Ngày 21-01-2020
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Suy niệm Chúa Nhật Tuần 3A thường niên
LM Giuse Trần Việt Hùng
08:56 21/01/2020
Chúa Nhật 3 THƯỜNG NIÊN. A (Mt 4, 12-17)
ÁNH SÁNG


Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến thế gian để đốt lên ngọn lửa yêu mến và muốn lửa đó được bùng cháy lên. Chúa đã mở ra một chân trời mới trong công trình cứu độ. Tiên tri Isaia xưa đã loan báo rằng dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng. Những người sống trong lầm than, nay thấy ánh sáng bừng lên chiếu soi cho toàn dân đang trong bóng tối sự chết.

Dân chúng đi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng. Con người ngày ngày đã chế ngự bóng đêm bằng các phương tiện khoa học. Nơi nào có con người, nơi đó văn minh tiến bộ đã len lỏi vào. Họ đã có ánh sáng, có điện và đèn soi sáng. Khi chúng ta có cơ hội ngồi trên máy bay nhìn xuống lúc ban đêm, chúng ta thấy có ánh sáng chập chờn khắp các đại lục. Ánh sáng là dấu hiệu có sự hiện hữu của con người trên trái đất.

Quan sát, chúng ta nhận thấy những nơi văn minh sáng sủa nhất đã dần bị lu mờ bởi sự lạm dụng của con người. Lòng người đổi thay, ánh sáng bên ngoài càng sáng, thì ánh sáng trong lòng lại bị lu mờ vì tội lỗi, gian tham và bạo tàn. Bóng đêm của ma qủi đã theo vào nơi ánh sáng để tiêu diệt con người. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy nơi nào càng văn minh, càng nhiều ánh sáng thì con người càng đi sâu vào bóng tối tội lỗi. Những thành phố lớn và những tỉnh lỵ giầu có thường là những nơi ăn chơi trụy lạc và tiêu xài hoang phí.

Chúa Kitô là ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian không muốn tiếp nhận ánh sáng. Chúa dọi chiếu ánh sáng vào tâm hồn khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngài mong ước ngọn nến cháy mãi và dọi chiếu ánh sáng trong tối tăm. Đó chính là ánh sáng đức tin. Ánh sáng đức tin cần đặt trên giá cao để soi sáng dẫn chúng ta đi.

Có gia đình nọ mời linh mục đến làm phép nhà. Chủ nhà hướng dẫn linh mục đi rẩy nước thánh các phòng ốc trong nhà. Chỗ nào cha thấy cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Nên chỗ nào cha cũng rẩy nước thánh. Sau khi làm phép mọi nơi xong, tới khu hầm kho, bà chủ nhà chần chừ không muốn bước xuống và bà nói: Dưới đó lộn xộn và dơ dáy lắm cha ơi. Cha trả lời: Càng lộn xộn, càng dơ dáy thì càng phải làm phép. Phải đem ánh sáng vào chỗ tối tăm chứ.

Chúa mời gọi chúng ta hãy bước ra khỏi đêm tối và đi giữa ban ngày. Bóng tối là nơi rình rập của ma qủi. Chúng ta là con cái sự sáng, hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô.


TUẦN 3 MÙA THƯỜNG NIÊN
THỨ HAI
Mc. 3: 22-30


Có mấy người luật sĩ nói rằng: Ông ấy bị qủy Bêelgiêbút ám và chính nhờ tướng qủy mà ông ấy trừ qủy. Đây là trò chơi chụp mũ của các ông luật sĩ. Họ thấy có quá nhiều người theo Chúa và tôn kính Chúa, họ trở nên ghen tương và muốn hạ danh giá của Chúa. Đúng là trò đời, thời nào cũng thế!

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với họ: Làm sao Satan có thể trừ Satan được. Nếu một nhà tự phân tán, nhà đó không thể đứng vững. Kinh nghiệm cuộc sống ở đâu cũng thế. Cả những tên đầu trộm đuôi cướp họ cũng phải đoàn kết với nhau để sống còn. Người ta có sống đời khủng bố giết chóc, họ cũng phải gắn bó và giữ bí mật cho nhau. Tại sao Satan lại đi xua trừ Satan. Những người luật sĩ đã phạm đến danh dự của Chúa. Cho dù họ không biết Chúa là ai, họ cũng không có quyền dối trá lừa đảo dân chúng.

Chúa Giêsu nói: Mọi tội lỗi mà con cái loài người đã phạm sẽ được tha, nhưng tội phạm đến Chúa Thánh Thần thì muôn đời sẽ không được tha. Các nhà lãnh đạo tôn giáo dần dần trở thành thế đối nghịch với Chúa Giêsu. Họ không loại trừ một khả năng nào mà không tìm cách hạ bệ Chúa xuống. Họ đã làm một lỗi lầm rất lớn. Họ là những người thay mặt Thiên Chúa dẫn dắt dân chúng trong chân lý nhưng chính họ lại đi trong lầm lạc. Người mù dắt người mù cả hai sẽ rơi xuống hố.

THỨ BA
Mc. 3: 31-35


Đức Maria và anh em của Chúa vẫn thường đi theo Chúa. Họ đến để nâng đỡ và phụ giúp cho Chúa trong cuộc truyền đạo. Có lần Đức Mẹ cùng Chúa đi ăn tiệc cưới Cana. Làm sao Đức Maria có thể ngồi yên khi Con của mình ra đi loan báo tin mừng. Mẹ đi theo Chúa để cùng chia xẻ những vui buồn, những hiểu lầm và những sự chống đối của người đời.

Mẹ Maria thấu hiểu Chúa hơn ai hết nhưng Mẹ rất khiêm tốn, và âm thầm theo Chúa. Người ta báo cho Chúa biết rằng Mẹ ngoài kia đang tìm Chúa. Chúa Giêsu hướng dẫn họ về một hướng khác quan trọng hơn. Ngài hỏi: Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta? Ngài rảo mắt chung quanh và nói: Những ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta.

Hơn ai hết, Mẹ Maria là người suốt đời lắng nghe lời Chúa và luôn suy niệm trong lòng. Không phải Chúa Giêsu hạ thấp vai trò của Mẹ Maria nhưng chính Chúa đã giới thiệu cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời cho đời sống tông đồ của Mẹ. Chúa cũng mở rộng cửa ngõ để đón nhận mọi người gia nhập vào gia đình thiêng liêng của Chúa. Ai làm theo thánh ý Chúa người đó sẽ là người nhà của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa cho chúng con cơ hội để được gia nhập và chia xẻ tình thân thương như là anh chị em một nhà với Chúa. Xin cho chúng con noi gương Mẹ Maria luôn lắng nghe và biết thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống.

THỨ TƯ
Mc. 4: 1-20


Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy cho dân chúng đang đứng dọc theo bờ biển. Cảnh vẻ rất thơ mộng. Biển cả thì bao la. Chúa ngồi trên thuyền sóng vỗ bập bềnh. Chúa giảng về dụ ngôn người đi gieo giống. Chúa nói rằng: Trong khi gieo có hạt rơi xuống vệ đường, có hạt rơi trên đất đá, có hạt rơi vào bụi gai và có những hạt rơi vào đất tốt. Hạt rơi vào đất tốt mọc lên, nẩy nở và sinh hoa trái.

Chúa vừa giảng vừa giải thích dụ ngôn, có lẽ ai nghe cũng hiểu được ý nghĩa đích thực của dụ ngôn. Hình ảnh dụ ngôn rất sinh động, nó được đưa vào lòng người nghe. Những người đang đứng dọc theo bờ biển nghe Chúa giảng, có nhiều loại tâm hồn như trong dụ ngôn. Có những tâm hồn cứng như sỏi đá, có những tâm hồn hẹp hòi làm lời Chúa chết ngạt và có những tâm hồn như những mảnh đất phì nhiêu, lời Chúa được đón nhận và sinh hoa kết quả.

Dụ ngôn Chúa dạy không chỉ cho những người của hai ngàn năm về trước nhưng dụ ngôn lời Chúa nói cho chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta đón nhận lời Chúa thế nào ? Tâm hồn của chúng ta ra sao? Có khi nào chúng ta nghĩ tâm hồn của chúng ta như đất vệ đường chai cứng, như sỏi đá vừa nghe nhưng lo lắng việc trần tục, như bụi gai trộn lẫn ham muốn ở đời và cũng có thể là mảnh đất tốt, biết đón nhận, lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống. Lạy Chúa, xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con thành mảnh đất tốt.

THỨ NĂM
Mc. 4: 21-25


Chúa Giêsu nói với dân chúng: Phải chăng đèn mang đến là để đặt dưới đáy thùng hay dưới gầm giường? Chẳng phải là đặt trên giá đèn sao? Đèn là để soi sáng cho mọi người trong nhà. Sống ở vùng quê, chúng ta thường dùng đèn dầu để đốt. Đèn được đặt trên cao để ánh sáng tỏa lan ra chung quanh. Cũng thế, khi chúng ta dùng bóng điện, điện treo trên trần nhà để dọi sáng cho cả phòng.

Chúa Giêsu dùng hình ảnh cụ thể để đưa vào bài học áp dụng trong cuộc sống. Gương sáng cần được tỏ bày và những gì tốt lành cần được loan truyền ra chung quanh. Chúa nói rằng: Chẳng có gì che giấu mà không bị lộ ra. Sự thật thì chỉ có một. Chúng ta không thể đánh tráo sự thật và sự gian dối. Mọi sự đều sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Giữa ánh sáng ban ngày, chúng ta sẽ nhận biết thực hay giả.

Lời Chúa là lời chân lý. Lời Chúa là lời hằng sống. Chúa kêu mời chúng ta: Ai có tai để nghe thì hãy nghe. Nếu chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành thì như người đốt đèn rồi đặt trên giá cao để nêu gương sáng cho mọi người. Biết rằng chúng ta sống là sống với và cùng người khác. Mọi lời nói và hành động của chúng ta đều ảnh hưởng tới người khác. Khi chúng ta nói tốt và làm việc tốt, chúng ta sẽ là gương sáng và khi chúng ta nói lời gian dối và làm việc mờ ám, chúng ta sẽ nên gương mù cho những người chung quanh. Chúng ta phải là đèn dọi sáng vào đêm tối.

THỨ SÁU
Mc. 4: 26-34


Hạt giống được gieo xuống đất từ từ phát triển mỗi ngày. Đất tự nó làm trổ sinh hoa trái. Cho dù con người không cần vun xới hay chăm sóc. Chúa Giêsu nói với dân chúng về Nước Thiên Chúa cũng giống như người kia gieo hạt giống xuống đất, dù người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ nẩy mầm và mọc lên.

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để diễn tả về nước trời. Hạt giống lời Chúa cứ tiếp tục được gieo vãi trong lòng người từ thời này qua thời kia. Hạt giống âm thầm nẩy nở và phát triển. Chúng ta quan sát sự phát triển của Giáo Hội qua các thời đại. Từ một nhóm nhỏ các tông đồ mà Chúa Giêsu đã kêu gọi và trao ban sứ mệnh. Hạt giống đầu tiên đã gieo vào lòng các ngài và hạt giống được nhân lên qua các thế hệ.

Đã có biết bao nhiêu người được lắng nghe lời Chúa qua sách vở, truyền thanh, truyền hình, điện thư, sự giảng dạy và đời sống chứng nhân. Đây là một sự cố gắng liên tục của Giáo Hội qua mọi thời đại. Lời Chúa được lắng nghe, suy niệm và sinh hoa trái trong đời sống. Hạt giống ngoài đồng nội cần có đủ môi trường sinh sống là hạt giống phát triển nhưng hạt giống lời Chúa cần được gieo vãi và chăm sóc.

Lạy Chúa, lời Chúa là hạt giống sống động. Lời Chúa có nguồn sinh lực nội tại phát triển không ngừng. Xin Chúa cho lời Chúa thấm nhập tâm hồn của chúng con để sinh hoa quả.

THỨ BẢY
Mc. 4: 35-41


Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta đối diện nhiều khó khăn làm cho chúng ta lo lắng và sợ hãi. Chúng ta lo lắng cho ngày mai, lo những gì đang tới, lo cho gia đình, lo cho con cái và lo cho công ăn việc làm. Lo lắng nhiều quá làm cho chúng ta sợ hãi. Sợ sẽ không thành công hay không có kết quả tốt. Sợ những cái ngoài tầm tay của chúng ta.

Lời Chúa nói với các tông đồ đang chống trả với sóng biển: Tại sao các con sợ hãi thế? Các tông đồ sợ chứ vì cuồng phong nổi lên và nước tràn ập vào thuyền gần chìm. Các ông sợ cho mạng sống của mình và mạng sống của Thầy nữa. Nhưng các tông đồ cũng có một chút hy vọng vào Thầy khi các ông đánh thức Thầy: Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao? Chúa quan tâm lắm chứ, Chúa muốn các môn đệ nhận ra bàn tay của Thiên Chúa có quyền trên sóng biển. Ngài nói với biển: Im đi, lặng đi. Tức thì gió ngưng, biển lặng như tờ.

Chúa củng cố lòng tin của các tông đồ bằng những phép lạ cả thể nhưng rồi lòng các ông đâu lại vào đó. Khi vào lại bờ, mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Các ông vẫn chưa nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa có quyền phép vô cùng. Các ông như vẫn còn mơ hồ thật thật hư hư về chính Thầy của mình. Niềm tin thật khó diễn tả. Đây là mầu nhiệm nhập thể, chỉ khi nào Con Người bị treo lên, khi đó họ mới có thể hiểu về con người của Chúa Giêsu.
 
Đức Giêsu - Ánh sáng chiếu soi trần gian
Lm Đan Vinh
23:24 21/01/2020

Chúa Nhật 3 Thuờng Niên A
Is 8,23b-9,3; 1 Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 4,12-23

(12) Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. (13) Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li. (14) Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: (15) “Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan. Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại ! (15) Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi !” (17) Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. (18) Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-mon cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. (19) Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. (20) Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. (21) Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. 22) Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người. (23) Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.

2. Ý CHÍNH:

Nghe tin Gio-an Tẩy Giả bị nộp, Đức Giê-su từ Giê-ru-sa-lem lui về Ga-li-lê để tránh bị theo dõi, và hoạt động trong môi trường có nhiều dân ngoại như Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Ngươi chọn thành Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo và từ đây Người đi các nơi rao gảng Tin Mừng Nước Trời. Nội dung các bài giảng được tóm lại như sau: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đức Giê-su cũng chọn 4 môn đệ đầu tiên gồm 2 đôi anh em. Một là Si-mon Phê-rô và An-rê đang thả lưới trên biển hồ. Hai là Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trong thuyền cùng với cha và các người làm công. Nghe Đức Giê-su kêu gọi, các ông lập tức từ bỏ tất cả mà theo làm môn đệ của Người.

3. CHÚ THÍCH:

- C 12-13: + Nghe tin ông Gio-an đã bị nộp: Thánh Mát-thêu dùng từ “bị nộp” thay vì “bị bắt” khi nói về Gio-an, giống như khi nói về Đức Giê-su (x. Mt 10,4; 17,22; 26,2). Qua đó cho thấy số phận của Gio-an giống như Đức Giê-su. Dùng từ “bị nộp” ở thể thụ động là có ý nói biến cố xảy ra là do ý của Thiên Chúa. Đức Giê-su bắt đầu rao giảng khi Gio-an chấm dứt sứ mệnh tiền hô dọn đường. + Người lánh qua miền Ga-li-lê: Khác với Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su lui về Ga-li-lê là vùng đất có nhiều dân ngoại sinh sống, để khởi sự rao giảng Tin Mừng. Cũng tại Ga-li-lê, Người sẽ quy tụ các môn đệ lần cuối cùng để sai đi khắp thế gian, tiếp tục sứ mệnh mà Người khởi sự hôm nay. + Người bỏ Na-da-rét đến ở Ca-phác-na-um: Đức Giê-su đã không chọn quê hương Na-da-rét, nhưng chọn Ca-phác-na-um để bắt đầu sứ mệnh rao giảng. + Một thành ven biển hồ Ga-li-lê: Thành Ca-phác-na-um nằm trong vùng đất định cư của hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li (x. Gs 19,10.32-39).
- C 14-16: + Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: I-sai-a tiên báo vùng Ga-li-lê thuộc hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, không những được thoát ách thống trị của quân Át-sy-ri về chính trị quân sự, mà còn được giải phóng khỏi cảnh “tối tăm sầu khổ” do bị dân ngoại chiếm cứ. + Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại: Ga-li-lê là nơi bị khinh dể vì là vùng đất có nhiều dân ngoại sống chung với dân Do thái, và chưa có vị Ngôn sứ nào xuất thân ở đó (x. Ga 1,46). Điều này nằm trong chương trình hành động của Đấng Thiên Sai đã được Ngôn sứ I-sai-a báo trước. + Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm: Mát-thêu ứng dụng việc Đức Giê-su đến làm cho miền đất này khỏi bóng tối sự chết bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời. “Ánh sáng huy hoàng” là chính Đức Giê-su biểu lộ khi Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,2), và tiếp tục chiếu rọi khi Chúa Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ để sai họ đi truyền giáo (x Mt 28,16-20).
- C 17-18: + Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói: Đối với Mát-thêu thì đây là thời điểm Đức Giê-su bắt đầu thi hành sứ mệnh cứu thế tại Ga-li-lê. Lời giảng được Mát-thêu tóm gọn trong câu: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Đây cũng là nội dung mà Đức Giê-su truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo (x. Mt 10,7). + “Anh em hãy sám hối”: Câu này giống như lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trước đó (x. Mt 3,2). + Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời, hay cũng gọi là Nước Thiên Chúa. Vì Mát-thêu viết Tin Mừng cho người Do thái, nên tránh gọi tên Thiên Chúa để biểu lộ lòng kính trọng Thánh Danh của Người trong điều răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”. Nước Thiên Chúa là một cộng đoàn do Thiên Chúa cai quản. Nước này đã tới gần trong con người và sứ vụ của Đức Giê-su. + Biển hồ Ga-li-lê: Là một biển hồ hồ hình quả trám dài 21 cây số, rộng 12 cây số, cũng có tên là hồ Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-a. + Si-mon cũng gọi là Phê-rô: Si-mon là tên của Phê-rô trước khi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su đã đổi tên Si-mon thành Phê-rô nghĩa là “Tảng Đá” (x. Mt 16,18).
- C 19-20: + Kẻ lưới người như lưới cá: Đức Giê-su sẽ trao sứ mệnh đánh lưới các linh hồn người ta, giống như đi chài lưới bắt cá. + Lập tức bỏ chài lưới: Đây là thái độ dứt khoát và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su: bỏ nghề cũ để theo nghề mới.
- C 21-23: + Gia-cô-bê: Đây là Gia-cô-bê Tiền nghĩa là theo Chúa trước, phân biệt với Gia-cô-bê Hậu theo Chúa sau. Gia-cô-bê với em là Gio-an cùng Si-mon Phê-rô làm thành nhóm ba người thân tín của Đức Giê-su. Nhóm này được đi theo Đức Giê-su và được chứng kiến Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,1). Trong cuộc khổ nạn, ba người này cũng được theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni chứng kiến Người cầu nguyện trước khi bị bắt (x. Mt 26,37-46). + Lập tức các ông bỏ thuyền bỏ cha…: Cũng như Si-mon và An-rê lập tức bỏ nghề, Gia-cô-bê và Gio-an cũng dứt khoát từ bỏ tài sản là thuyền, và từ giã người thân là cha già mà theo làm môn đệ Đức Giê-su. + Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê: Việc truyền giáo cần phải năng động. Đức Giê-su và các môn đệ đi đây đi đó khắp miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân: Viêc chữa bệnh là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Mt 10,8; 11,4-5).

4. CÂU HỎI:

1) Tại sao Mát-thêu dùng kiểu nói “Sau khi Gio-an bị nộp” thay vì “bị bắt”?
2) Gio-an Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối tại miền nào, và Đức Giê-su khởi sự rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại miền nào?
3) Đức Giê-su đã làm gì để chiếu soi ánh sáng huy hoàng của Người vào miền Ga-li-lê đang ở trong bóng tối sự chết?
4) Lời giảng của Đức Giê-su được tóm lại trong câu nào?
5) Tại sao Mát-thêu dùng từ “Nước Trời đã đến gần” thay vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” như Lu-ca?
6) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê?
7) Phê-rô là ai? Tên Phê-rô nghĩa là gì và ông được Đức Giê-su đổi tên khi nào?
8) Trong Nhóm 12 có mấy ông tên Gia-cô-bê ? Tại sao lại gọi là Gia-cô-bê Tiền hay Gia-cô-bê Hậu?
9) Noi gương bốn môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta nên làm gì khi được Chúa mời gọi đi theo Chúa?
10) Đức Giê-su nêu gương nhiệt tình đi loan báo Tin Mừng như thế nào? Người thi hành sứ mệnh bằng những việc gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

2. CÂU CHUYỆN:

1) ÁNH SÁNG HY VỌNG ĐÃ XUẤT HIỆN GIỮA ĐÊM TỐI:

Chiều hôm ấy, hai cậu bé rủ nhau vào rừng chơi. Thế rồi một trận mưa bất thần đổ xuống. Mưa dai dẳng suốt hai tiếng đồng hồ. Đến lúc tạnh thì trời đã tối. Hai cậu bé vừa lạnh lại vừa sợ. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi hai cậu bé không còn tìm thấy con đường dẫn về nhà. Nhưng rồi một ánh sáng bỗng xuất hiện từ xa. Hai cậu bé khấp khởi mừng thầm. Cả hai đều cố gắng vừa kêu vừa gọi. Thì ra người anh đang cầm chiếc đèn đi tìm hai cậu bé. Và cuối cùng đã đưa hai cậu bé trở về tới nhà an toàn.

2) MAU MẮN ĐÁP LẠI TIẾNG CHÚA KÊU GỌI:

Ơn gọi của Mẹ Têrêsa Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến gặm nhấm con người bất hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ nhất định cứ đứng ở trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố này, Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hãy dấn thân cho những kẻ bị bỏ rơi. Và thế là Mẹ đã xin ra khỏi dòng, đến sống ở một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là người sáng lập nên một hội dòng mới chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ trên khắp thế giới.

3) THÓI THAM LAM ÍCH KỶ LÀ NGUỒN GỐC PHÁT SINH MỌI TỘI ÁC:

Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với các thánh. Gặp thời kỳ phải cạnh tranh gay gắt trong công việc làm ăn, anh ta lại càng đi cầu khấn gấp bội.

Động lòng trắc ẩn, một hôm một sứ thần đã hiện ra với anh và nói: "Thấy con thành tâm cầu xin nên Chúa không nỡ chối từ và sai ta đến với con. Vậy bây giờ con hãy cho ta biết con ước muốn điều gì, để ta sẽ thay quyền Chúa ban cho... Đồng thời để chứng tỏ cho loài người biết lòng quảng đại của Thiên Chúa, thì hễ con nhận được một điều gì, thì Chúa nhân từ cũng sẽ ban cho các đồng nghiệp hay hàng xóm của con được gấp đôi như thế".

Nghe sứ thần phán, lòng anh thương gia từ chỗ vui mừng hân hoan biến thành sầu buồn tức giận. Anh tự nhủ: "Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn... sẽ được hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm... sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin được vợ đẹp con khôn thì đồng nghiệp của mình lại sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó có tới hai vợ, còn mình chỉ có một... Trong thời buổi cạnh tranh thế này thì mình phải làm sao hơn bọn chúng chứ! ".

Anh nhà buôn nhíu mày suy nghĩ đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì xuống và thưa với sứ thần: "Lạy Sứ thần, xin cầu cùng Chúa cho con bị đui một con mắt".

Quả là một lời khẩn cầu quái lạ! Anh ta không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác được may lành gấp đôi. Cuối cùng anh đã xin cho mình bị rủi ro để kẻ khác bị hại gấp đôi mình, là xin cho anh bị đui một con mắt để những kẻ kia bị mù cả hai mắt luôn. Đây thật là một con người tiểu nhân và quá nhẫn tâm !!!

4) VIỆC BÁC ÁI LÚC CÒN SỐNG ĐÁNG QUÝ HƠN SAU KHI CHẾT

Một người kia rất giàu tiền bạc của cải. Ông có lòng tốt dự định sẽ di chúc lại toàn bộ tài sản của mình sau khi chết để các tổ chức từ thiện lo phục vụ cho người nghèo. Nhưng đi đến đâu ông cũng chỉ nhận được những cái nhìn khinh thường của mọi người. Ông ta liền tìm đến một ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và hỏi: “Thưa thầy, tại sao dù tôi đã làm chúc thư để lại toàn bộ gia sản lớn lao của tôi cho các công việc từ thiện bác ái, thế mà nhiều người vẫn nghĩ tôi là loại người keo kiệt và khinh thường tôi. Vậy tôi phải làm gì để họ biết về lòng quảng đại của tôi và kính trọng tôi hơn ?”

Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi của người giàu có kia, vị ẩn sĩ đã kể cho ông ta nghe một câu chuyện như sau: “Có một chú heo nọ một hôm gặp chị bò sữa liền mở miệng than thở như thế này: Này chị bò, tôi và chị đều cống hiến thịt mình làm thức ăn cho loài người. Thế mà thật đáng buồn ! Tôi thấy họ tỏ ra thân thiện và âu yếm vuốt ve chị. Còn tôi thì lại bị khinh dể xa lánh ?” Ngẫm nghĩ một lát rồi chị bò cái mới ôn tồn trả lời chú heo rằng: “Quả thật cả hai chúng ta đều cung cấp cho loài người thịt để ăn sau khi chúng ta chết. Nhưng sở dĩ họ quí mến tôi hơn chú, theo tôi nghĩ có lẽ là vì ngay từ bây giờ lúc còn sống, mỗi ngày tôi đều cống hiến cho họ sữa tươi để uống chăng ?”

Câu trả lời của chị bò sữa dạy chúng ta: “Của cho không bằng cách cho” và “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Cho người khác những cái họ đang cần thì tốt hơn để lại chúc thư cho họ của cải sau khi mình chết, khi mình không thể sử dụng được nữa. Điều người khác cần nơi chúng ta không những là tiền bạc của chúng ta, mà còn là tình thương, sự quan tâm của chúng ta. Muốn được người khác quý mến kính trọng thì chúng ta phải quan tâm đến kẻ khác trước, cởi mở tâm hồn với họ, mở rộng trái tim để yêu thương và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ.

5) QUẢNG ĐẠI DẤN THÂN PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO:

Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu ALBERT SCHWEITZER làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau (1952). Albert Schweitzer được giải thưởng Nobel hoà bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: Ông vừa là một triết gia lừng danh, một nhà thần học nổi tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc và còn là một bác sĩ thừa sai nữa.

Nhưng điểm nổi bật nhất nơi ông là niềm tin Ki-tô giáo sâu sắc. Chính niềm tin này đã khiến ông thành “người hùng của thế kỷ”: Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó. Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30 của ông, nhằm ngày 13/10/1905, ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai để phục vụ đám dân nghèo.

Những lá thư của ông lập tức bị phản đối ngay. Bà con và bè bạn ông đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của ông. Họ bảo ông là một người đem chôn dấu tài năng đã được uỷ thác cho ông… Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những ý định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi Châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực gọi là Phi Châu xích đạo. Tại đây, ròng rã suốt hơn bốn mươi năm trời, ông đã dùng hết tài năng và sức lực để đêm ngày tận tuỵ săn sóc những người dân bản xứ nghèo nàn bệnh tật, với tất cả tình yêu thương và lòng nhân ái. Sau cùng ông đã chết ở đó vào năm 1965, hưởng thọ 90 tuổi.

Thưa anh chị em, động lực nào đã khiến ông Schweitzer quay lưng lại với danh vọng và của cải trần gian để dấn thân làm việc cho đám dân cùng khổ nhất trong đám dân nghèo ở Phi Châu?

Theo lời ông, thì một trong những động cơ thôi thúc ông làm điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng của Chúa Giê-su. Ông đã lắng nghe tiếng gọi của Chúa và quyết tâm đáp lại bằng cách dấn thân phục vụ dân nghèo ở Phi Châu như có lần ông đã phát biểu: “Tôi không thể hiểu được tại sao tôi lại được phép sống một cuộc đời hạnh phúc như thế, đang khi chung quanh tôi còn biết bao người đang quằn quại trong đau khổ”.

3. SUY NIỆM:

1) ĐỨC GIÊ-SU VỀ MIỀN GA-LI-LÊ:

Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã không chọn thủ đô Giêrusalem, tuy hầu hết theo đạo Mô-sê, nhưng vua chúa thì độc ác, đã từng tìm bách hại Người ngay từ khi mới sinh và gần đây còn ra lệnh chém đầu Gio-an là vị Tiền Hô dọn đường cho Người. Còn các đầu mục Do thái là các thượng tế, kinh sư, và biệt phái thì lòng chai dạ đá, không chấp nhận một Đấng Thiên Sai không theo ý mà họ đang mong chờ.
Đức Giê-su đã chọn Galilêa là vùng dân ngoại sống lẫn lộn với dân Do thái, nhưng lại sẵn sàng đón nhận Tin Mừng Nước Trời của Người. Galilêa còn là miền đất bị người Do thái khinh miệt, coi là của ngoại bang. Ngay từ ban đầu Đức Giê-su đã không đóng khung Tin Mừng Nước Trời trong Đền thờ, vì Người muốn Giáo Hội Người thiết lập phải không ngừng ra đi, đến với mọi dân tộc, ngôn ngữ, nhất là đến với những người nghèo khó, bệnh tật, tội lỗi và bị bỏ rơi.

2) ĐỨC GIÊ-SU KÊU GỌI 4 MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN:

Đức Giê-su không làm việc một mình, nhưng Người muôn cho có nhiều người cùng hợp tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Người mời gọi hai anh em Si-mon Phê-rôvà An-rê: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Người cũng gọi hai anh em con ông Giê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đi theo làm môn đệ của Người (x. Mt 4,19-21). Sau đó Người vào giảng dạy trong các hội đường Do thái, rao giảng Tin Mừng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân (x. Mt 4,23). Người không đóng khung ở một nơi, nhưng luôn đi từ làng này sang làng khác, để thi hành sứ vụ như Người đã nói: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38).

3) TIÊU CHUẨN CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ THỜI CHÚA GIÊ-SU:

Đức Giê-su không lựa chọn môn đệ ở trong Đền thờ, nơi có nhiều nhà thông hiểu Kinh thánh và Lề luật, nhưng chọn môn đệ là những người thuyền chài ít học, sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.

- PHẢI CÓ TINH THẦN TỪ BỎ: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi hai ông Si-mon và An-rê: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gio-an . Thái độ của họ là lập tức bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già và những người làm công mà đi theo làm môn đệ Người (x. Mt 4,20.22);.
- CÁC ĐỨC TÍNH CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ: Ngoài việc từ bỏ mọi sự, các ông còn cần tin Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai (x. Mt 16,16) và trung thành theo Người đến cùng (x. Ga 6,67-69); Các ông phải có lòng khoan dung tha thứ lỗi lầm của kẻ khác và biết tế nhị khi sửa lỗi cho nhau (x. Mt 18,15-17); Phải có tinh thần khiêm hạ để phục vụ tha nhân noi gương Đức Giê-su (x. Mt 20,24-28); Phải có lòng mến Thầy hơn những người khác (x. Ga 21,15-17), vì lòng mến là điều kiện cần phải có để được Chúa tha tội (x. Lc 7,47) và để có thể hăng say rao giảng Tin Mừng (x. 2 Cr 5,14); Cần biết xin ơn Chúa trợ giúp: “Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5); Phải khôn ngoan phòng tránh các cạm bẫy và luôn công minh chân thật để gây được thiện cảm với mọi người (x. Mt 10,16); Phải can đảm để làm chứng cho Chúa (x. Mt 10,23) và không chùn bước trước các đe dọa cấm cách (x. Mt 10,26-31); Phải sống yêu thương hiệp nhất với nhau, vì là dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Đức Giê-su (x. Ga 13,34).

4) HÀNH TRÌNH LOAN BÁO TIN MỪNG HÔM NAY:

Đức Giê-su đã kêu gọi các môn đệ và các ông đã mau mắn đáp trả bằng việc từ bỏ mọi sự mà đi theo, để được sống thân tình với Người, được Người sai đi thực tập truyền giáo và cuối cùng phải “Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,46-47).

Loan báo Tin Mừng trong thế giới và trong xã hội Việt Nam hôm nay, không phải chỉ lo về số lượng là nhiều người lương chịu phép Rửa tội, nhưng trước hết phải có chất lượng là thấm nhuần tinh thần Phúc Âm trong tư tưởng lời nói, cách ứng xử của mỗi tín hữu. Rồi phải lo đưa tinh thần lối sống hiệp nhất yêu thương vào trong gia đình, khu xóm và nơi làm việc của mình.

4. THẢO LUẬN:

1) Kèm theo lời giảng, Đức Giê-su đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần làm gì kèm theo việc rao giảng, để dễ được người nghe đón nhận ?
2) Hôm nay, bạn sẽ đáp trả tiếng Chúa thế nào khi được mời tham gia các sinh hoạt hội họp cầu nguyện và làm công tác trong các hội đoàn tông đồ?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay xin Chúa dạy chúng con biết chiếu ánh sáng của Chúa qua thái độ luôn tươi cười, ngay cả những lúc xem ra cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến cuộc sống, dù không phải lúc nào cuộc sống cũng là màu hồng đáng yêu. Thực ra, chúng con luôn có nhiều lý do để lo âu chán nản và muốn bỏ cuộc. Nhưng xin Chúa đừng để nụ cười bị tắt trên môi chúng con. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn !”. Ước gì chúng con luôn thấy mình thật hạnh phúc vì được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn mang niềm vui của Chúa, để làm cho gia đình, khu xóm, xí nghiệp trường học con đang sống được tràn đầy niềm vui và ơn cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.



 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Cuốn Từ thẳm sâu tâm hồn chúng tôi trở thành sách bán chạy nhất
Đặng Tự Do
03:12 21/01/2020
Báo Ý La Stampa cho biết La Procure, cửa hàng sách Công Giáo quan trọng nhất ở Paris, cách Nhà thờ Saint-Sulpice nổi tiếng vài bước, đã bị bão theo đúng nghĩa đen, từ hôm 15 tháng Giêng, khách hàng chen chân để mua cho được cuốn sách. Thoạt đầu, nhà sách nhận được 300 đơn đặt hàng cho ngày ra mắt 15 tháng Giêng. Chỉ vài ngày sau, con số này đã tăng gấp ba lần. Điều tương tự cũng đã xảy ra ở các nhà sách khác ở Paris, chẳng hạn như chuỗi các nhà sách lớn Fnac, và trên các trang web tương ứng của họ.



Charles de Bistournet-Castelmerle, tweet rằng “3 giờ sau khi nhận được lô sách Des profondeurs de nos coeurs, tất cả các cuốn sách của chúng tôi đều đã được bán hết, thậm chí không kịp bày lên kệ: tất cả mọi người đều muốn phiên bản đầu tiên, hai vị đồng ký tên.

Nhiều người mua nó để tặng cho các linh mục của họ.

Thật là một sư gắn bó sâu sắc.”

“Des profondeurs de nos coeurs”, nghĩa là “Từ thẳm sâu tâm hồn chúng tôi”, cuốn sách của Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Sarah, về luật độc thân linh mục đang trở thành sách bán chạy nhất. “Nó đang được bán ra ào ào, rất tốt”, nguồn tin của Pháp xác nhận với tờ Vatican Insider.

Trận đánh hội đồng Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Sarah trên các phương tiện truyền thông đã có một tác dụng ngược lại là quảng cáo không công cho cuốn sách. Đầu tiên, nhiều người kinh ngạc vì cuốn sách được cho là sự can thiệp bất ngờ của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 đối với một vấn đề nhức nhối liên quan đến vận mệnh của Giáo Hội.

Từ đầu đến cuối sự nghiệp của ngài, Đức Ratzinger/Bênêđíctô đã tạo ra một số kiệt tác thần học sáng ngời nhất trong truyền thống vĩ đại. Không kể cuốn mới nhất này, Đức Ratzinger/Bênêđíctô đã viết 68 cuốn sách, 50 bài khảo luận Thần học, 3 thông điệp, và 3 Tông huấn. Tất cả các cuốn sách của ngài đều là những sách bán rất chạy. Trong bối cảnh ngài về hưu, ít viết lách hơn, cuốn “Des profondeurs de nos coeurs” càng trở nên quý hiếm.

Trưa ngày 14 tháng Giêng, Đức Tổng Giám Mục Georg Gänswein nói với hãng tin ANSA của Ý rằng: “Tôi có thể khẳng định rằng sáng nay tôi đã hành động theo những chỉ thị của Đức Giáo Hoàng Danh Dự và tôi đã yêu cầu Đức Hồng Y Robert Sarah tiếp xúc với các nhà xuất bản của cuốn sách và yêu cầu họ xóa tên Đức Bênêđíctô XVI với tư cách là đồng tác giả của cuốn sách, và xóa chữ ký của ngài khỏi phần giới thiệu và cả phần kết luận nữa.”

Đức Tổng Giám Mục Gänswein nói tiếp rằng: “Đức Giáo Hoàng Danh Dự biết rằng Đức Hồng Y đang chuẩn bị một cuốn sách và đã gửi cho ngài một văn bản về chức tư tế cho phép ngài sử dụng nó theo ý muốn. Tuy nhiên, ngài không chấp nhận một dự án cho một cuốn sách đồng tác giả và ngài đã không nhìn thấy hoặc đồng thuận với tờ bìa. Đó là một sự hiểu lầm, và không có gì để nghi ngờ về lòng trung thành tốt lành của Đức Hồng Y Sarah.”

Đức Hồng Y Sarah sau đó đã tweet rằng: “Xét vì những cuộc bút chiến gây ra bởi việc công bố cuốn sách ‘Từ thẳm sâu tâm hồn chúng tôi’, tên tác giả của cuốn sách cho các ấn phẩm trong tương lai đã được quyết định là: ‘Đức Hồng Y Sarah, với sự đóng góp của Đức Bênêđictô XVI’. Tuy nhiên, toàn văn vẫn hoàn toàn không thay đổi.”

Trước chuyển biến này, nhà xuất bản Fayard nói họ không thể nào sửa kịp cho nên phiên bản đầu tiên vẫn ghi Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Sarah là đồng tác giả. Cái vụ lộn xộn “đồng tác giả” hay không này, lại thúc bách người dân Pháp chen chân nhau mua cho bằng được bản đầu tiên. Chính vì thế, Charles de Bistournet-Castelmerle, mới tweet rằng “tous veulent la première version, co-signée”, “mọi người ai cũng muốn mua cho được phiên bản đầu tiên, đồng ký tên”.

Nhà xuất bản Fayard chỉ in bản tiếng Pháp. Cha Joseph Fessio, linh mục dòng Tên, người sáng lập và là chủ nhiệm nhà xuất bản Ignatius Press, chịu trách nhiệm in bản tiếng Anh “From the Depths of Our Hearts”, cho biết nhà xuất bản của ngài tiếp tục xuất bản cuốn sách theo dự trù trong đó Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Sarah là đồng tác giả.


Source:La Stampa
 
Trước thềm Canh Tý, Trung quốc báo động đỏ dịch coronavirus lây lan từ người qua người.
Trần Mạnh Trác
10:18 21/01/2020



Tin dồn dập mỗi ngày cho thấy một loại dịch bí mật giống như loại cúm gà (coronavirus) càng ngày càng lan rộng ra ở Trung Hoa và nay đã bắt đầu lây qua các quốc gia láng giềng.

Hôm qua chính quyền Bắc Kinh đã phải thừa nhận rằng loại virus có tên là 2019-nCoV đã lan ra các nước láng giềng như Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc. Đài Loan và Úc cũng bá cáo phát hiện ra một số trường hợp nhiễm trùng.

Đây là loại dịch có thể truyền từ người qua người, số tử vong ở nơi xuất xứ Vũ Hán (Hồ Bắc) lên tới 6 người và ngày hôm qua 15 nhân viên y tế ở thành phố này đã phải nhập viện vì có triệu chứng viêm phổi trong đó có 1 ca nguy kịch. Điều này cho thấy căn bệnh này có thể lây lan dễ dàng hơn nhiều so với những suy nghĩ trước đây.

Chính quyền Vũ Hán cho biết có 130 trường hợp nhiễm trùng mới được phát hiện vào cuối tuần trước, nâng tổng số lên 198 ở đây. Trong nội địa Trung Hoa, các báo cáo nhiễm trùng cho thấy nạn dịch đã được phát hiện ở Bắc Kinh, Thâm Quyến, Chiết Giang và Quảng Đông.

Các nhà chức trách cuả nhiều quốc gia đang tăng cường kiểm soát tại các sân bay. Hiện tại, Hoa Kỳ, Úc, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản và Ý đã áp dụng các biện pháp kiểm soát tất cả các hành khách trên các chuyến bay có lịch trình đi qua Vũ Hán.

Thành phố Vũ Hán, ở tỉnh Hồ Bắc cuả Trung Quốc, là một đô thị có 11 triệu dân. Hàng ngàn du khách đi qua thị trấn mỗi năm. Đây là lý do tại sao các chuyên gia lo ngại sự bùng phát của một dịch bệnh đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên đán này, là khi hàng trăm triệu người Trung Quốc về quê ăn Tết, làm tăng cơ hội lây nhiễm.

Chính quyền Hàn Quốc đã xác nhận một trường hợp lây lan đầu tiên, bệnh nhân là một phụ nữ 35 tuổi đến từ Vũ Hán (Hồ Bắc), được phát hiện tại sân bay có triệu chứng sốt và khó thở. Người phụ nữ ngay lập tức được đưa vào phòng kiểm dịch và kiểm tra được thực hiện trên các hành khách và phi hành đoàn đi cùng với cô. Người phụ nữ trước đó đã có đến bệnh viện ở Vũ Hán để trị những triệu chứng này.

Theo Trung tâm kiểm soát dịch bệnh cuả Đài Loan thì họ cũng đã phát hiện trường hợp đầu tiên tại sân bay quốc tế Đào Viên vào hôm thứ ba. Nạn nhân là một phụ nữ đi du lịch từ Vũ Hán, cô phàn nàn với nhân viên y tế rằng cô cảm thấy bị bệnh sau khi bước ra khỏi chuyến bay. Cô đã được cách ly nơi các xét nghiệm tiếp theo xác nhận cô đã nhiễm virus.

Chính quyền Úc ở Queensland hôm thứ ba cũng đã cách ly một người đàn ông ở Brisbane, là người đã trở về từ Vũ Hán với các triệu chứng coronavirus. Ông ta sẽ bị cách ly cho đến khi các triệu chứng chấm dứt.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), virus này có thể có nguồn gốc từ thị trường hải sản hoặc động vật ở Vũ Hán. Đối với các nhà khoa học, số trường hợp bị dịch được ghi nhận chính thức là 218 người, nhưng một số chuyên gia cho rằng số người nhiễm bệnh thực sự có thể lên đến 1.700 người chỉ riêng ở Trung Quốc mà thôi.

Virus biểu hiện với các triệu chứng giống như viêm phổi. Các dấu hiệu nhiễm trùng khác bao gồm khó thở, sốt và ho. Mối quan tâm là nếu virus này có khả năng lây truyền qua tiếp xúc của con người, thì trường hợp này có thể giống như dịch Sars năm 2002-2003 (Hội chứng hô hấp cấp tính nặng) đã giết chết gần 650 người ở Trung Quốc và Hồng Kông

Nhiều biện pháp mới đang được áp dụng ở Trung Quốc sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình ra lệnh "nỗ lực kiên quyết để kiềm chế sự lây lan" vào hôm thứ Hai.

Các cơ quan du lịch đã bị cấm, nếu đã đưa khách vào Vũ Hán, thì không được đưa khách ra khỏi Vũ Hán nữa và nhiều trung tâm sàng lọc công cộng sẽ được thiết lập khắp nơi. Cảnh sát giao thông sẽ kiểm tra tất cả các cá nhân ra vào thành phố để bắt giữ tất cả mọi loại gia cầm sống hoặc động vật hoang dã, theo báo cáo của hãng thông tấn nhà nước , trích dẫn Ủy ban Y tế thành phố Vũ Hán.

Tuy nhiên, vẫn có những lo ngại từ quốc tế cho rằng những nỗ lực ngăn chặn là quá muộn, bởi vì bộ máy quan liêu chậm chạp và tham nhũng của Trung Quốc đã không có thể đưa ra các biện pháp kịp thời.

Các nhà khoa học ở Texas và New York (Hoa Kỳ) đang hợp tác Trung Quốc để nghiên cứu cấp thời một vắc-xin chống dịch, nhưng sẽ phải mất vài tháng trước khi việc thử nghiệm lâm sàng đầu tiên có thể tiến hành và hơn một năm nữa thì mới có vắc-xin.
 
Thế giới Công Giáo ngưỡng mộ Giáo Hội tại Hàn Quốc: số các tín hữu tăng gần 50% trong 20 năm qua
Đặng Tự Do
16:06 21/01/2020
Số người Công Giáo ở Hàn Quốc đã tăng đều đặn trong hai thập kỷ qua, mặc dù sự tăng trưởng có phần chậm lại trong những năm gần đây

Báo cáo do Viện Mục vụ Công Giáo Hàn Quốc công bố cho biết số Kitô hữu Công Giáo ở đây đã tăng 48.6% từ 3,946,844 tín hữu năm 1999 lên 5,866,510 tín hữu vào năm 2018.

Nếu tính theo từng giáo phận thì giáo phận Suwon, ngay phía nam Hán Thành, được ghi nhận có mức tăng cao nhất lên đến 89.1% trong giai đoạn 20 năm qua, tiếp theo là Daejeon ở miền trung Hàn Quốc với 79.6% và Uijeongbu, phía bắc thủ đô, với 78.9%.

Tỷ lệ người Công Giáo trong tổng dân số cả nước tăng từ 8.3% lên 11.1% trong giai đoạn 1999 - 2018. Nhưng tỷ lệ tham dự các thánh lễ của họ, được coi là một chỉ số chính về đời sống tôn giáo của các tín hữu, đã giảm từ 29.5% xuống còn 18.3%.

“Việc sụt giảm tỷ lệ tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật là đáng quan ngại. Tất cả các giáo phận đã thực hiện những nỗ lực đa dạng để mang các Kitô hữu trở lại nhà thờ, nhưng chưa có thay đổi đáng kể nào được ghi nhận cho đến nay. Vấn đề này đã được nhắc đi nhắc lại hàng năm,” báo cáo cho biết.

“Đây là thời gian để suy tư về công việc truyền giáo hiện nay của chúng ta và xem xét lại các phương hướng truyền giáo trong nước và ngay cả việc tái truyền giáo”.

Báo cáo cũng nhấn mạnh đến sự già hóa nhanh chóng của dân số Công Giáo. Những người ở độ tuổi 50, 60, 70 và 80 đã tăng lần lượt là 76.9%, 93%, 117% và 251.6%.

Trong khi đó, số lượng nữ tu giảm 41.5%. Năm 1999 có 24,227 nữ tu. Năm 2018 chỉ còn 14,167 dì.

Tuy nhiên, điều đáng mừng là số linh mục tăng 52.2 phần trăm từ 2,972 vị lên 4,456 vị trong giai đoạn 1999 – 2018. Số các nhà truyền giáo được phái ra nước ngoài đã tăng 204.2 phần trăm từ 356 vị vào năm 1999 lên 1,083 vị vào năm 2018.

Báo cáo của Viện Mục vụ Công Giáo Hàn Quốc cũng đề cập đến tình trạng của các tín hữu Công Giáo Bắc Hàn. Vào năm 1945, có khoảng 50,000 người Công Giáo tại các giáo xứ ở Bắc Triều Tiên. Trước Chiến tranh, Bình Nhưỡng đã từng được gọi là “Giêrusalem của phương Đông” và được coi là một trung tâm Kitô giáo ở Đông Bắc Á.

Khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào năm 1950, hầu hết các linh mục ở Bắc Triều Tiên bị bắt, bị giết, hoặc mất tích. Quá trình phong chân phước đã bắt đầu cho 40 tu sĩ và nữ tu của Tu viện Tokwon Benedictine , đã bị Cộng sản giết chết.

Vào năm 1988, một “Hiệp hội Công Giáo Hàn Quốc” đã được chính phủ Cộng sản tạo ra và có 800 thành viên. Hiệp hội này không được Vatican công nhận, nhưng có một trong ba nhà thờ do nhà nước bảo trợ và hoạt động dưới sự giám sát chặt chẽ của chính quyền Cộng sản.

Thánh lễ thỉnh thoảng được tổ chức tại Nhà thờ Changchung ở Bình Nhưỡng khi có một linh mục nước ngoài đi du lịch qua, vào các ngày Chúa Nhật, phụng vụ được cử hành bởi một cư sĩ do nhà nước bổ nhiệm.

Sự đàn áp Kitô hữu ở Bắc Triều Tiên được ghi nhận là tàn bạo hơn hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, theo Open Doors, ước tính rằng có thể có tới 300,000 Kitô hữu đang thực hành đức tin “lén lút” ở Bắc Triều Tiên. Các Kitô hữu bị phát hiện sẽ bị bắt giữ, cải tạo trong trại lao động, hoặc, trong một số trường hợp, bị hành quyết vì đức tin.

Nhiều linh mục và mục sư đã lén đi vào Bắc Triều Tiên với hy vọng bí mật truyền giáo và nhiều người đã bị bắt, nhưng các tổ chức Kitô giáo ở Hán Thành tiếp tục phát các chương trình truyền bá Tin Mừng qua miền Bắc với hy vọng rằng ai đó sẽ có thể bắt được làn sóng phát thanh.


Source:Korea Herald
 
Độc thân linh mục theo Vatican II
Vũ Văn An
17:09 21/01/2020
Hôm nay, 22 tháng 1, Vatican News, ấn bản tiếng Pháp, cho đăng tải bài báo “Le célibat sacerdotal selon le Concile Vatican II”, không đề tên người viết. Không rõ đây có phải là một dọn đường để Đức Phanxicô có quan điểm riêng của ngài khi công bố Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng sắp tới, độc lập với cuộc tranh cãi do cuốn sách viết chung của Đức Giáo Hoàng Hưu trí và Đức Hồng Y Sarah gây ra hay không, nhưng bài báo nhấn mạnh độc thân linh mục là một ơn phúc, không phải là một tín điều. Ý chính của bài viết được Vatican News tóm tắt như sau: “Sắc lệnh của Công đồng, Presbyterorum Ordinis nói đến “ơn phúc qúy giá của việc độc thân linh mục”, nhưng cũng quả quyết rằng nó không được “chính bảnh chất chức linh mục” đòi hỏi và nó cũng chứa nhiều từ ngữ quý mến dành cho “các linh mục tuyệt vời có vợ”, vốn là một thực tại hiện vẫn còn hiện diện rất rõ trong các Giáo Hội Đông Phương”.

Chúng tôi xin chuyển bài viết sang tiếng Việt:

Các trích đoạn từ cuốn sách ký tên bởi Đức Hồng Y Robert Sarah, bộ trưởng Thánh Bộ Phụng Tự Thánh, để bênh vực luật độc thân linh mục, với sự đóng góp của Đức Giáo Hoàng Hưu trí Bênêđíctô XVI, đã gây nên nhiều bài bình luận. Hôm qua, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, Matteo Bruni, đã quả quyết rằng lập trường của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã được mọi người biết đến, bằng cách nhắc nhớ rằng ngài đã nói trong chuyến phi cơ từ Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Panama trở về “Tôi nhớ câu nói của Đức Phaolô VI: ‘Tôi thà hy sinh mạng sống hơn là thay đổi luật độc thân’”. Đức Phaolô VI, được Đức Phanxicô phong hiển thánh năm 2018, quả thực là vị Giáo Hoàng tái khẳng định luật độc thân linh mục trong Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus, công bố năm 1967, trong một bầu khí tranh cãi sôi nổi về chiều kích này của chức linh mục ở một số giốc gia, nhất là ở Bỉ và Hòa Lan.

Một ơn phúc, không phải một tín điều

Cuộc tranh cãi này cũng cho phép ta trở lại với lập trường của Công đồng Vatican II về chủ đề này. Sắc lệnh Công đồng Presbyterorum Ordinis, về thừa tác vụ và cuộc sống linh mục, do Thánh Phaolô VI công bố ngày 7 tháng 12 năm 1965, quả quyết rằng “Sự chế dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời là dấu chứng và đồng thời là niềm khích lệ đức bác ái mục vụ và là nguồn mạch đặc biệt làm phát sinh đời sống thiêng liêng phong phú trên thế giới. Thực ra tự bản tính của chức Linh Mục không đòi buộc điều đó như đã thấy thực hành trong Giáo Hội sơ khai và trong truyền thống của Giáo Hội Ðông Phương. Trong các Giáo Hội đó, ngoài những vị cùng với tất cả các Giám Mục, nhờ ơn thánh, đã giữ bậc độc thân, cũng còn có những Linh Mục rất xứng đáng đã lập gia đình; thực vậy, khi khuyến khích bậc độc thân Linh Mục, Thánh Công Ðồng này không hề có ý định thay đổi tập quán khác biệt đang thịnh hành một cách chính đáng trong Giáo Hội Ðông Phương, và thân ái khuyên nhủ tất cả những ai đã nhận lãnh chức Linh Mục và hiện đang sống đời đôi bạn, hãy bền chí trong ơn gọi thánh và hoàn toàn quảng đại tiếp tục hy sinh đời sống mình cho đoàn chiên được trao phó“

Tự do hơn để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân

Sắc lệnh nhận định rằng sống độc thân có nhiều thuận lợi cho chức linh mục. “Sứ mệnh toàn diện của Linh Mục là tận hiến để phục vụ một nhân loại mới, mà Chúa Kitô Ðấng chiến thắng sự chết đã phục hồi trong thế gian nhờ Thánh Thần Người.. . Nhờ đức trinh khiết hay là bậc độc thân vì Nước Trời các Linh Mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với một lý do mới mẻ và tuyệt hảo được kết hợp cách dễ dàng hơn với Người bằng một trái tim không chia xẻ, tận hiến cách tự do hơn trong Người và nhờ Người để phục vụ Thiên Chúa và loài người, sẵn sàng hơn trong việc phục vụ Nước Chúa và việc tái sinh siêu nhiên; như thế các ngài càng thích đáng lãnh nhận một cách bao quát hơn chức vụ làm cha trong Chúa Kitô. Chính nhờ đó, các ngài tuyên bố trước mặt mọi người rằng mình muốn tận hiến trọn vẹn cho công việc đã được trao phó, nghĩa là muốn đính ước các tín hữu với một người bạn độc nhất và hiến dâng họ cho Chúa Kitô như một trinh nữ thanh sạch; như thế các ngài nhắc lại cuộc hôn nhân mầu nhiệm đã được Thiên Chúa thiết lập và sẽ được tỏ lộ đầy đủ ở đời sau. Cuộc hôn nhân trong đó Giáo Hội chỉ có một vị Hôn Phu duy nhất là Chúa Kitô. Ngoài ra, các ngài còn trở nên dấu chỉ sống động về thế giới mai sau, mà ngày nay đã hiện diện qua đức tin và đức ái, trong đó con cái sự sống lại không còn dựng vợ gả chồng nữa”.



Một luật lệ được xác nhận cho Giáo Hội Latinh

Sắc lệnh Công đồng cũng ấn định rằng: “Vì những lý do đặt nền tảng trên mầu nhiệm Chúa Kitô và sứ mệnh của Người nên việc sống độc thân trước tiên được khuyến khích cho các Linh Mục, rồi sau đã trở nên luật buộc trong Giáo Hội Latinh cho tất cả những ai muốn chịu Chức Thánh. Thánh Công Ðồng này phê chuẩn và xác định luật này một lần nữa đối với những ai muốn chịu chức Linh Mục”.

Ơn trung thành

Công đồng sau đó ngỏ lời với các linh mục “những người đã tin tưởng vào ơn Chúa và đã tự do và tự ý chấp nhận bậc độc thân thánh thiện theo gương Chúa Kitô, hãy sống gắn bó với bậc đó bằng một tâm hồn quảng đại và với tất cả con tim của mình. Xin họ hãy kiên nhẫn trung thành trong bậc này và hãy nhìn nhận đó là ơn rất trọng đại mà Chúa Cha đã ban cho mình và Chúa Con đã công khai tán thưởng, cũng như hãy nhớ đến những mầu nhiệm cao cả được biểu lộ và thực hiện qua ơn độc thân. Chắc hẳn nếu càng có nhiều người trong thế giới ngày nay nghĩ rằng sự chế dục hoàn toàn không thể có được, thì các Linh Mục càng phải hiệp cùng với Giáo Hội mà khiêm nhượng và kiên nhẫn hơn nữa để cầu xin ơn trung thành, vì Chúa không bao giờ từ chối những người kêu xin. Ðồng thời các ngài lại phải luôn dùng mọi phương thế siêu nhiên và tự nhiên mà mọi người sẵn có, nhất là các ngài hãy tuân giữ những luật lệ khổ hạnh đã được kinh nghiệm của Giáo Hội chuẩn nhận và không kém cần thiết trong thế giới ngày nay”.

Quí trọng ơn phúc độc thân

Sắc lệnh Công đồng kết luận: “Vì vậy Thánh Công Ðồng này không những yêu cầu các Linh Mục mà còn kêu gọi tất cả các tín hữu hãy quý trọng ơn độc thân Linh Mục cao quý này và hãy cầu xin cùng Chúa để chính Ngài luôn rộng tay ban phát dồi dào ơn này cho Giáo Hội Ngài”.

Đọc hết nội dung bài báo, người ta an tâm. Dù cho Đức Phanxicô có quyết định cho phép Amazon truyền chức linh mục cho các viri probati chỉ vì nhu cầu mục vụ quan trọng hơn bất cứ quan tâm nào khác, thì ơn phúc độc thân của các linh mục trong Giáo Hội Latinh vẫn còn nguyên đó. Dù sao thực tại Giáo Hội Công Giáo, như Công đồng Vatican II quả quyết, vẫn đã có cả linh mục độc thân và linh mục có vợ rồi.
 
Đức Thánh Cha đến thăm thành phố cảng Bari để gặp gỡ các giám mục vùng Địa Trung Hải
Thanh Quảng sdb
22:39 21/01/2020
Đức Thánh Cha đến thăm thành phố cảng Bari để gặp gỡ các giám mục vùng Địa Trung Hải

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đi đến thành phố cảng Bari miền nam nước Ý vào sáng Chúa Nhật 23/2 tới để gặp gỡ các giám mục từ các quốc gia quang biển Địa Trung Hải.
(Tin Vatican)

Một thông cáo vừa được Văn phòng Báo chí Tòa thánh công bố vào thứ ba vừa qua (21/1/20), cho biết Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ gặp gỡ Hội đồng Giám mục Ý và các Giám mục vùng Địa Trung Hải với chủ đề “biên giới hòa bình”.
Cuộc họp này sẽ diễn ra từ ngày 19 đến 23 tháng 2 và quy tụ hơn 50 giám mục từ 19 quốc gia Vùng Địa Trung Hải thuộc Châu Âu, Bắc Phi và Trung Đông.
Di cư là một trong những vấn đề then chốt của Hội nghị, và các giám mục cũng cho biết thêm một số vấn đề như: việc truyền giáo cho những người trẻ, nạn thất nghiệp, trao đổi văn hóa và hòa bình là những đề tài sẽ được đem ra thảo luận.
Trong thời gian ĐTC ở Bari, Ngài sẽ chào đón và đọc diễn văn trong hội nghị. Ngài sẽ viếng thăm Vương cung thánh đường thánh Nicholas, nơi ĐTC sẽ tôn kính thánh tích của thánh nhân và cử hành phụng vụ với cộng đồng của các cha Dòng Đaminh.
Trước khi trở về Roma, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ ngoài trời ở trung tâm thành phố, và sau đó ngài sẽ trở lại Vatican trước 2 giờ chiều.

Nhớ lại chuyến thăm năm 2018
Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Bari vào tháng 7 năm 2018, lúc đó Ngài đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo Kitô giáo và Chính thống giáo gốc Trung Đông và về cam kết của các vị là cùng hành trình, cầu nguyện và làm việc chung với nhau để vượt lên những xung đột phân rẽ trong quá khứ!
ĐTC cũng gặp gỡ cư dân của thành phố cảng Bari bên ngoài Vương cung thánh đường Thánh Nicholas và mời gọi họ cầu nguyện cho hòa bình ở Trung Đông.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh Lễ Tết, Xuân Canh Tý 2020, Cộng Đoàn Đức Mẹ Lộ Đức, Montclair, CA ngày 19/1/2020
Hoá Dung
23:50 21/01/2020


THÁNH LỄ TẾT MỪNG XUÂN CANH TÝ 2020

Cầu Bình An Cho Năm Mới, Kính Nhớ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ, Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm

Cộng Đoàn Đức Mẹ Lộ Đức

Giáo xứ Our Lady of Lourdes

Montclair, San Bernardino, California

ngày 19 tháng 1 năm 2020

Chủ Tế:

Lm. Timothy Trường Đỗ

Đồng Tế:

Rev. Clarence Gesbert Saldua, MS, Parish Administrator

Lm. Nguyễn Toàn Minh

Lm. Đặng Trí Johnny

Decon Luis Sanchez

Xin Chúa Xuân chúc lành cho tất cả quý Cộng Đoàn dân Chúa một năm mới được bình an, mạnh khỏe và được đầy tràn ơn Chúa.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Nhân vụ Đồng Tâm, đọc lại lịch sử: Nếu Không Có Đảng Cộng Sản Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Việt Nam Đã Có Dân Chủ, Tự Do và Nhân Quyền
Phạm Cao Dương
22:02 21/01/2020
Nhân vụ Đồng Tâm, đọc lại lịch sử: Nếu Không Có Đảng Cộng Sản Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Việt Nam Đã Có Dân Chủ, Tự Do và Nhân Quyền

Phạm Cao Dương (*)

Do sự xuất hiện của Việt Minh, đúng hơn, Đảng Cộng Sản Việt Nam, do đảng này cướp chính quyền ngày 19/8/1945, do sự phức tạp của thời thế và sự nóng nảy muốn giành độc lập nhất thời của một số người Việt, lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đã không những không biến chuyển như mọi người mong muốn mà còn đầy rẫy những ngộ nhận, từ đó những oan khuất cần phải được giải toả và làm sáng tỏ. Đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà một vài cá nhân khó có thể làm nổi. Tuy nhiên, tuy gọi là khó nhưng những người quan tâm và hiểu biết ít nhiều vẫn phải làm để sau này sẽ có người tiếp tục và điều chỉnh. Vì là một khoa học, sử học luôn luôn tiến bộ. Những gì gọi là đúng ngày hôm nay có thể sẽ cần phải được ít ra là điều chỉnh và bổ khuyết ngày mai, để phơi bầy sự thực lịch sử, không có gì gọi là chân lý vĩnh cửu trong môn học này. Người học sử không thể chủ quan nhất định cho rằng điều mình nói, viết ra hay được học mãi mãi là đúng, là chân lý bất di bất dịch.

Trong bài này cũng như một số bài trước, người viết xin gửi tới các bạn đọc, đặc biệt là các nhà tranh đấu cho một nước Việt Nam Tự Do và Dân Chủ, một vài nhận định về những gì Hoàng Đế Bảo Đại và vị Thủ Tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập là Nhà Giáo kiêm Học Giả Trần Trọng Kim cùng với các bộ trưởng của ông, đã làm, trong một thời gian ngắn ngủi hơn ba tháng của năm 1945, từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 6 tháng 8 năm 1945, để xây dựng một chính thể dân chủ lâu dài cho đất nước và ban hành các quyền tự do cho người dân từ cách nay trên 70 năm bằng những đạo luật phải nói là rất tiến bộ. Đây là một việc làm mà ba phần tư thế kỷ sau, với ít nhất ba thế hệ đã qua đi một cách uổng phí, với hàng triệu sinh mạng đã bị hy sinh cùng với máu và nước mắt của người dân lành vô tội, người ta vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.

BỐN BƯỚC TIẾN NGOẠN MỤC

Bốn bước tiến đã được Vua Bảo Đại thực hiện trong thời gian này gồm có:

Thứ nhất: Ban hành dụ “Dân vi Quý”

Thứ hai: Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới

Thứ ba: Thành lập các hội đồng chuyên môn để mọi người có thể tham gia việc soạn thảo hiến pháp và các sinh hoạt quan trọng của quốc gia

Thứ tư: Ban hành các đạo dụ liên quan đến các quyền tự do cơ bản của người dân

Sau đây là những chi tiết liên hệ tới bốn bước tiến kể trên:

Khẩu hiệu “Dân Vi Quý” của Hoàng Đế Bảo Đại

Đây là khẩu hiệu của vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn mà ai đã từng học sử Việt Nam đều biết và cũng là bước tiến đầu tiên của vị hoàng đế này trên đường thực hiện chế độ dân chủ của ông. Khẩu hiệu này được trích dẫn từ sách Mạnh Tử, một trong Tứ Thư của các Nhà Nho ta thời xưa , nguyên văn là “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” có nghĩa là “Dân là quý, sau đó là xã tắc, vua là nhẹ”, được nhà vua chính thức đưa ra trong Dụ Số 1, mở đầu cho một giai đoạn mới trong triều đại của ông. Dụ này được ban hành ngày 17 tháng 3 dương lịch năm 1945, nguyên văn như sau:

Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945

Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình xây nền thịnh vượng chung ở Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.

Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng

1) Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’

2) Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.

3) Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.

Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phượng trong bài “Một Đạo Dụ, Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí số ra ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên trang đầu, đã viết như sau:

“Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.

“Nếu một khi nhà nước dùng được người tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng.

“Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập.”

Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức Bảo Đại Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị, số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5 tháng Năm 1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết:

“Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này.”

rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân tích:

“Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời. Đã lấy dân làm trọng, đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành. Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới.”

Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Ông viết:

“Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị.”

Đúng như vậy, Hoàng Đế Bảo Đại sau đó đã từng bước tiến hành những biện pháp mang tính cách dân chủ để xây dựng một thể chế mới với sự đóng góp của nhiều người thay vì của một thiểu số quan lại trong triều. Sau đây là những nét chính của những nỗ lực này.

Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới

CHÍNH PHỦ MỚI

Nhằm thành lập một chính phủ mới, ngay từ chiều ngày 19 tức mười ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp và tám ngày sau khi tuyên bố Việt Nam độc lập, Bảo Đại đã họp với Phạm Khắc Hoè, lúc này là người thân cận duy nhất bên cạnh nhà vua, để “bàn việc chiêu tập nhân tài một cách cụ thể.” Phạm Khắc Hoè, sau khi đã trao đổi ý kiến với Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy, đã đề nghị lên nhà vua một danh sách 14 nhân vật sau đây:

- Nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng (Huế)

- Giáo Sư Tôn Quang Phiệt (Huế)

- Bác Sĩ Trần Đình Nam (Đà Nẵng)

- Giáo Sư Lê Ấm (Qui Nhơn)

- Bác Sĩ Hồ Tá Khanh (Phan Thiết)

- Kỹ Sư Cầu Cống Lưu Văn Lang (Saigon)

- Luật Sư Vương Quang Nhường (Saigon)

- Ô. Ngô Đình Diệm, nguyên Thượng Thư Bộ Lại (Saigon)

- Giáo Sư Thạc sĩ Toán Học Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội)

- Luật Sư Vũ Văn Hiền (Hà Nội)

- Luật Sư Phan Anh (Hà Nội)

- Ô. Trịnh Văn Bính, tốt nghiệp Cao Học Thương Mại Pháp (Hà Nội)

- Ô. Hoàng Trọng Phu, nguyên Tổng Đốc Hà Đông

- Ô. Trần Văn Thông, nguyên Tổng đốc Nam Định

Sau gần một giờ bàn thảo, 8 người đã được Bảo Đại lựa chọn. Tám người này gồm có:

- Trần Đình Nam (bác sĩ)

- Hồ Tá Khanh (bác sĩ)

- Lưu Văn Lang (kỹ sư)

- Hoàng Trọng Phu (nguyên tổng đốc Hà Đông)

- Trần Văn Thông (nguyên tổng đốc Nam Định)

- Hoàng Xuân Hãn (giáo sư thạc sĩ toán Học)

- Phan Anh (luật sư)

- Vũ Văn Hiền (luật sư) hay Trịnh Văn Bính (tốt nghiệp Cao Học Thương Mại Pháp) tùy theo Hoàng Xuân Hãn lựa chọn vì Bảo Đại chỉ quen Hoàng Xuân Hãn trong số những người ở Pháp về.

Điều cần để ý ở đâylà tất cả các vị này đều là những cựu quan lại hay những trí thức hay chuyên viên nổi tiếng đương thời và có gốc từ cả ba miền Nam, Trung, Bắc, thay vì chỉ có hai miền Trung và Bắc theo đúng như thẩm quyền của nhà vua ở thời điểm này vì xứ Nam Kỳ chưa được người Nhật trao trả. Các nhà hoạt động chính trị, kể cả những người được coi là thân Nhật đều không có tên trong danh sách này. Sự kiện này cho phép người ta nghĩ rằng quyết định và sự lựa chọn các nhân vật để tham khảo ý kiến kể trên của Vua Bảo Đại và phía người Việt là hoàn toàn do nhà vua quyết định, không có sự can thiệp của người Nhật vì chỉ có hai người hiện diện là chính nhà vua và Phạm Khắc Hoè. Không những thế, tinh thần và ý chí thống nhất ba miền đã luôn luôn được nhà vua tôn trọng. Ngoài ra ta cũng nên để ý tới nhận xét của Luật Sư Bùi Tường Chiểu về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc tham khảo ý kiến này khi ông viết trong bài tham luận kể trên.

Cũng nên để ý thêm là những cuộc tiếp xúc kể trên chỉ là những cuộc tiếp xúc với những nhân vật tên tuổi, có chức vị đương thời. Ngoài những người này, Bảo Đại, cũng qua Phạm Khắc Hoè, còn mời gặp thêm nhiều nhân vật khác nữa trong đó có Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Hoàng Sử, Nguyễn Lân…Tất cả, theo hồi ký của Trần Thị Như Mân (Bà Đào Duy Anh), đều đã “có vào”và Tôn Quang Phiệt có được cử “nói lên lời chúc mừng nước nhà độc lập và hứa nếu cần gì thì chúng tôi sẽ giúp không công cho nhà vua”. Phạm Khắc Hoè không nói tới chuyện có vào này. Nói là giúp không công cho nhà vua như vậy nhưng sau này trong hồi ký của mình, Tôn Quang Phiệt lại ghi thêm là “Cũng nói thế thôi, chứ trong bụng thì đã có kế hoạch.” Tuy nhiên dù thế nào đi chăng nữa đây cũng là một bằng chứng cụ thể của thiện chí dân chủ hoá đất nước của Hoàng Đế Bảo Đại.

Cuối cùng thì Học Giả Trần Trọng Kim đã được lựa chọn để lập chính phủ mới và ngày 8 tháng 5 năm 1945, chính phủ này đã được chính thức trình diện.

BƯỚC TIẾN THỨ BA

Đặt nền tảng cho việc xây dựng chế độ mới và sửa soạn cho những công trình tái dựng đất nước lâu dài (sửa lại chính thể và toàn bộ guồng máy chính quyền)

Đây là bước tiến quan trọng thứ ba trong tiến trình xây dựng chế độ dân chủ bằng cách tạo dịp cho người dân mà đại diện là các nhân sĩ, trí thức và chuyên viên các ngành được tham gia việc nước, đồng thời thực hiện khẩu hiệu Dân Vi Quý của Hoàng Đế Bảo Đại. Với bước tiến thứ ba này, vào khoảng từ trung tuần tháng sáu đến thượng tuần tháng bảy, vừa nhằm chiêu dụ nhân tài, vừa nhằm tạo cơ hội cho người dân được góp phần vào việc đặt nền tảng và thiết lập các cơ chế căn bản cho mọi phạm vi sinh hoạt lâu dài của đất nước, bốn hội đồng đã được thành lập qua ba đạo dụ và một đạo sắc với đầy đủ nhân sự để ngay lập tức có thể thực thi. Bốn hội đồng này gồm có:

Hội Đồng Dự Thảo Hiến Pháp, do Phan Anh, Luật Sư, Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên, người từ lâu đã nghiên cứu về hiến pháp và các thể chế đương thời làm Thuyết Trình Viên gồm có các ông Phan Anh, Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hoè, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thái Mai, Vương Quang Nhường, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thinh và Nguyễn Trác (Dụ số 60 ngày 7 tháng 7 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 7 tháng 7 năm 1945).

Hội Đồng Cải Cách Cai Trị, Tư Pháp và Hành Chính, do Vũ Văn Hiền, Luật Sư, Bộ Trưởng Bộ Tài Chánh, tác giả của nhiều bài nghiên cứu liên hệ, làm Thuyết Trình Viên, gồm có các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Ân, Trần Văn Chương, Phạm Khắc Hoè, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát, Trần Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình Thảo và Phan Kế Toại (Dụ số 70 ngày 30 tháng 6 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 9 tháng 7 năm 1945).

Hội Đồng Cải Cách Giáo Dục, do Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư, Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Mỹ Nghệ làm Thuyết Trình Viên, gồm có Bà Hoàng Thị Nga, các ông Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thành Giung, Ngụy Như Kontum, Bùi Kỷ, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Quang Oánh, Ưng Quả, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Đạo Thúy và Nguyễn Xiển (Dụ số 71 ngày 30 tháng 6 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 10 tháng 7 năm 1945).

Hội Đồng Thanh Niên. Hội Đồng này gồm có

Chủ Tịch: Hoàng Đạo Thúy, Huynh Trưởng Hướng Đạo

Phó Chủ Tịch: Trần Duy Hưng, Bắc Chi Bộ

Phó Chủ Tịch: Tạ Quang Bửu, Nam Chi Bộ

Cố Vấn Bắc Chi Bộ: Bà Nguyễn Thị Thục Viên, các ông Nguyễn Xiển, Phạm Thành Vinh, Vũ Văn Cẩn,Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Xuân Phương, Trần Văn Quý, Phan Huy Quát, Ngụy Như Kon-tum, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Tường Bách.

Cố Vấn Nam Chi Bộ: Bà Nguyễn Đình Chi, các ông Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Tôn Quang Phiệt, Kha Vạng Cân, Nguyễn Tư Vinh, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Kinh Chi và Thái Can (Sắc số 65 ngày 15 tháng 6 năm 1945)

Khi đọc danh sách các hội viên được đề nghị tham gia các hội đồng kể trên để trình lên Hoàng Đế Bảo Đại phê duyệt, Phạm Khắc Hoè tỏ ý thắc mắc là có tên những người ông “chưa từng thấy bao giờ” nên đã hỏi Trần Trọng Kim và được Trần Trọng Kim cho biết là các danh sách này “đã được toàn thể Nội các và nhất là các ông bộ trưởng thuyết trình viên đồng ý cả rồi, tuy chưa hỏi được ý kiến của tất cả những người hữu quan, song chắc họ vui lòng nhận cả, vì lúc này ai mà chẳng sẵn sàng ra thờ vua giúp nước” và nói thêm “Vậy ông chịu khó xin Hoàng Đế phê chuẩn đi cho kịp thời, đừng nên hỏi đi hỏi lại nữa.” Kết quả, theo lời Phạm Khắc Hoè, là “chỉ mấy phút sau, bốn dự thảo của nội các trở thành ba đạo dụ và một đạo sắc chính thức.” Những lời đối thoại này cho ta thấy khả năng, tính cách hữu hiệu và làm việc chạy theo thời gian của Trần Trọng Kim và nội các của ông dù đó mới chỉ là ban hành được những đạo dụ hay đạo sắc, những văn kiện có giá trị như những đạo luật được quốc hội thông qua trong một nước dân chủ hiện đại, để làm nền tảng pháp lý cho những bước kế tiếp trong tương lai. Nó cũng nói lên tính cách hữu hìệu của chế độ quân chủ chuyên chế và sự tin tưởng của Hoàng Đế Bảo Đại vào vị thủ tướng và nội các đương thời, vì bình thường những quyết định liên hệ đến thể chế và những cơ chế tương lai trong một quốc gia dân chủ không thể nào có thể thực hiện được trong vòng trên dưới hai tháng tính từ ngày Nội Các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên, ngày 8 tháng 5, đến ngày 10 tháng 7, ngày đạo dụ cuối cùng trong bốn đạo sắc dụ này được đệ trình, rồi được vị nguyên thủ quốc gia phê chuẩn trong có “mấy phút sau”. Một thời gian kỷ lục mà một quốc gia dân chủ hiện đại khó có thể làm nổi. Cũng nên để ý là các vị bộ trưởng được Trần Trọng Kim nói đến ở đây là Bộ Trưởng Thanh Niên Phan Anh, Bộ Trưởng Tài Chánh Vũ Văn Hiền và Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật Hoàng Xuân Hãn. Cả ba, ngoài bằng cấp chuyên môn, đều là những chuyên viên hàng đầu của Việt Nam về các vấn đề liên hệ thời đó. Họ là những người từ lâu đã tìm hiểu, nghiên cứu và viết những những bài tham khảo bàn về những lãnh vực riêng của mình và là những cây bút nòng cốt của tờ Thanh Nghị, một thứ “think tank” của chính phủ đương thời. Đây cũng là dịp để các vị này thi thố tài năng và thực thi hoài bão mà từ lâu họ đã từng thai nghén và mọi người mong đợi. Cũng nên nhớ là thành ngữ “thờ vua giúp nước” cho đến thời điểm này vẫn chưa trở thành lạc hậu. Điều nên để ý là trái với nhận định của một vài tác giả, tất cả những nỗ lực kể trên, người viết xin được nhấn mạnh, đều là những thành tích cụ thể của Hoàng Đế Bảo Đại và Nội Các Trần Trọng Kim nhằm thiết lập những cơ chế mới với nhân sự để chỉ còn thực thi là đầy đủ.

BƯỚC TIẾN THỨ BỐN

“Tuần lễ của các Tự Do”

Bước tiến thứ tư là ban hành một số những đạo dụ ấn định những nguyên tắc liên hệ đến các quyền tự do căn bản của người dân. Ba đạo dụ sau đây đã được báo Thanh Nghị số 117, ra ngày 21 tháng Bảy năm 1945 ghi nhận theo thứ tự thời gian gồm có:

1. Dụ số 73, ngày 26 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 5 tháng 7 dương lịch năm 1945 về tự do lập nghiệp đoàn.

2. Dụ số 78, ngày 1 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9 tháng 7 năm 1945 về tự do lập hội.

3. Dụ số 79, ngày 1 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9 tháng 7 năm 1945 về tự do hội họp.

Cả ba đạo dụ với nội dung phải nói là rất tiến bộ này đã được ban hành trong một thời gian ngắn là thượng tuần tháng bảy năm 1945 và báo Thanh Nghị đã gọi tuần lễ này là “Tuần của các Tự Do.”

Về chi tiết, báo Thanh Nghị tóm tắt như sau:

Tự do lập hội: Từ nay phàm người công dân Việt Nam ai nấy đều có quyền lập những hội có mục đích chính trị, văn hóa, tôn giáo hay xã hội, ngoài những hội có mục đích kiếm lợi. Chỉ cần mục đích của hội không trái với pháp luật, luân lý hoặc là có hại đến nền duy nhất và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia. Nhưng cần phải báo trước với nhà chức trách ít nhất là 30 ngày trước khi hoạt động

Muốn phân biệt các hội do đạo Dụ số 78 với các hội có mục đích kiếm lợi phải xét xem các hội viên có chia lãi cho nhau hay không? Nếu chia lãi thì tất phải theo những luật lệ hiện hành về các hội buôn.

Nhiều người hội họp với nhau nhiều lần cũng lại không họp thành một hội vì không có điều lệ để hội viên theo. Cho nên trong tờ khai phải đính theo cả bản điều lệ của hội mình định sáng lập.

Hội có thể tự giải tán (theo điều lệ hay theo ý muốn toàn thể hội viên) hay bị toà án giải tán, nếu mục đích trái với pháp luật, luân lý, hại tới quốc gia, nếu không khai báo cho đúng thể lệ (chưa kể những sự trừng phạt về tội hình những người có trách nhiệm). Tài sản của hội khi đó sẽ phân phát theo điều lệ của hội, theo quyết định của đại hội đồng của hội hay theo lệnh của toà.

Có hai thứ hội: hội thường và hội được Hội Đồng Nội Các công nhận là một hội có ích lợi chung. Hội thường có quyền tố tụng, thu nhập tiền đóng góp của hội viên, có quyền mua, quyền sở hữu và quản lý nhà hội quán, quản trị những bất động sản mà bộ Nội Vụ và Tài Chính cho phép mua. Còn hội được chính quyền công nhận là có ích lợi chung thì ngoài những quyền này còn có quyền được nhận những tặng dữ.

Tự do hội họp: Người dân được quyền tự do hội họp nhưng Dụ số 72 phân biệt hai thứ hội họp là hội họp trong tư gia có tính cách gia đình hay lễ nghi và các hội họp ở những nơi công cộng.

Đối với các hội họp trong gia đình hay lễ nghi hay những hội họp của các hội tư nhóm họp trong tư gia với số người tham dự không quá 30 người, người triệu tập không cần phải khai báo. Các cuộc hội họp khác cũng được tự do nhưng phải khai báo với nhà chức trách. Tất cả các cuộc hội họp ở các nơi công cộng như họp ở ngoài đượng phố, trong các công viên hay các thị xã đều phải xin phép trước. Giờ họp không được quá 12 giờ đêm trừ khi có phép riêng. Ngoài ra một nhân viên hành chánh hay tư pháp cũng có quyền tới dự.

N: Việc lập nghiệp đoàn cũng được coi như quyền tự do của nguời dân với những quy luật được ấn định trong Dụ số 73, theo đó, để tránh không cho những hội kiếm lợi giả danh làm nghiệp đoàn với mục tiêu trốn thuế, các nghiệp đoàn bị cấm không được chia lời cho các đoàn viên và khi giải tán thì của cải không được đem chia cho các đoàn viên. Đồng thời để bảo vệ những người trong nghề, dụ này cấm không cho nghiệp đoàn cưỡng ép những người này phải gia nhập hay bắt đoàn viên phải ở lại trong nghiệp đoàn vĩnh viễn nhưng ngược lại cho phép nghiệp đoàn được từ chối không nhận một người làm đoàn viên theo điều lệ của mình. Mặt khác, nghiệp đoàn có tư cách pháp nhân trong việc bảo vệ các quyền lợi của mình, có quyền sở hữu các động sản hay bất động sản nếu xin phép, có quyền liên kết với nhau để thành lập các liên đoàn và về phía chính quyền, chính quyền có quyền cử nguời kiểm soát việc quản lý tài chánh của nghiệp đoàn hay liên đoàn. Cuối cùng vì nghiệp đoàn là một tổ chức có thể dùng để tranh đấu nên người sáng lập bắt buộc phải có quốc tịch Việt Nam và phải ở trong nghề ít nhất một năm.

Vì ba đạo luật kể trên đã được ban hành trong thượng tuần tháng 7 năm 1945 nên tác giả của bài báo gợi ý gọi tuần lễ này là “Tuần Lễ Của Các Tự Do”. Mặt khác nếu người ta theo dõi những cuộc hội họp của người dân ở cả hai miền Trung và Bắc đã diễn ra liên tiếp từ ngày 10 tháng 3, sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, đặc biệt là ở Huế và Hà Nội với hàng vạn người tham dự một cách tự do, thoải mái, thì sự ban hành các đạo dụ này “đã làm hợp pháp một tình trạng riêng của các tỉnh ở Bắc Bộ Việt Nam vì từ sau ngày 9 tháng 3 các hội, các đoàn mọc lên như nấm, các cuộc hội họp công khai tự do vô cùng”.

Kết Luận

Tất cả các công trình lớn lao kể trên đã được đã được Hoàng Đế Bảo Đại, Thủ Tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn và trong một thời gian kỷ lục chưa tới ba tháng ngắn ngủi kể từ ngày 8 tháng 5 khi chính phủ này được trình diện đến ngày 6 tháng 8 năm 1945 khi chính phủ này từ chức và được Hoàng Đế Bảo Đại cho phép, ngắn hơn nữa nếu tính đến ngày 9 tháng 7, ngày các Dụ số 78 về Tự Do Lập Hội và số 79 về Tự Do Hội Họp được nhà vua chấp nhận. Đây là một phần của một cuộc cải cách rộng lớn hơn bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt đương thời, gọi theo Sử Gia Na Uy Stein Tonnesson là “từ trên xuống”, còn gọi theo Vũ Ngự Chiêu thì đó là một cuộc cách mạng nhưng cũng từ trên xuống: “cách mạng từ trên xuống”. Cả hai sử gia này đều có lý vì tính cách nhanh chóng ít ai có thể ngờ của nó. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao nó có thể xảy ra được trong một chế độ quân chủ chuyên chế đã từng tồn tại cả ngàn năm như vậy? Có ba sự kiện người ta có thể nghĩ tới để trả lời câu hỏi này. Đó là ý muốn và sự hiểu biết của người cầm đầu hay đúng hơn vị nguyên thủ quốc gia, ước vọng và khả năng của những người lãnh nhiệm vụ thực hiện cuộc cải cách theo ý muốn của vị nguyên thủ quốc gia ấy và cuối cùng là sự đón nhận của dư luận đương thời. Cả ba sự kiện này, Đế QuốcViệt Nam ở thời điểm đương thời đều có đủ. Từ Vua Bảo Đại đến Thủ Tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng đều là những người được huấn luyện đầy đủ, có kiến thức và nhất là có thực tâm, tha thiết với nền độc lập và sự tiến bộ của nước nhà.

Điều đáng tiếc là biến cố 19 tháng 8 đã xảy ra, Việt Minh Cộng Sản cướp chính quyền và tất cả đều đã bị dẹp bỏ, điển hình là ngày 22 tháng 9 năm 1945, chỉ 20 ngày sau khi tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh “bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi Việt Nam” và Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp ký Nghị Định ngày 14 tháng 9 giải tán Hội Khai Trí Tiến Đức trong khi cùng ngày lại ký một nghị định khác “cấp năng lực pháp luật” cho hội “Văn Hoá Cứu Quốc Việt Nam” (Việt Minh) . Điều này cho ta thấy chế độ mới rất sợ các nghiệp đoàn, các hiệp hội và đặc biệt các cuộc biểu tình hay tụ tập đông người, đồng thời muốn độc quyền hoạt động trong mọi sinh hoạt quốc gia. Cuối cùng thì sau 75 năm, cho đến tận ngày hôm nay khi bài này được viết, bất chấp hai cuộc chiến kéo dài cả ba mươi năm, bất chấp mọi sự hy sinh, gian khổ, máu và nước mắt của hàng triệu người dân, Nhân Quyền, Tự Do và Dân Chủ, từ đó thống nhất dân tộc, vẫn nguyên vẹn chỉ là niềm mơ ước hầu như còn lâu mới đạt được của Quốc Dân Việt Nam. Trong khi đó hình ảnh của một xã hội Việt Nam theo xã hội chủ nghĩa vẫn tuyệt mù tăm tích hay có thì cũng chẳng có gì đáng lạc qua như các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng Sản vẫn từng hứa hẹn, nếu không nói chỉ là bánh vẽ.

Phạm Cao Dương

Ngày Ông Táo lên chầu Trời,

 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh
Nguyễn Trọng Đa
08:33 21/01/2020

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ và thần học Bí tích, Giám đốc Viện Sacerdos tại Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Vì năm nay (2020) lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh ngày 2-2 rơi vào Chúa Nhật, đâu là các lựa chọn? Hai lựa chọn được đưa ra trong Sách lễ Rôma gây khó khăn cho ngày lễ trong các giáo xứ như xứ chúng con, nơi có đến tám Thánh lễ vào Chúa Nhật. Dường như có rất ít sự khác biệt giữa cuộc kiệu và rước long trọng đầu lễ, và thời gian là một sự cân nhắc nghiêm túc trong các giáo xứ lớn. Liệu có sự chọn lựa thứ ba ngắn hơn so với cuộc rước Chúa Nhật Lễ Lá không?. - H. G., Wilmington, California, Hoa Kỳ.


Đáp: Trong chữ đỏ cho Chúa Nhật Lễ Lá, Sách lễ nói:

“Vào ngày này, Hội Thánh nhắc lại việc Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để thực hiện Mầu nhiệm Vượt qua của Ngài. Như vậy, việc tưởng niệm việc Chúa vào thành diễn ra trong tất cả các Thánh lễ, bằng cách rước kiệu lá hoặc cuộc rước nhập lễ long trọng trước Thánh lễ chính, hoặc cuộc rước đơn giản trước các Thánh lễ khác. Cuộc rước nhập lễ long trọng, nhưng không phải là cuộc rước kiệu lá, có thể được lặp lại trước các Thánh lễ khác, vốn thường được cử hành với nhóm đông người. Điều mong muốn là, nơi đâu không có cuộc rước kiệu hay cuộc rước nhập lễ long trọng, cần có một buổi cử hành Lời Chúa về chủ đề Chúa vào thành thánh, và về cuộc khổ nạn của Chúa, hoặc vào chiều thứ bảy hoặc ngày Chúa Nhật vào thời gian thuận tiện.”

Như vậy trong thực tế, không có lựa chọn thứ ba hoặc cuộc rước nhập lễ đơn giản cho lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh. Chữ đỏ nói:

“1. Vào một giờ thích hợp, một cuộc tụ họp diễn ra tại một nhà thờ nhỏ hơn, hoặc một nơi thích hợp khác ngoài nhà thờ mà đám rước sẽ đi. Các tín hữu cầm trong tay nến chưa thắp.

“2. Linh mục, mặc lễ phục trắng như trong thánh lễ, tiến đến gần, với các thừa tác viên. Thay vì mang áo lễ, linh mục có thể mặc áo choàng (cope), mà ngài sẽ cởi ra sau khi cuộc rước kết thúc.

“3. Trong khi nến đang được thắp sáng, hát một điệp ca hoặc một bài thánh ca thích hợp khác.

“4. Khi hát xong, linh mục, đối diện với mọi người, xướng Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Sau đó, linh mục chào mọi người theo cách thông thường, và tiếp theo, ngài nói vài lời dẫn nhập, khuyến khích các tín hữu cử hành nghi thức của ngày lễ này một cách chủ động và có ý thức. Ngài có thể sử dụng các lời sau đây hoặc lời tương tự...

“5. Sau khi nói xong, linh mục làm phép nến, đọc lời sau đây, đôi tay dang ra...

“Ngài rảy nước thánh lên nến, mà không nói gì và đặt hương vào bình hương cho cuộcrước.

“6. Sau đó, linh mục tiếp nhận, từ Phó tế hoặc một thừa tác viên, ngọn nến được chuẩn bị cho ngài, và cuộc rước bắt đầu, với lời loan báo của Phó tế (hoặc, nếu không có Phó tế, chính Linh mục đọc): Chúng ta hãy tiến đi bình an để gặp Chúa…

“7. Tất cả đều cầm nến thắp sáng. Khi đoàn rước tiến về phía trước, hát một hoặc các điệp xướng khác sau điệp xướng: Một ánh sáng cho sự mặc khải với bài ca an bình ra đi (Lc 2: 29-32), hoặc điệp xướng: này Sion, hãy tô điểm phòng cô dâu, hoặc một bài ca thích hợp khác…

"8. Khi đoàn rước tiến vào nhà thờ, Điệp ca nhập lễ được hát lên. Khi linh mục đã đến bàn thờ, ngài hôn bàn thờ và, nếu thích hợp, ngài sẽ xông hương cho bàn thờ. Sau đó, ngài đến ghế chủ tọa, nơi đó ngài cởi áo choàng ra, nếu ngài đã mang áo này trong đám rước, và mặc áo lễ vào. Sau khi hát kinh Vinh danh (Gloria in Excelsis), ngài đọc lời tổng nguyện như bình thường. Thánh lễ tiếp tục theo cách thông thường.

“Hình thức thứ hai: Cuộc rước nhập lễ long trọng

“9. Bất cứ khi nào một cuộc rước kiệu không thể diễn ra, các tín hữu tập trung trong nhà thờ, cầm nến trong tay. Linh mục, mặc lễ phục trắng như trong Thánh lễ, cùng với các thừa tác viên và một nhóm đại diện các tín hữu, đi đến một nơi thích hợp, trước cửa nhà thờ hoặc bên trong nhà thờ, nơi mà ít nhất là một phần lớn các tín hữu có thể thuận tiện tham gia vào nghi thức.

“10. Khi linh mục đến nơi được chỉ định để làm phép nến, nến được thắp lên trong khi điệp xướng: lạy Chúa xin hãy nhìn (số 3) hoặc một bài ca thích hợp khác được hát lên.

“11. Sau đó, sau lời chào và lời giới thiệu ngắn, linh mục làm phép nến, như các số 4-5 ở trên nói; và sau đó cuộc rước lên bàn thờ diễn ra, với các bài ca được hát (số 6-7). Đối với thánh lễ, hãy tuân giữ những gì nói ở số 8.”

Tại sao có sự khác biệt này? Mặc dù tôi không hiểu hết nhửng gì mà các người soạn Sách lễ suy nghĩ sâu sắc, tôi nghĩ rằng các chuyên viên có lẽ đã tính đến việc Chúa Nhật Lễ Lá cũng bao gồm việc đọc Bài Thương khó, và điều này chắc chắn sẽ dẫn đến các hạn chế về thời gian ở các giáo xứ lớn.

Cũng có sự xem xét chỉ có một cuộc rước, và giới hạn cuộc rước nhập lễ long trọng vào các Thánh lễ có đông tín hữu tham dự. Do đó, cuộc rước nhập lễ đơn giản sẽ là thường xuyên hơn.

Họ cũng có thể đã tính đến việc rằng trong khi Chúa Nhật Lễ Lá được lặp lại mỗi năm, hầu hết người Công Giáo chỉ cảm nghiệm nghi thức làm phép nến mỗi bảy năm một lần, khi ngày lễ trùng với Chúa Nhật. Họ có thể đã xem đây là một cơ hội mục vụ và thiêng liêng, hơn là một vấn đề hoạch định, và do đó không bao gồm một cuộc rước nhập lễ đơn giản, vốn trong thực tế sẽ loại bỏ khía cạnh nổi bật của lễ này, vốn là làm phép nến.

Đúng là cuộc rước nhập lễ long trọng trong ngày lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh sẽ chỉ thêm một vài phút cho mỗi Thánh lễ. Đồng thời, các nghi thức và lời nguyện là ngắn hơn so với Chúa Nhật Lễ Lá, và phần còn lại của thánh lễ là như bình thường.

Tôi nghĩ rằng với kế hoạch cẩn thận, ngay cả một giáo xứ có tám Thánh lễ ngày Chúa Nhật cũng có thể tổ chức cuộc rước nhập lễ long long trọng. Thậm chí giáo xứ có thể tổ chức ít nhất một cuộc kiệu lớn.

Cuộc rước nhập lễ long trọng đặc biệt sẽ đòi hỏi một sự phân phối và thắp nến hiệu quả, khi linh mục tiến đến nơi làm phép nến. Việc này thường sẽ trùng với nơi tập trung quen thuộc của cuộc rước kiệu nhập lễ, và do đó sẽ không gây khó khăn lớn, cũng như không làm cho cuộc rước lên bàn thờ sẽ lâu hơn bình thường.

Bởi vì nghi thức làm phép nến đã diễn ra, các nghi thức đầu lễ và sám hối được bỏ qua, và Thánh lễ bắt đầu với kinh Vinh danh (Gloria).

Vị chủ tế nên chuẩn bị tốt bài giảng, nhưng ngắn hơn thường lệ. Tôi sẽ không nghĩ là khôn ngoan khi hy sinh các yếu tố quen thuộc của sự long trọng, được sử dụng vào mỗi Chúa Nhật khác, đối với việc ca hát của chủ tế, các tín hữu và ca đoàn.

Vì đây cũng là ngày dành riêng cầu nguyện cho đời sống thánh hiến, nên sẽ là một ý kiến ​​hay, trừ khi có một sáng kiến ​​song song ở cấp giáo phận, rằng các người sống đời thánh hiến trong giáo xứ nên được mời tham gia một cách đặc biệt, trong ít nhất một thánh lễ của Chúa Nhật này. (Zenit.org 21-1-2020)

Nguyễn Trọng Đa

https://zenit.org/articles/presentation-of-the-lord/
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Xanh Như Ngọc
Nguyễn Trung Tây Lm.
22:26 21/01/2020
XANH NHƯ NGỌC

Ảnh của Nguyễn Trung Tây Lm. (SVD)

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

(Trích thơ của Hàn Mặc Tử)