con heo” (Lư là Lừa, Trư là Heo, Lợn).
III. CON HEO TRONG KINH THÁNH
Việt nhân vui mừng đón Xuân Kỷ Hợi, điều đó gợi nhớ hình ảnh con Heo trong Kinh Thánh. Theo kinh Qur'an, tín đồ Hồi giáo bị cấm ăn thịt heo. Người Do Thái cũng bị cấm ăn thịt heo theo luật Kashrut. Thời Cựu Ước, theo luật Mô-sê, dân chúng cũng không được phép ăn thịt heo. Còn thời Tân Ước, Chúa Giêsu nói với ý sâu xa hơn: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho HEO, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em” (Mt 7:6).
1. CỰU ƯỚC
Sách Ma-ca-bê nói về các bữa tiệc cúng thần và các hình khổ quái ác, có liên quan luật Môsê: CẤM ĂN THỊT HEO. Trình thuật 2 Mcb 6:18-31 nói về cuộc tử đạo của ông E-la-da liên quan luật đó: Ông đã cao niên nhưng đẹp lão, ông bị ép phải há miệng ăn thịt heo, nhưng ông quyết “thà chết vinh hơn sống nhục”. Người ta bảo ông GIẢ VỜ ăn để thoát chết, nhưng ông đã có một QUYẾT ĐỊNH DỨT KHOÁT, thật xứng với tuổi cao, và uy thế của bậc lão thành, với vẻ khả kính của mái tóc trắng phau vì lao tâm khổ tứ, với tác phong hoàn hảo từ buổi thiếu thời, nhất là PHÙ HỢP với Luật Thánh do chính Thiên Chúa lập ra.
Ông thẳng thắn nói: “Ở tuổi chúng ta, giả vờ là điều bất xứng, e rằng có nhiều thanh niên sẽ nghĩ là ông già E-la-da đã chín mươi tuổi đầu mà còn theo những lề thói dân ngoại. Rồi bởi tôi đã giả vờ và ham sống thêm một ít lâu nữa, nên họ bị lầm lạc vì tôi, còn tôi thì chuốc lấy vết nhơ và ô nhục cho tuổi già. Dù hiện nay tôi có tránh được hình phạt của người ta, thì sống hay chết tôi cũng sẽ không thoát khỏi bàn tay của Đấng Toàn Năng. Vậy giờ đây, khi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già, và để lại cho đám thanh niên một tấm gương cao đẹp về cái chết tự nguyện và cao quý, vì đã trung thành với các Lề Luật đáng kính và thánh thiện”.
Sau khi khạc nhổ hết thịt ra, ông tự ý tiến ra nơi hành hình. Người ta mỉa mai ông, cho những lời ông nói là điên khùng. Khi sắp chết vì đòn vọt, ông vừa rên vừa nói: “Đức Chúa là Đấng thông suốt mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những lằn roi gây đau đớn dữ dằn trong thân xác, còn trong tâm hồn, tôi vui vẻ chịu khổ vì lòng kính sợ Người”. Cái chết của ông là tấm gương về lòng cao thượng và là hình ảnh đáng ghi nhớ về nhân đức.
Cũng liên quan luật cấm ăn thịt heo, trình thuật 2 Mcb 7:1-41 nói về cuộc tử đạo của tám mẹ con (người mẹ và bảy anh em). Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để BẮT HỌ ĂN THỊT HEO là thức ăn luật Mô-sê cấm. Họ cương quyết không ăn và sẵn sàng chịu chết để giữ trọn lề luật. Bảy anh em lần lượt bị lột da đầu, cắt lưỡi,… Họ kiên cường chịu cực hình đến chết.
Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho chúng ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Bà khuyến khích từng người con, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi. Bà nói với các con: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình”.
Bà nói với người con trai út: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ”. Cuối cùng, bà mẹ cũng chết theo các con. Một gia đình thật thánh thiện, cả tám mẹ con là các vị thánh tử đạo.
Luật xưa thật nghiêm khắc, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa sẽ dùng lửa và lưỡi kiếm mà xét xử mọi người phàm; nhiều người phải mạng vong vì lưỡi gươm của Đức Chúa. Những kẻ tự thánh hiến và tự thanh tẩy để vào các khu vườn sau một người đứng ở giữa, những kẻ ĂN THỊT HEO, thịt các thú vật kinh tởm và thịt chuột, đều sẽ chết cả lũ” (Is 66:16-17).
Trình thuật Lv 11:2-47 và Đnl 14:3-10 còn phân biệt các loài vật thanh sạch và ô uế. Trong đó, con heo thuộc loại ô uế nên người ta không được phép ăn thịt heo. Ngày nay không còn phân loại như vậy, thậm chí có thịt heo ăn còn được coi là “sang”. Trước biến cố 30-4-1975, ở nông thôn, hầu như nhà nào cũng nuôi một vài con heo, phần thì để bán kiếm thêm thu nhập, phần thì có việc gì cần thì thịt heo đó mà làm tiệc đãi khách.
Mỗi thời mỗi khác, quan niệm khác nên cách cư xử và phong tục cũng thay đổi cho phù hợp, thảo nào người ta bảo “ăn theo thuở, ở theo thời”. Do đó, thực sự cần thiết có sự thích nghi.
2. TÂN ƯỚC
Trình thuật Mc 5:1-20 (≈ Mt 8:28-34; Lc 8:26-39) cho biết chuyện về người bị quỷ ám ở Ghê-ra-sa. Anh chàng này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. Đã nhiều lần bẻ gãy xiềng xích và đập tan gông cùm, không ai có thể kiềm chế anh ta. Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình. Thấy Đức Giêsu tự đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!”. Đức Giêsu đã bảo nó: “Thần ô uế kia, xuất khỏi người này!”. Người hỏi nó: “Tên ngươi là gì?”. Nó thưa: “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm”. Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy.
Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi. Đám thần ô uế nài xin Người rằng: “Xin sai chúng tôi đến nhập vào những con heo kia”. Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập vào bầy heo. Cả bầy heo – chừng hai ngàn con – từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó. Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. Họ đến cùng Đức Giêsu và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo – chính người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ. Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe việc đã xảy ra thế nào cho người bị quỷ ám và chuyện bầy heo. Bấy giờ họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người. Nhưng Người không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào”. Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.
Trình thuật Lc 15:11-32 đề cập dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu”, đứa con hoang đàng cũng “dính líu” con heo. Chắc chắn không ai lại không quen thuộc với dụ ngôn này, một dụ ngôn đặc biệt trong số các dụ ngôn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Sau khi được cha chia của cải, cậu Ba thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa, sống phóng đãng, phung phí. Miệng ăn núi lở. Chẳng bao lâu, tiền của hết sạch, ngay lúc đó có nạn đói khủng khiếp xảy ra trong vùng ấy. Bí thế ở đường cùng, anh ta phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng, và họ sai anh ta đi CHĂN HEO. Thấy heo ăn mà phát thèm, anh ta ao ước lấy đậu muồng HEO ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng cũng chẳng được. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với cha rằng con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.
Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha và được cha ân cần chăm sóc, lại còn được cha mở tiệc ăn mừng và phục hồi quyền làm con. Ai cũng thấy người cha “kỳ cục” quá, nhưng ông xác nhận: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Thế thì mừng quá đi chứ!
Lúc đó, cậu Hai từ ngoài đồng về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy cho biết rằng cậu Ba vừa về, và ông chủ làm thịt con bê béo vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. Cậu Hai liền nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ thì cậu so đo: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”.
Nhưng người cha ôn tồn: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Hai thằng con, thằng nào cũng có kiểu tội của mình. Khi suy tư về dụ ngôn này, dĩ nhiên người ta người ta chú ý người cha nhân hậu, nhưng người ta thường chú ý nhiều tới cậu Ba – đứa con hoang đàng chi địa, mà không mấy ai chú ý tới cậu Hai.
Người cha quá nhân lành thì khỏi nói rồi, và đó chính là hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Chú ý tới cậu Ba cũng là điều tất yếu, bởi vì cậu ta ích kỷ, không cần biết đến ai, kể cả người cha già tội nghiệp. Hẳn là cũng không cần bàn thêm vì chúng ta đã có đủ kiểu chê bai đối với đứa con bất hiếu và vô tâm này. Còn cậu Hai thì không mấy ai “xoi mói” cái tội của cậu ta. Chúng ta cứ nghĩ cậu Hai ngoan hiền và hiếu đễ, nhưng thật ra cậu ta cũng chỉ ích kỷ và vô tâm, chẳng hơn gì cậu Ba: tính toán chi li, không thương cha mà cũng chẳng thương em, có khác chăng là cậu Hai không bỏ nhà đi hoang như cậu Ba mà thôi. Chúng ta cũng có “máu” cậu Hai lắm, đừng vội ảo tưởng mà lên mặt!
III. VĨ NGÔN
THẰNG CHÓ SỦA GÂU GÂU KHI THÔI CHỨC
CON HEO KÊU ÉC ÉC LÚC NẮM QUYỀN
Chuyện thế gian là thế. Biết vậy để cười: cười mỉa, cười khẩy, cười gằn, cười trừ, cười vui,... Có nhiều kiểu cười, tùy mỗi người.
Theo “đặc ngữ” của vật chủ năm ngoái (Mậu Tuất) và vật chủ năm nay (Kỷ Hợi), chẳng “tay” nào ngon lành: Chó kêu “gâu gâu” là “xạo xạo” chứ chẳng phải “giàu giàu” như người ta tưởng, còn Heo kêu “éc éc” là “phét lác” thì cũng chẳng hơn gì. Dân khổ vẫn hoàn khổ. Thế thôi! Nếu không như thế thì người ta đâu có nói “đời là bể khổ”, mà cũng hợp lý, bởi vì Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34), và Ngài bảo chúng ta phải “vác thập giá hằng ngày” mà theo Ngài (Mt 10:38; Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23; Lc 14:27). Ôi, thế thì hóa ra lại tuyệt đấy.
Này, đầu năm đầu tháng đừng vội tin nhảm nhí cho là xui xẻo khi đề cập vấn đề đau khổ, bởi vì tin như vậy là… “không hên”. Chuyện đâu còn có đó mà!
Ngày Xuân, cứ vui với đời, nhưng cũng nên cùng nhau suy tư lời Chúa Giêsu nhắn nhủ: “Đừng tìm xem mình sẽ ăn gì, uống gì, và ĐỪNG BẬN TÂM. Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em THỪA BIẾT anh em cần những thứ đó” (Lc 12:29-30; Mt 6:31-32). Đó là cách sống tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, và Ngài muốn chúng ta sống như vậy.
Kỷ Hợi, Tản Mạn Về Heo - Lợn
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
20:39 30/01/2019
Tết Nguyên Đán sắp đến. Lợn (Kỷ Hợi) sẽ được cậu Chó (Mậu Tuất) bàn giao công việc dân gian trong 12 tháng năm mới.
Tản mạn đôi nét về chú lợn, con vật rất gần gũi được nuôi trong nhiều gia đình thôn quê và các trang trại.
1. Lợn và Heo
Người miền Bắc kêu là “con lợn”, còn miền Nam gọi là “con heo”. Có người giải thích đơn giản là: Lợn ăn ngô, heo ăn bắp.
Paulus Huỳnh Tịnh Của là một học giả người miền Nam, trong “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị”, ông đã giải nghĩa Lợn là con Heo. Theo ông: người miền Nam phần lớn là những di dân từ miền Trung, tiếng nói của họ nặng, khi phải bẩm trình với quan lớn, họ lại phát âm thành “quan lợn”. Chẳng hạn như họ phát âm: trò chơi lợn (lớn), ăn quỵt (quýt), ông Giacọp (Giacóp). Quan cho là vô phép nên sai lính lấy hèo phạt, ai bẩm “quan lợn” là phải đòn 10 hèo. Nhiều người bị phạt hèo như vậy, nên khi thấy con lợn họ hình dung ngay ra những cây hèo vút vào mông họ, họ bèn mỉa mai gọi con lợn là “con hèo”. Rồi để khỏi lầm lẫn con lợn với cây gậy quái ác ấy, họ bớt đi dấu huyền, còn lại là con heo. Con lợn từ miền Bắc đi xuống miền Nam thành con heo là như thế.
Lợn, heo là một loại gia súc được nuôi bằng thức ăn tạp, nó cung cấp thịt cho người dùng. Có nhiều loại lợn: lợn sề, lợn nái, lợn giống, lợn cấn, lợn sữa, lợn choai, lợn tháu, lợn ỷ… Heo thì có heo nhà, heo ruộng, heo bông, heo lang, heo cỏ, heo bò, heo đen, heo nọc, heo nái, heo nưa, heo lứa, heo mọi… Đó là các loại heo nuôi trong nhà, còn loại heo hoang dã như heo lăn chai, heo rừng hay lợn lòi… là loài hung dữ, nhanh nhẹn.
Ngành chăn nuôi heo ngày nay đã công nghiệp hóa trong các trang trại quy mô hiện đại. Nhiều giống thuần chủng nhập khẩu như: heoYorshire, heo Landrace, heo Chester White, heo Duroc, heo Hampshire…
2. Hình ảnh con lợn trong văn hóa dân gian
Con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua con đồng riềng. Vì sao chó phải có riềng, lợn có hành?
Triết lý Việt nam theo triết lý Trung hoa, chủ trương âm dương hoà hợp. Quan niệm đó được thể hiện trong lãnh vực ăn uống. Thịt gì món gì phải ăn với rau thơm hay gia vị nào đều có quy định cả. Người Việt ăn nhiều thứ rau mà các nước khác không có: rau mùi, rau răm, lá sung, lá xoài, củi tỏi, gừng riềng…Gà luộc cần có lá chanh, thịt lợn cần có củ hành, chó phải có củ riềng lá mơ.
Ba con vật này đứng chót trong thứ tự 12 con giáp. Gà lợn và chó là ba con vật nuôi rất thông dụng trong hầu hết các gia đình nông thôn Việt nam.
Theo cổ tích Việt Nam, tiền thân của lợn là một vị tiên trên trời, vì ham ăn, lại lười biếng chẳng chịu làm việc gì, nên Ngọc Hoàng đày xuống dương gian làm kiếp gà, bắt phải bới rác kiếm ăn. Vị tiên ấy chê giống gà nhỏ bé, đến con mèo con chó cũng bắt nạt được. Trời thương tình, cho làm kiếp bò. “Bò tuy lớn, nhưng chỉ được ăn cỏ mà còn phải vất vả kéo xe, kéo cày…”, nghĩ thế, nên vị tiên ấy lại năn nỉ:
- Xin Ngọc Hoàng cho con cái chức gì không phải làm lụng, mà được cơm bưng nước rót đến tận miệng…
- Vậy Ta cho người làm kiếp Lợn, người ta sẽ đem thức ăn đến tận mõm, chỉ việc ăn no ngủ kỹ, càng ăn lắm ngủ nhiều người ta càng thích, để thân xác béo mẫm ra cho người ta nhờ.
Thế là vị tiên đó hí hửng lạy tạ, xuống trần làm thân con lợn, không để ý đến hậu quả. Tới lúc lợn béo nùng nục, bị người ta lôi ra làm thịt, mới té ngửa ra, đòi xin hoá kiếp. Một tiên ông đến mách bảo “xin người ta thêm hành vào xào nấu với thịt thì ngươi được hoá kiếp”. Từ đó “con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi” là đề mong được hoá thân kiếp khác vậy.
Sống chung với loài người ở khắp nơi, đặc biệt thịt lợn có mặt trên các mâm cỗ, bàn tiệc và là thức ăn ít nhiều đều có trong bữa ăn gia đình ở thành thị cũng như thôn quê, từ đó hình ảnh con lợn đã đi vào nếp sống dân dã trên nhiều lãnh vực qua các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt cũng thường nhắc đến động vật hữu ích này.
Ca dao Việt Nam từ rất xa xưa đã có những câu dí dỏm, tình tứ, nhân bản về việc cưới gả. Trong đó con heo cũng đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn một chàng trai đã “phải lòng” một cô thiếu nữ, nhưng lại vờ vĩnh hứa giúp “đằng ấy” khi “đằng ấy” lấy chồng:
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo một vò rượu tăm.
Nghe vậy, nàng cũng bắt được ý chàng, tuy tim nàng rung động nhưng cũng trấn tĩnh, ngúng nguẩy trả lời:
Anh về thưa với mẹ cha,
Bắt lợn đi cưới, bắt gà đi cheo.
Nói gà bắt gà đi cheo, chứ thật ra chàng trai phải nộp cheo cho làng bằng thủ lợn. Bởi vì:
Sọ lợn lớn hơn đầu mèo,
Làng ăn không hết làng treo cột đình.
Tục lệ ở Việt Nam xưa là như thế. Nạp cheo để chứng minh cho cả làng biết là chúng tôi thành vợ thành chồng đàng hoàng. Biên nhận nạp cheo là một thứ giấy giá thú. Nếu không có nó thì:
Có cưới mà chẳng có cheo,
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài.
Cưới mà giết mười heo thì chỉ có con nhà phú hộ, còn nhà bình dân thì làm mâm cơm cúng ông bà cũng đủ:
Nhà họ giàu thì đầu heo nọng thịt,
Đôi mình nghèo thì cặp vịt với bông tai.
Số phận người con gái thời phong kiến xưa, chưa hẳn đã tự chọn cho mình được người bạn đời như ý. Vì chưng:
Mẹ em tham thúng xôi dền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đả bảo mẹ rằng đừng…
Mẹ em tham thúng bánh chưng,
Tham con lợn nái, em lưng chịu đòn.
Người Việt hay dùng hình ảnh ví von: Ngu như lợn. Bẩn như heo. Chỉ biết ăn no lại nằm như heo. Nói toạc móng heo. Mượn đầu heo nấu cháo. Cám treo heo nhịn đói. Gió heo may đã về?
3. Hình ảnh con lợn trong Thánh Kinh
Trong lịch sử niềm tin đạo giáo, hình ảnh loài heo được nhìn theo nhiều khía cạnh gần như trái ngược khác nhau.Thời xa xưa thượng cổ, người Ai Cập nhìn con heo là hình ảnh biểu tượng của mặt trăng. Vì thế, họ giết heo vào những ngày có trăng. Ở bên Syria con heo là con vật thánh, dùng để tế nữ Thần sinh sôi nẩy nở Astarte.
Do thái giáo và Hồi giáo cấm các tín hữu của họ đụng đến bất cứ món gì có liên quan đến con heo. Họ thà chết chứ nhất định không bao giờ đụng đến những món ăn có thịt heo. Có lối giải thích là hai tôn giáo này ghét con heo là vì vào thời Hy Lạp cổ đại, heo là con vật mà dân ngoại dùng để hiến tế cho nữ thần Demeter, nữ thần này yêu heo cho nên phần mở đầu của các lễ hiến tế Eleusis bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc hiến tế một con heo to béo.
Người Do thái liệt heo vào loài thú vật dơ không thanh sạch. Ăn thịt heo đối với người Do thái là một tội vì như thế là phản đạo. Bởi vậy người Do thái cấm nuôi heo.
Trong Kinh Thánh Cựu ước, con heo cũng là con vật dơ bẩn: “Con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế” ( Lv11,7; Ds 14,8).
Trong các dịp cúng thần, dân Israel bị Vua Hylạp là Antiôkhô ép buộc phải ăn thịt heo. Cụ Êlêasa, tuy đã 90 tuổi nhưng phương phi đẹp lão. Cụ bị bắt phải há hàm để nhét thịt heo vào miệng, nhưng cụ thà chết vinh hơn sống nhục, đã khạc nhổ hết thịt heo ra khỏi miệng, rồi tự nguyện tiến ra nơi hành hình. Những người chủ tiệc kính thần vì quen cụ đã lâu nên đã kéo cụ ra riêng một chỗ, khuyên cụ ăn một miếng thịt khác không phải là thịt heo rồi giả vờ như đang ăn thịt heo tuân lệnh nhà vua. Làm như vậy cụ sẽ thoát chết. Nhưng cụ trả lời họ: “Ở tuổi chúng ta, giả vờ là điều bất xứng, e rằng làm gương mù cho lớp trẻ, họ sẽ bảo là ông già Êlêasa đã 90 tuổi mà còn theo dân ngoại ăn thịt heo, và họ bị lầm lạc vì tôi đã giả vờ…”. Cụ đã bị hành hình, lúc sắp lìa đời, cụ thì thào nói: “Đức Chúa là Đấng thông biết mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những cực hình nơi thân xác, mà tâm hồn tôi vui vẻ vì tuân giữ luật Chúa”. Cụ đã từ giã cuộc đời. Cái chết của cụ thật là tấm gương cao thượng chói sáng, không những cho các thiếu niên, mà còn cho phần lớn dân tộc.(x. 2 Mcb 6,18-31).
Trong sách Macacbê chương 7 kể chuyện về bữa tiệc cúng thần, có 8 mẹ con vì không chịu ăn thịt heo mà phải chịu các hình khổ tàn bạo cho đến chết.
Thánh vịnh 79 ví dân Israel như vườn nho Chúa đã vun trồng, đang xum xuê hoa trái mà sao Chúa bỏ cho hoang tàn:
Làm sao Người nỡ triệt hạ tường giậu nó
Mặc cho khách qua đường bứt quả
Mặc cho heo rừng phá phách tan hoang. (Tv 79, 13-14)
Sách Huấn ca đã phải than thở: “Với người dại chớ có nhiều lời, đừng đồng hành với con lợn”(Hc 22,13).
Sách Cách ngôn cho rằng người dại khờ khó có thể hiểu được những lời khôn ngoan hướng dẫn, họ giống như: “Đàn bà nhan sắc mà đần, khác nào vòng xuyến đeo nhầm mõm heo” (Cn 11,22)
Phúc âm Thánh Matthêu viết: “Ngọc trai chớ quăng trước bầy heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em” (Mt 7,6).
Câu chuyện đứa con hoang đàng. Người con thứ đòi cha chia gia tài. Anh ta đem tiền của đó đi ăn chơi phung phí, đàng điếm. Lúc hết tiền, bạn bè ăn nhậu đều xa lánh. Miền đó lại gặp nạn đói, anh ta phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng, ông chủ bắt anh ta ra đồng trông coi đàn heo. Anh ta ước gì có thể lấy những thứ heo ăn mà thốn cho đầy bụng mà cũng chẳng có ai cho. Lúc ấy anh ta mới ăn năn hối hận trở về nhà và được người cha nhân hậu tiếp đón niềm nở, mở tiệc ăn mừng, vì: “con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (x.Lc 15).
Đến thời Hy lạp La mã thống trị Israel, chuyện nuôi heo trở nên phổ biến.
Chúa Giêsu đã phá bỏ sự phân biệt vật dơ và thánh. Đối với Người cái gì dơ là từ bên trong mà ra. Vì thế không có loài vật nào là dơ cả. Thánh Phêrô thấy thị kiến và Lời Chúa phán với ông: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế” (Cv 10,9-16).
4. Năm Hợi hứa hẹn ấm no, hạnh phúc
Loại cá thông minh được Hải quân huấn luyện để chống đặc công là loại cá heo. Nước Cuba có vịnh Con Heo. Ở Đức nhiều nơi chọn hình heo con quảng cáo, như một sự may mắn phát tài. Bữa ăn tối ngày đầu năm của người Áo bao giờ cũng có món heo sữa quay, con vật tượng trưng cho mọi điều tốt lành. Con heo có một vị trí quan trọng trong ngày đầu năm ở Áo, vì họ tin rằng con heo lầm lũi bước đi với cái mũi hít đất là biểu tượng hoàn hảo nhất của sự may mắn và “sự chuyển động về phía trước” trong năm mới. Ở một số nước như Cuba, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hungragy, con heo biểu trưng cho sự phát triển, tiến bộ. Người ta đều nghĩ như vậy là vì con heo không biết đi lùi. Papua New Guinea là đảo quốc ở phía tây Thái Bình Dương, đa số thổ dân ở đây đều xem heo như một bái vật giáo. Có bộ tộc lấy mỡ heo trộn với tro bếp xoa lên mặt để biểu thị sự dũng mãnh. Có một số tộc trưởng còn xâu một lỗ trên mũi mình rồi cắm chiếc răng heo rừng vào đó để tượng trưng cho uy quyền. Heo là một trong những đồ lễ quan trọng trên cỗ xin đính hôn của các đôi nam nữ. Ở đất nước này có tờ tiền thật với hình con heo mệnh giá 20 Kina do chính phủ in ấn và phát hành từ năm 1999 cho nhu cầu lưu thông tiêu dùng hàng ngày. Tờ tiền con heo Papua New Guinea được ưa chuộng làm tiền mừng tuổi tết cho năm Kỷ Hợi 2019 này, đặc biệt với người Châu Á.
Người Việt và có thể nhiều quốc gia khác cũng có loại heo đất bỏ tiền tiết kiệm.
Con heo tạo nhiều cảm hứng cho hội họa và tranh dân gian mỗi dịp Xuân sang Tết về. Làng Đông Hồ nổi tiếng về vẽ tranh dân gian con heo.
Lợn được coi như là tiêu biểu cho sự may mắn, giàu sang.
Năm Tuất đã qua, năm Hợi lại đến với mọi người qua hình ảnh tượng trưng cho sự an nhàn của chú lợn nên tục ngữ có câu: “Tuổi Hợi nằm đợi mà ăn”, nói đến số phận sung sướng, an nhàn của những người sinh vào năm Hợi, hình như người tuổi Hợi ít ai vất vả cho lắm thì phải!?.
Con heo được người đời nuôi dưỡng, sống nhàn hạ, sung sướng, có lẽ để trả ơn con heo đã đem lại niềm vui, hạnh phúc trong đời sống thường nhật của con người. Năm Kỷ Hợi hy vọng sẽ no đủ, đầm ấm, hạnh phúc đến với mọi nhà.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tản mạn đôi nét về chú lợn, con vật rất gần gũi được nuôi trong nhiều gia đình thôn quê và các trang trại.
1. Lợn và Heo
Người miền Bắc kêu là “con lợn”, còn miền Nam gọi là “con heo”. Có người giải thích đơn giản là: Lợn ăn ngô, heo ăn bắp.
Paulus Huỳnh Tịnh Của là một học giả người miền Nam, trong “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị”, ông đã giải nghĩa Lợn là con Heo. Theo ông: người miền Nam phần lớn là những di dân từ miền Trung, tiếng nói của họ nặng, khi phải bẩm trình với quan lớn, họ lại phát âm thành “quan lợn”. Chẳng hạn như họ phát âm: trò chơi lợn (lớn), ăn quỵt (quýt), ông Giacọp (Giacóp). Quan cho là vô phép nên sai lính lấy hèo phạt, ai bẩm “quan lợn” là phải đòn 10 hèo. Nhiều người bị phạt hèo như vậy, nên khi thấy con lợn họ hình dung ngay ra những cây hèo vút vào mông họ, họ bèn mỉa mai gọi con lợn là “con hèo”. Rồi để khỏi lầm lẫn con lợn với cây gậy quái ác ấy, họ bớt đi dấu huyền, còn lại là con heo. Con lợn từ miền Bắc đi xuống miền Nam thành con heo là như thế.
Ngành chăn nuôi heo ngày nay đã công nghiệp hóa trong các trang trại quy mô hiện đại. Nhiều giống thuần chủng nhập khẩu như: heoYorshire, heo Landrace, heo Chester White, heo Duroc, heo Hampshire…
2. Hình ảnh con lợn trong văn hóa dân gian
Con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua con đồng riềng. Vì sao chó phải có riềng, lợn có hành?
Triết lý Việt nam theo triết lý Trung hoa, chủ trương âm dương hoà hợp. Quan niệm đó được thể hiện trong lãnh vực ăn uống. Thịt gì món gì phải ăn với rau thơm hay gia vị nào đều có quy định cả. Người Việt ăn nhiều thứ rau mà các nước khác không có: rau mùi, rau răm, lá sung, lá xoài, củi tỏi, gừng riềng…Gà luộc cần có lá chanh, thịt lợn cần có củ hành, chó phải có củ riềng lá mơ.
Ba con vật này đứng chót trong thứ tự 12 con giáp. Gà lợn và chó là ba con vật nuôi rất thông dụng trong hầu hết các gia đình nông thôn Việt nam.
Theo cổ tích Việt Nam, tiền thân của lợn là một vị tiên trên trời, vì ham ăn, lại lười biếng chẳng chịu làm việc gì, nên Ngọc Hoàng đày xuống dương gian làm kiếp gà, bắt phải bới rác kiếm ăn. Vị tiên ấy chê giống gà nhỏ bé, đến con mèo con chó cũng bắt nạt được. Trời thương tình, cho làm kiếp bò. “Bò tuy lớn, nhưng chỉ được ăn cỏ mà còn phải vất vả kéo xe, kéo cày…”, nghĩ thế, nên vị tiên ấy lại năn nỉ:
- Xin Ngọc Hoàng cho con cái chức gì không phải làm lụng, mà được cơm bưng nước rót đến tận miệng…
- Vậy Ta cho người làm kiếp Lợn, người ta sẽ đem thức ăn đến tận mõm, chỉ việc ăn no ngủ kỹ, càng ăn lắm ngủ nhiều người ta càng thích, để thân xác béo mẫm ra cho người ta nhờ.
Thế là vị tiên đó hí hửng lạy tạ, xuống trần làm thân con lợn, không để ý đến hậu quả. Tới lúc lợn béo nùng nục, bị người ta lôi ra làm thịt, mới té ngửa ra, đòi xin hoá kiếp. Một tiên ông đến mách bảo “xin người ta thêm hành vào xào nấu với thịt thì ngươi được hoá kiếp”. Từ đó “con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi” là đề mong được hoá thân kiếp khác vậy.
Sống chung với loài người ở khắp nơi, đặc biệt thịt lợn có mặt trên các mâm cỗ, bàn tiệc và là thức ăn ít nhiều đều có trong bữa ăn gia đình ở thành thị cũng như thôn quê, từ đó hình ảnh con lợn đã đi vào nếp sống dân dã trên nhiều lãnh vực qua các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt cũng thường nhắc đến động vật hữu ích này.
Ca dao Việt Nam từ rất xa xưa đã có những câu dí dỏm, tình tứ, nhân bản về việc cưới gả. Trong đó con heo cũng đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn một chàng trai đã “phải lòng” một cô thiếu nữ, nhưng lại vờ vĩnh hứa giúp “đằng ấy” khi “đằng ấy” lấy chồng:
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo một vò rượu tăm.
Nghe vậy, nàng cũng bắt được ý chàng, tuy tim nàng rung động nhưng cũng trấn tĩnh, ngúng nguẩy trả lời:
Anh về thưa với mẹ cha,
Bắt lợn đi cưới, bắt gà đi cheo.
Nói gà bắt gà đi cheo, chứ thật ra chàng trai phải nộp cheo cho làng bằng thủ lợn. Bởi vì:
Sọ lợn lớn hơn đầu mèo,
Làng ăn không hết làng treo cột đình.
Tục lệ ở Việt Nam xưa là như thế. Nạp cheo để chứng minh cho cả làng biết là chúng tôi thành vợ thành chồng đàng hoàng. Biên nhận nạp cheo là một thứ giấy giá thú. Nếu không có nó thì:
Có cưới mà chẳng có cheo,
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài.
Cưới mà giết mười heo thì chỉ có con nhà phú hộ, còn nhà bình dân thì làm mâm cơm cúng ông bà cũng đủ:
Nhà họ giàu thì đầu heo nọng thịt,
Đôi mình nghèo thì cặp vịt với bông tai.
Số phận người con gái thời phong kiến xưa, chưa hẳn đã tự chọn cho mình được người bạn đời như ý. Vì chưng:
Mẹ em tham thúng xôi dền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đả bảo mẹ rằng đừng…
Mẹ em tham thúng bánh chưng,
Tham con lợn nái, em lưng chịu đòn.
Người Việt hay dùng hình ảnh ví von: Ngu như lợn. Bẩn như heo. Chỉ biết ăn no lại nằm như heo. Nói toạc móng heo. Mượn đầu heo nấu cháo. Cám treo heo nhịn đói. Gió heo may đã về?
3. Hình ảnh con lợn trong Thánh Kinh
Trong lịch sử niềm tin đạo giáo, hình ảnh loài heo được nhìn theo nhiều khía cạnh gần như trái ngược khác nhau.Thời xa xưa thượng cổ, người Ai Cập nhìn con heo là hình ảnh biểu tượng của mặt trăng. Vì thế, họ giết heo vào những ngày có trăng. Ở bên Syria con heo là con vật thánh, dùng để tế nữ Thần sinh sôi nẩy nở Astarte.
Do thái giáo và Hồi giáo cấm các tín hữu của họ đụng đến bất cứ món gì có liên quan đến con heo. Họ thà chết chứ nhất định không bao giờ đụng đến những món ăn có thịt heo. Có lối giải thích là hai tôn giáo này ghét con heo là vì vào thời Hy Lạp cổ đại, heo là con vật mà dân ngoại dùng để hiến tế cho nữ thần Demeter, nữ thần này yêu heo cho nên phần mở đầu của các lễ hiến tế Eleusis bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc hiến tế một con heo to béo.
Người Do thái liệt heo vào loài thú vật dơ không thanh sạch. Ăn thịt heo đối với người Do thái là một tội vì như thế là phản đạo. Bởi vậy người Do thái cấm nuôi heo.
Trong Kinh Thánh Cựu ước, con heo cũng là con vật dơ bẩn: “Con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế” ( Lv11,7; Ds 14,8).
Trong các dịp cúng thần, dân Israel bị Vua Hylạp là Antiôkhô ép buộc phải ăn thịt heo. Cụ Êlêasa, tuy đã 90 tuổi nhưng phương phi đẹp lão. Cụ bị bắt phải há hàm để nhét thịt heo vào miệng, nhưng cụ thà chết vinh hơn sống nhục, đã khạc nhổ hết thịt heo ra khỏi miệng, rồi tự nguyện tiến ra nơi hành hình. Những người chủ tiệc kính thần vì quen cụ đã lâu nên đã kéo cụ ra riêng một chỗ, khuyên cụ ăn một miếng thịt khác không phải là thịt heo rồi giả vờ như đang ăn thịt heo tuân lệnh nhà vua. Làm như vậy cụ sẽ thoát chết. Nhưng cụ trả lời họ: “Ở tuổi chúng ta, giả vờ là điều bất xứng, e rằng làm gương mù cho lớp trẻ, họ sẽ bảo là ông già Êlêasa đã 90 tuổi mà còn theo dân ngoại ăn thịt heo, và họ bị lầm lạc vì tôi đã giả vờ…”. Cụ đã bị hành hình, lúc sắp lìa đời, cụ thì thào nói: “Đức Chúa là Đấng thông biết mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những cực hình nơi thân xác, mà tâm hồn tôi vui vẻ vì tuân giữ luật Chúa”. Cụ đã từ giã cuộc đời. Cái chết của cụ thật là tấm gương cao thượng chói sáng, không những cho các thiếu niên, mà còn cho phần lớn dân tộc.(x. 2 Mcb 6,18-31).
Trong sách Macacbê chương 7 kể chuyện về bữa tiệc cúng thần, có 8 mẹ con vì không chịu ăn thịt heo mà phải chịu các hình khổ tàn bạo cho đến chết.
Thánh vịnh 79 ví dân Israel như vườn nho Chúa đã vun trồng, đang xum xuê hoa trái mà sao Chúa bỏ cho hoang tàn:
Làm sao Người nỡ triệt hạ tường giậu nó
Mặc cho khách qua đường bứt quả
Mặc cho heo rừng phá phách tan hoang. (Tv 79, 13-14)
Sách Huấn ca đã phải than thở: “Với người dại chớ có nhiều lời, đừng đồng hành với con lợn”(Hc 22,13).
Sách Cách ngôn cho rằng người dại khờ khó có thể hiểu được những lời khôn ngoan hướng dẫn, họ giống như: “Đàn bà nhan sắc mà đần, khác nào vòng xuyến đeo nhầm mõm heo” (Cn 11,22)
Phúc âm Thánh Matthêu viết: “Ngọc trai chớ quăng trước bầy heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em” (Mt 7,6).
Câu chuyện đứa con hoang đàng. Người con thứ đòi cha chia gia tài. Anh ta đem tiền của đó đi ăn chơi phung phí, đàng điếm. Lúc hết tiền, bạn bè ăn nhậu đều xa lánh. Miền đó lại gặp nạn đói, anh ta phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng, ông chủ bắt anh ta ra đồng trông coi đàn heo. Anh ta ước gì có thể lấy những thứ heo ăn mà thốn cho đầy bụng mà cũng chẳng có ai cho. Lúc ấy anh ta mới ăn năn hối hận trở về nhà và được người cha nhân hậu tiếp đón niềm nở, mở tiệc ăn mừng, vì: “con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (x.Lc 15).
Đến thời Hy lạp La mã thống trị Israel, chuyện nuôi heo trở nên phổ biến.
Chúa Giêsu đã phá bỏ sự phân biệt vật dơ và thánh. Đối với Người cái gì dơ là từ bên trong mà ra. Vì thế không có loài vật nào là dơ cả. Thánh Phêrô thấy thị kiến và Lời Chúa phán với ông: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế” (Cv 10,9-16).
4. Năm Hợi hứa hẹn ấm no, hạnh phúc
Loại cá thông minh được Hải quân huấn luyện để chống đặc công là loại cá heo. Nước Cuba có vịnh Con Heo. Ở Đức nhiều nơi chọn hình heo con quảng cáo, như một sự may mắn phát tài. Bữa ăn tối ngày đầu năm của người Áo bao giờ cũng có món heo sữa quay, con vật tượng trưng cho mọi điều tốt lành. Con heo có một vị trí quan trọng trong ngày đầu năm ở Áo, vì họ tin rằng con heo lầm lũi bước đi với cái mũi hít đất là biểu tượng hoàn hảo nhất của sự may mắn và “sự chuyển động về phía trước” trong năm mới. Ở một số nước như Cuba, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hungragy, con heo biểu trưng cho sự phát triển, tiến bộ. Người ta đều nghĩ như vậy là vì con heo không biết đi lùi. Papua New Guinea là đảo quốc ở phía tây Thái Bình Dương, đa số thổ dân ở đây đều xem heo như một bái vật giáo. Có bộ tộc lấy mỡ heo trộn với tro bếp xoa lên mặt để biểu thị sự dũng mãnh. Có một số tộc trưởng còn xâu một lỗ trên mũi mình rồi cắm chiếc răng heo rừng vào đó để tượng trưng cho uy quyền. Heo là một trong những đồ lễ quan trọng trên cỗ xin đính hôn của các đôi nam nữ. Ở đất nước này có tờ tiền thật với hình con heo mệnh giá 20 Kina do chính phủ in ấn và phát hành từ năm 1999 cho nhu cầu lưu thông tiêu dùng hàng ngày. Tờ tiền con heo Papua New Guinea được ưa chuộng làm tiền mừng tuổi tết cho năm Kỷ Hợi 2019 này, đặc biệt với người Châu Á.
Người Việt và có thể nhiều quốc gia khác cũng có loại heo đất bỏ tiền tiết kiệm.
Con heo tạo nhiều cảm hứng cho hội họa và tranh dân gian mỗi dịp Xuân sang Tết về. Làng Đông Hồ nổi tiếng về vẽ tranh dân gian con heo.
Lợn được coi như là tiêu biểu cho sự may mắn, giàu sang.
Năm Tuất đã qua, năm Hợi lại đến với mọi người qua hình ảnh tượng trưng cho sự an nhàn của chú lợn nên tục ngữ có câu: “Tuổi Hợi nằm đợi mà ăn”, nói đến số phận sung sướng, an nhàn của những người sinh vào năm Hợi, hình như người tuổi Hợi ít ai vất vả cho lắm thì phải!?.
Con heo được người đời nuôi dưỡng, sống nhàn hạ, sung sướng, có lẽ để trả ơn con heo đã đem lại niềm vui, hạnh phúc trong đời sống thường nhật của con người. Năm Kỷ Hợi hy vọng sẽ no đủ, đầm ấm, hạnh phúc đến với mọi nhà.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Tuổi Hợi
Joseph Ngọc Phạm
09:30 30/01/2019
Ảnh của Joseph Ngọc Phạm
Tuổi hợi hiền lương, sống thật thà
Chân thành, chất phác, vốn ôn hoà
Khoan dung, an phận, hay nhường nhịn
Nhẹ dạ, cả tin, ít nghĩ xa
Không thích bon chen, ưa học hỏi
Dốc lòng giúp bạn, chẳng gian tà
Tin theo số mệnh, không tham vọng
Thích được thanh nhàn, tình thiết tha
(KD)
VietCatholic TV
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay 31/1/2019: ĐTC chống việc bỏ luật độc thân linh mục
VietCatholic Network
19:46 30/01/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:
1- Tiếp kiến chung với Đức Thánh Cha, thứ Tư ngày 30/1/2019.
2- Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ tông du Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất.
3- Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Rota.
4- Tòa Thánh tái kêu gọi săn sóc sức khỏe cơ bản cho mọi người.
5- Đức Thánh Cha nói: ngài chống lại việc bỏ luật độc thân linh mục.
6- Những kỳ vọng về Hội nghị thượng định về lạm dụng tính dục.
7- Các Giám mục Philippines tuyên bố về cuộc bầu cử sắp tới.
8- Gia tăng làn sóng phản đối luật mới về phá thai ở New York, Hoa Kỳ.
9- Hôn nhân Kitô giáo có giá trị dân sự ở Pakistan.
10- Tổng thống lâm thời Juan Guaido kêu gọi quân đội "đứng về phía nhân dân".
11- Giới thiệu bài hát: Câu Chuyện Đầu Năm.
Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết: