Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:57 13/01/2020
38. Đức nhẫn nại giáo huấn người tội lỗi, và khiến họ sớm hối cải để được tha tội.
(Thánh Cyprianus)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")
----------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:09 13/01/2020
16. QUỶ THUA TRẬN
Ở đất Ngô có một người tên là Vương Quân Bác, có lần nọ nằm ngủ trong phòng đọc sách, nửa đêm có quỷ gọi ông ta dậy, âm thanh giống tiếng vịt kêu.
Vương Quân Bác nghe được thì không chút sợ hãi, lớn tiếng nói với quỷ:
- “Mày muốn kêu thì kêu, ta bất cần, nhưng không được đến gần giường của ta, không quát vào tai ta !”
Quỷ lại biến thành ngỗng kêu, Vương cười nói:
- “Âm thanh này nghe cũng không hay”.
Quỷ lại biến thành âm thanh của loài cầm điểu đang bay, Vương lại nói:
- “Ta muốn đi ngủ đây không muốn nghe mày nữa”.
Quỷ có chút buồn bực, bởi vì từ trước đến nay nó chưa thấy người nào gan to như thế, trong lòng nhất định phải doạ cho bằng được người này, bèn rơi xuống trước giường, ép chặt thân của Vương Quân Bác.
Vương Quân Bác cười khúc khích, nói:
- “Ta đang lạnh đây, mày áp trên người tao, thật là ấm áp, khoái quá khoái quá”.
Tên quỷ con này chỉ có nước chạy dài !
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 16:
Người nhát gan thì thường hay sợ ma sợ quỷ nhưng ma quỷ thì không thèm hiện ra chọc ghẹo phá phách người nhát gan; người bạo gan không sợ gì cả thì ma quỷ mới hiện ra chọc ghẹo chơi, do đó mà người bạo gan có cơ hội bị ma quỷ quấy rầy hơn...
Người không sợ ma quỷ chính là người Ki-tô hữu, bởi vì họ có Đức Chúa Giê-su trong mình, bởi vì họ đã trở thành con cái của Thiên Chúa nên không có một sức mạnh hay thế lực nào ở đời làm cho họ sợ hãi, nhưng cái mà họ sợ nhất chính là tội, bởi chính tội mới có thể làm cho họ lìa xa Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương và săn sóc họ...
Ma quỷ chỉ phỉnh phờ con người ta nhưng lại ra sức cám dỗ người Ki-tô hữu sa vào vòng tội lỗi, bởi vì ma quỷ biết rằng cướp đi được một linh hồn đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Chúa Giê-su là làm nhục được Thiên Chúa và là vinh dự cho cả hoả ngục, cho nên nó không từ một thủ đoạn ma giáo nào mà không đem ra để cướp đoạt cho được linh hồn của người Ki-tô hữu.
Linh hồn của chúng ta quý vô cùng nên ma quỷ thường bày ra những cám dỗ và doạ nạt, do đó mà phải cầu nguyện và cảnh giác trong mọi lúc, dù khi ăn dù khi ngủ hay thức hoặc khi làm việc, bởi vì đó là việc thường làm của người Ki-tô hữu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Ở đất Ngô có một người tên là Vương Quân Bác, có lần nọ nằm ngủ trong phòng đọc sách, nửa đêm có quỷ gọi ông ta dậy, âm thanh giống tiếng vịt kêu.
Vương Quân Bác nghe được thì không chút sợ hãi, lớn tiếng nói với quỷ:
- “Mày muốn kêu thì kêu, ta bất cần, nhưng không được đến gần giường của ta, không quát vào tai ta !”
Quỷ lại biến thành ngỗng kêu, Vương cười nói:
- “Âm thanh này nghe cũng không hay”.
Quỷ lại biến thành âm thanh của loài cầm điểu đang bay, Vương lại nói:
- “Ta muốn đi ngủ đây không muốn nghe mày nữa”.
Quỷ có chút buồn bực, bởi vì từ trước đến nay nó chưa thấy người nào gan to như thế, trong lòng nhất định phải doạ cho bằng được người này, bèn rơi xuống trước giường, ép chặt thân của Vương Quân Bác.
Vương Quân Bác cười khúc khích, nói:
- “Ta đang lạnh đây, mày áp trên người tao, thật là ấm áp, khoái quá khoái quá”.
Tên quỷ con này chỉ có nước chạy dài !
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 16:
Người nhát gan thì thường hay sợ ma sợ quỷ nhưng ma quỷ thì không thèm hiện ra chọc ghẹo phá phách người nhát gan; người bạo gan không sợ gì cả thì ma quỷ mới hiện ra chọc ghẹo chơi, do đó mà người bạo gan có cơ hội bị ma quỷ quấy rầy hơn...
Người không sợ ma quỷ chính là người Ki-tô hữu, bởi vì họ có Đức Chúa Giê-su trong mình, bởi vì họ đã trở thành con cái của Thiên Chúa nên không có một sức mạnh hay thế lực nào ở đời làm cho họ sợ hãi, nhưng cái mà họ sợ nhất chính là tội, bởi chính tội mới có thể làm cho họ lìa xa Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương và săn sóc họ...
Ma quỷ chỉ phỉnh phờ con người ta nhưng lại ra sức cám dỗ người Ki-tô hữu sa vào vòng tội lỗi, bởi vì ma quỷ biết rằng cướp đi được một linh hồn đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Chúa Giê-su là làm nhục được Thiên Chúa và là vinh dự cho cả hoả ngục, cho nên nó không từ một thủ đoạn ma giáo nào mà không đem ra để cướp đoạt cho được linh hồn của người Ki-tô hữu.
Linh hồn của chúng ta quý vô cùng nên ma quỷ thường bày ra những cám dỗ và doạ nạt, do đó mà phải cầu nguyện và cảnh giác trong mọi lúc, dù khi ăn dù khi ngủ hay thức hoặc khi làm việc, bởi vì đó là việc thường làm của người Ki-tô hữu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Hai động thái quan trọng của Cộng Sản Trung Hoa trên mặt trận tôn giáo tâm linh
Vũ Văn An
17:09 13/01/2020
Theo dõi tình hình chính trị tại Trung Hoa Lục địa, người ta vừa thấy hai động thái quan trọng của Đảng Cộng Sản Trung Hoa trong phạm vi tôn giáo tâm linh đó là văn kiện dài 10,000 chữ của họ về các phong thái xã hội, hay đúng hơn về nền luân lý của họ, công bố hồi tháng 10 năm ngoái. Văn kiện thứ hai gần đây hơn tựa là “Các Biện Pháp Hành Chánh Đối với Các Nhóm Tôn Giáo” gồm 6 phần và 41 điều nhằm kiểm soát mọi khía cạnh của sinh hoạt tôn giáo tại Trung Hoa, công bố ngày 30 tháng 12 năm ngoái và sẽ có hiệu lực từ đầu tháng Hai này.
Trò chơi luân lý ở Trung Hoa
Theo Michael Sainsbury (https://www.ucanews.org/news/dont-be-fooled-by-chinas-morality-play/86928), ít ai biết đến, nhưng hồi tháng 10 năm ngoái, Đảng cộng sản Trung Quốc đã cho công bố một văn kiện dài 10,000 chữ về các phong thái xã hội, nói đúng hơn, về nền luân lý họ muốn áp đặt lên xã hội Trung Quốc do họ cai trị.
Ký giả trên cho rằng đây là cuộc tấn công mới nhất của lãnh tụ Tập Cẩn Bình đánh vào các tôn giáo, nhất là Kitô giáo và Hồi giáo, một cuộc tấn công chưa từng thấy kể từ những năm đen tối Cách Mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông (1966-1976).
Văn kiện trên cũng đồng thời là một thừa nhận trên thực tế đối với khoảng chân không tâm linh do Đảng cộng sản Trung Quốc chính thức tạo ra. Tính chính đáng của Đảng này hiện đang leo lét dựa vào, không phải các mục tiêu nguyên thủy của họ là tạo ra một xã hội bình đẳng mà dựa trên việc tiếp tục thành công trong việc phát triển và thịnh vượng kinh tế, một thành công hiện cũng rất nổi bật do sự kiện được phân phối không bình đẳng và dù sao cũng đang khựng lại trong khi hàng trăm triệu người vẫn sống trong cảnh nghèo khó. Những người từng thoát cảnh nghèo hiện cũng đang lao đao không kém vì vật giá leo thang và nợ nần bản thân.
Chủ nghĩa tư bản tràn lan cùng với việc Đảng loại bỏ nòng cốt nhiều phong trào tâm linh và việc nó bao trùm về đạo đức dưới nhiều hình thức khác nhau đã tạo ra một xã hội trong đó, rõ ràng thiếu lòng tin một cách nguy hiểm. Việc nhiều người Trung Hoa tìm kiếm một nền linh đạo chính là cách để sửa chữa sự thiếu vắng này.
Bất kể chủ nghĩa vô thần chính thức, Đảng cộng sản Trung Hoa luôn can dự vào các vấn đề tâm linh, trong đó, có việc kiểm soát chặt chẽ 5 tôn giáo “chính thức”: Công Giáo, Thệ phản, Phật giáo Trung Quốc, Lão giáo và Hồi giáo.
Nó cũng phát triển Đảng thành một thứ đấng cứu thế và người hướng dẫn luân lý cũng như một thứ phản-tôn-giáo của riêng mình, với các điển hình cực đoan là việc tôn thờ Mao Trạch Đông, và nay, Tập Cẩn Bình.
Thành thử không ngạc nhiên chi đây không phải là lần đầu tiên Đảng cộng sản Trung Quốc mưu toan tạc cho mình vai trò người duy trì luân lý của dân tộc Trung Hoa, một vai trò vốn hàm chứa trong ý thức hệ Mácxít-Lêninít. Thực vậy, thành tích của Đảng trong việc mưu toan trở thành mọi sự cho mọi người Trung Hoa, trong đó, có việc duy trì nền luân lý, đã có từ những ngày khởi đầu. Đây là chủ đề chung của các chế độ toàn trị thời nay: họ không thích các tôn giáo có tổ chức, những tôn giáo, dù sao, cũng đều đặt ra nhiều đe dọa có thực hay tưởng tượng cho “lòng trung thành”.
Người duy trì luân lý cho các công dân Trung Quốc
Lần cuối cùng một công văn dài dòng như vậy đã được Đảng này nhả ra là vào năm 2001. Nhưng theo ghi nhận của Ian Johnson thuộc tờ New York Times: người mà cuốn sách The Souls of China: The Return of Religion After Mao (Các Linh hồn của Trung Quốc: Sự Trở lại của Tôn giáo Sau thời Mao) là sách cần thiết cho bất cứ ai quan tâm đến tôn giáo tại Trung Quốc ngày nay, có một sự khác biệt quan trọng là lần này đảng kết nạp cái gọi là các tôn giáo cổ truyền vào dự án của nó nhằm tự nâng cao mình thành người bảo vệ luân lý của các công dân Trung Quốc.
Đây là phần chủ chốt: “Thấm nhuần Các Nhân đức truyền thống Trung Quốc. Nhân đức truyền thống của Trung Quốc là tinh hoa của nền văn hóa Trung Quốc và là nguồn xây dựng luân lý bất tận. Điều cần là phải đối xử với nền văn hóa truyền thống nổi bật của Trung Quốc với lòng tôn trọng và tự hào, tìm hiểu đầy đủ các tài nguyên luân lý phong phú được mang theo bởi kinh điển văn hóa, di tích lịch sử và di tích văn hóa, và truyền đạt những lời tốt đẹp của các vị thánh nhân cổ thời, các anh hùng và nhà hảo tâm dân tộc, để gen văn hóa Trung Quốc sẽ phát triển gốc rễ sâu hơn trong ý thức hệ và ý niệm luân lý của dân tộc.
“Việc giải thích sâu sắc triết lý Trung Quốc trong việc nhấn mạnh đến lòng nhân từ, tôn trọng người khác, tôn trọng sự liêm chính, tôn trọng công lý, tôn trọng sự hòa hợp và tìm kiếm sự vĩ đại, và thâm hậu hóa việc tự cải thiện bản thân, lòng tận tụy, chính trực, giúp đỡ người nguy hiểm, nhìn ra nguyên nhân công lý, lòng hiếu thảo và các nhân đức truyền thống khác, kết hợp với các điều kiện mới của thời đại và các yêu cầu thực tế để kế thừa và đổi mới, chứng minh đầy đủ giá trị của thời đại và sự lôi cuốn vĩnh cửu, làm cho nó hài hòa với nền văn hóa hiện đại và đời thực, và trở thành một dấu hiệu rõ ràng cho đời sống tâm linh và thực hành luân lý của toàn dân”.
Johnson mô tả “tôn giáo dân sự” và “chủ nghĩa hồi sinh được Đảng chăm sóc” của Trung Quốc. Cuộc chiến tranh tôn giáo mới nhất bắt đầu vào năm 2015. Dưới thời Mao, tôn giáo liên tục và thường xuyên bị bách hại và đàn áp điên cuồng. Điều này rõ ràng từ đầu chế độ cộng sản đến nỗi Vatican đã cắt đứt quan hệ với Trung Quốc cộng sản vào năm 1951.
Thỏa thuận vẫn còn bí mật của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với Trung Quốc về việc bổ nhiệm các giám mục đã được Bắc Kinh đồng ý trong nỗ lực xác quyết quyền kiểm soát nhiều hơn đối với các giáo sĩ Trung Quốc bằng cách bắt khoảng 50% trong số 12 triệu người Công Giáo Trung Quốc, những người đang thờ phượng trong điều gọi là Giáo Hội hầm trú, phải qui phục Hiệp hội Yêu nước Công Giáo Trung Quốc do đảng điều hành.
Nhưng các Giáo Hội Kitô giáo kết hợp lại có từ 70 tới 100 triệu tín đồ - Thệ phản, được Đảng tách rời khỏi Công Giáo, là tôn giáo phát triển nhanh nhất ở Trung Quốc trong hình thức tin lành của nó - và ước chừng 28 triệu người Hồi giáo Trung Quốc vẫn chỉ là một tỷ lệ nhỏ trong tổng dân số.
Hàng trăm triệu người Trung Quốc có xu hướng tự đồng nhất mình với một hỗn hợp các tôn giáo truyền thống, bao gồm cả Phật giáo Trung Quốc do nhà nước kiểm soát, rất khác với Phật giáo Tây Tạng. Đức Đạtlai Lạtma có tiếng bị Bắc Kinh hết sức ghét bỏ, họ nhấn mạnh đến quyền của mình trong việc ‘thừa nhận’ sự tái sinh của ngài. Một tôn giáo được chính thức công nhận khác là Lão giáo, còn gọi là Đạo giáo. Cả Phật giáo và Đạo giáo Trung Quốc đã tiếp thu các truyền thống cổ xưa hơn về việc thờ cúng tổ tiên và vật linh, và Ngày tảo mộ 5 tháng 4 vẫn là một ngày lễ quốc gia quan trọng dành cho việc viếng mộ của những người thân đã khuất.
Trong cuộc trường chinh nắm quyền, Đảng cộng sản Trung Quốc đã chỉ tôn trọng các tôn giáo truyền thống ngoài môi ngoài miệng nhưng sớm bắt đầu phá hủy vô số hàng ngàn ngôi chùa Phật giáo và Đạo giáo cũng như các nhà thờ Kitô giáo khi lên nắm quyền với một làn sóng hoạt động chống tôn giáo lớn khác trong Cách mạng Văn hóa.
Trong tác phẩm do tờ New York Times xuất bản, Johnson lưu ý bằng thí dụ: “các học giả ước tính rằng vào giữa thế kỷ 20, một nửa số ngôi đền hiện hữu ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ 19 đã bị phá hủy. Một cuộc khảo sát năm 1851 về thành phố cổ Bắc Kinh đã liệt kê 866 ngôi đền; ngày nay, tôi chỉ đếm được 18 ngôi. Vào cuối thế kỷ 19, hầu hết các làng đều có ít nhất một ngôi đền và nhiều làng có đến nửa tá ngôi đền; nhiều khu vực rộng lớn của vùng nông thôn Trung Quốc hiện không có đền thờ nào cả”.
Sự giả hình của một tổ chức ưu tuyển, chính thức vô thần và cực kỳ tham nhũng mưu toan tô vẽ cho mình một vai trò trong nền luân lý là điều đáng chú ý, nhưng dưới thời Tập Cận Bình, đó chính là điều mà Đảng cộng sản Trung Quốc đang mưu toan một cách chuyên biệt hơn bao giờ hết.
Thẳng tay đàn áp tự do tôn giáo
Trong khi đó, hãng tin CNA (https://www.catholicnewsagency.com/news/china-announces-new-crackdown-on-religious-freedom-4124) ngày 6 tháng1 năm nay cho hay: Trung Quốc sẽ chấp hành các hạn chế mới đối với các nhóm, tổ chức, các cuộc hội họp và các biến cố liên hệ khác của các tôn giáo bắt đầu từ ngày 1 tháng Hai.
Các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát đã công bố chính sách mới vào ngày 30 tháng 12, sau khi chính quyền Trung Quốc chuyển sang việc đàn áp hơn nữa người Công Giáo tại Tổng giáo phận Fuzhou, vì đã từ chối gia nhập Hiệp hội Yêu nước Công Giáo Trung Quốc.
Theo UCA News, “Các biện pháp hành chính mới đối với các nhóm Tôn giáo”, gồm sáu phần và 41 điều, sẽ kiểm soát mọi khía cạnh của hoạt động tôn giáo ở Trung Quốc, và sẽ bắt buộc tất cả các tôn giáo và tín đồ ở Trung Quốc tuân thủ các quy định do Đảng Cộng sản Trung Quốc, một đảng phải được thừa nhận là cơ quan có thẩm quyền cao hơn.
Điều 5 của các chính sách mới nói rằng “Các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tuân thủ hiến pháp, luật pháp, quy định, pháp lệnh và chính sách, tuân thủ nguyên tắc độc lập và tự trị, tuân thủ các chỉ thị về tôn giáo ở Trung Quốc, thực thi các giá trị của chủ nghĩa xã hội”.
Điều 17 qui định rằng “các tổ chức tôn giáo phải truyền bá các nguyên tắc và chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, cũng như đòi “các nhân viên tôn giáo và công dân tôn giáo ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hỗ trợ hệ thống xã hội chủ nghĩa, tuân thủ và tuân theo con đường của chủ nghĩa xã hội với các đặc điểm Trung Quốc”.
Các điều khác trong các biện pháp mới nêu rõ rằng các tổ chức tôn giáo “phải thiết lập một hệ thống học tập”, để đào tạo nhân viên phù hợp với các chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và cũng đòi để chính quyền can dự vào việc lựa chọn các viên chức tôn giáo và vào các cuộc tranh chấp.
Điều 34 tuyên bố “Không có sự chấp thuận của bộ tôn giáo sự vụ của chính phủ nhân dân, hoặc đăng ký với bộ dân sự vụ của chính phủ nhân dân, không có hoạt động nào có thể được thực hiện dưới danh nghĩa của các nhóm tôn giáo”. Điều này có nghĩa “các giáo hội tại gia” hoặc bất cứ hình thức giáo hội hầm trú nào cũng bất hợp pháp.
Trong nhiều thập niên sau cuộc cách mạng Cộng sản ở Trung Quốc, Giáo Hội Công Giáo “hầm trú” hiện hữu trong hiệp thông trọn vẹn với Rome, trong khi Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc, được nhà nước bảo trợ, tấn phong các giám mục được chính quyền chọn lựa và hiện hữu trong tình trạng ly giáo.
Vào tháng 9 năm 2018, một thỏa thuận tạm thời giữa các viên chức Bắc Kinh và Vatican đã được công bố, nhằm mục đích thống nhất Giáo hội hầm trú và Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc. Mặc dù các điều khoản của thỏa thuận đã được giữ bí mật, nhưng theo báo cáo, nó cho phép Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc quyền lựa chọn một danh sách ứng viên làm giám mục, từ đó Đức Giáo Hoàng sẽ lựa chọn.
Kể từ lúc có thỏa thuận, các giáo phận và giám mục hầm trú ở Trung Quốc đã phải chịu đựng một chiến dịch cưỡng chế phải vào hàng ngũ của Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc. Một số nhà thờ đã bị chính phủ ra lệnh đóng cửa hoặc phá hủy vì không tham gia Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc.
Tại Tổng giáo phận Fuzhou, nằm ở phía đông nam Trung Quốc, hơn 100 nhà thờ đã bị chính phủ đóng cửa kể từ tháng 8 năm 2019. Cuộc đàn áp bắt đầu sau khi chỉ có năm thành viên giáo sĩ tham dự một “hội nghị huấn luyện” do Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất và Cục Sắc tộc và Tôn giáo sự vụ bảo trợ.
Các nhà thờ Công Giáo ở thành phố Phú Khánh đã bị đóng cửa và máy giám sát được lắp đặt để xua các giáo dân. Phú Khánh là quê hương của Cha Lin Yuntuan, người là giám quản tông tòa của Tổng giáo phận Fuzhou.
Theo tạp chí Bitter Winter, chính phủ coi Cha Lin là một “nhân vật có sức lôi cuốn và có ảnh hưởng lớn”, người đang ngăn cản việc sáp nhập Giáo hội hầm trú vào Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc.
Một linh mục từ Phú Khánh nói với Bitter Winter rằng chính phủ đang nhắm vào điều họ gọi là “các linh mục nổi loạn” trong tỉnh, những người, từ chối tham gia Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc.
Các linh mục khác cho biết họ bị cấm gặp nhau và phải chịu sự quấy nhiễu liên tục từ phía chính phủ.
Trò chơi luân lý ở Trung Hoa
Theo Michael Sainsbury (https://www.ucanews.org/news/dont-be-fooled-by-chinas-morality-play/86928), ít ai biết đến, nhưng hồi tháng 10 năm ngoái, Đảng cộng sản Trung Quốc đã cho công bố một văn kiện dài 10,000 chữ về các phong thái xã hội, nói đúng hơn, về nền luân lý họ muốn áp đặt lên xã hội Trung Quốc do họ cai trị.
Ký giả trên cho rằng đây là cuộc tấn công mới nhất của lãnh tụ Tập Cẩn Bình đánh vào các tôn giáo, nhất là Kitô giáo và Hồi giáo, một cuộc tấn công chưa từng thấy kể từ những năm đen tối Cách Mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông (1966-1976).
Văn kiện trên cũng đồng thời là một thừa nhận trên thực tế đối với khoảng chân không tâm linh do Đảng cộng sản Trung Quốc chính thức tạo ra. Tính chính đáng của Đảng này hiện đang leo lét dựa vào, không phải các mục tiêu nguyên thủy của họ là tạo ra một xã hội bình đẳng mà dựa trên việc tiếp tục thành công trong việc phát triển và thịnh vượng kinh tế, một thành công hiện cũng rất nổi bật do sự kiện được phân phối không bình đẳng và dù sao cũng đang khựng lại trong khi hàng trăm triệu người vẫn sống trong cảnh nghèo khó. Những người từng thoát cảnh nghèo hiện cũng đang lao đao không kém vì vật giá leo thang và nợ nần bản thân.
Chủ nghĩa tư bản tràn lan cùng với việc Đảng loại bỏ nòng cốt nhiều phong trào tâm linh và việc nó bao trùm về đạo đức dưới nhiều hình thức khác nhau đã tạo ra một xã hội trong đó, rõ ràng thiếu lòng tin một cách nguy hiểm. Việc nhiều người Trung Hoa tìm kiếm một nền linh đạo chính là cách để sửa chữa sự thiếu vắng này.
Bất kể chủ nghĩa vô thần chính thức, Đảng cộng sản Trung Hoa luôn can dự vào các vấn đề tâm linh, trong đó, có việc kiểm soát chặt chẽ 5 tôn giáo “chính thức”: Công Giáo, Thệ phản, Phật giáo Trung Quốc, Lão giáo và Hồi giáo.
Nó cũng phát triển Đảng thành một thứ đấng cứu thế và người hướng dẫn luân lý cũng như một thứ phản-tôn-giáo của riêng mình, với các điển hình cực đoan là việc tôn thờ Mao Trạch Đông, và nay, Tập Cẩn Bình.
Thành thử không ngạc nhiên chi đây không phải là lần đầu tiên Đảng cộng sản Trung Quốc mưu toan tạc cho mình vai trò người duy trì luân lý của dân tộc Trung Hoa, một vai trò vốn hàm chứa trong ý thức hệ Mácxít-Lêninít. Thực vậy, thành tích của Đảng trong việc mưu toan trở thành mọi sự cho mọi người Trung Hoa, trong đó, có việc duy trì nền luân lý, đã có từ những ngày khởi đầu. Đây là chủ đề chung của các chế độ toàn trị thời nay: họ không thích các tôn giáo có tổ chức, những tôn giáo, dù sao, cũng đều đặt ra nhiều đe dọa có thực hay tưởng tượng cho “lòng trung thành”.
Người duy trì luân lý cho các công dân Trung Quốc
Lần cuối cùng một công văn dài dòng như vậy đã được Đảng này nhả ra là vào năm 2001. Nhưng theo ghi nhận của Ian Johnson thuộc tờ New York Times: người mà cuốn sách The Souls of China: The Return of Religion After Mao (Các Linh hồn của Trung Quốc: Sự Trở lại của Tôn giáo Sau thời Mao) là sách cần thiết cho bất cứ ai quan tâm đến tôn giáo tại Trung Quốc ngày nay, có một sự khác biệt quan trọng là lần này đảng kết nạp cái gọi là các tôn giáo cổ truyền vào dự án của nó nhằm tự nâng cao mình thành người bảo vệ luân lý của các công dân Trung Quốc.
Đây là phần chủ chốt: “Thấm nhuần Các Nhân đức truyền thống Trung Quốc. Nhân đức truyền thống của Trung Quốc là tinh hoa của nền văn hóa Trung Quốc và là nguồn xây dựng luân lý bất tận. Điều cần là phải đối xử với nền văn hóa truyền thống nổi bật của Trung Quốc với lòng tôn trọng và tự hào, tìm hiểu đầy đủ các tài nguyên luân lý phong phú được mang theo bởi kinh điển văn hóa, di tích lịch sử và di tích văn hóa, và truyền đạt những lời tốt đẹp của các vị thánh nhân cổ thời, các anh hùng và nhà hảo tâm dân tộc, để gen văn hóa Trung Quốc sẽ phát triển gốc rễ sâu hơn trong ý thức hệ và ý niệm luân lý của dân tộc.
“Việc giải thích sâu sắc triết lý Trung Quốc trong việc nhấn mạnh đến lòng nhân từ, tôn trọng người khác, tôn trọng sự liêm chính, tôn trọng công lý, tôn trọng sự hòa hợp và tìm kiếm sự vĩ đại, và thâm hậu hóa việc tự cải thiện bản thân, lòng tận tụy, chính trực, giúp đỡ người nguy hiểm, nhìn ra nguyên nhân công lý, lòng hiếu thảo và các nhân đức truyền thống khác, kết hợp với các điều kiện mới của thời đại và các yêu cầu thực tế để kế thừa và đổi mới, chứng minh đầy đủ giá trị của thời đại và sự lôi cuốn vĩnh cửu, làm cho nó hài hòa với nền văn hóa hiện đại và đời thực, và trở thành một dấu hiệu rõ ràng cho đời sống tâm linh và thực hành luân lý của toàn dân”.
Johnson mô tả “tôn giáo dân sự” và “chủ nghĩa hồi sinh được Đảng chăm sóc” của Trung Quốc. Cuộc chiến tranh tôn giáo mới nhất bắt đầu vào năm 2015. Dưới thời Mao, tôn giáo liên tục và thường xuyên bị bách hại và đàn áp điên cuồng. Điều này rõ ràng từ đầu chế độ cộng sản đến nỗi Vatican đã cắt đứt quan hệ với Trung Quốc cộng sản vào năm 1951.
Thỏa thuận vẫn còn bí mật của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với Trung Quốc về việc bổ nhiệm các giám mục đã được Bắc Kinh đồng ý trong nỗ lực xác quyết quyền kiểm soát nhiều hơn đối với các giáo sĩ Trung Quốc bằng cách bắt khoảng 50% trong số 12 triệu người Công Giáo Trung Quốc, những người đang thờ phượng trong điều gọi là Giáo Hội hầm trú, phải qui phục Hiệp hội Yêu nước Công Giáo Trung Quốc do đảng điều hành.
Nhưng các Giáo Hội Kitô giáo kết hợp lại có từ 70 tới 100 triệu tín đồ - Thệ phản, được Đảng tách rời khỏi Công Giáo, là tôn giáo phát triển nhanh nhất ở Trung Quốc trong hình thức tin lành của nó - và ước chừng 28 triệu người Hồi giáo Trung Quốc vẫn chỉ là một tỷ lệ nhỏ trong tổng dân số.
Hàng trăm triệu người Trung Quốc có xu hướng tự đồng nhất mình với một hỗn hợp các tôn giáo truyền thống, bao gồm cả Phật giáo Trung Quốc do nhà nước kiểm soát, rất khác với Phật giáo Tây Tạng. Đức Đạtlai Lạtma có tiếng bị Bắc Kinh hết sức ghét bỏ, họ nhấn mạnh đến quyền của mình trong việc ‘thừa nhận’ sự tái sinh của ngài. Một tôn giáo được chính thức công nhận khác là Lão giáo, còn gọi là Đạo giáo. Cả Phật giáo và Đạo giáo Trung Quốc đã tiếp thu các truyền thống cổ xưa hơn về việc thờ cúng tổ tiên và vật linh, và Ngày tảo mộ 5 tháng 4 vẫn là một ngày lễ quốc gia quan trọng dành cho việc viếng mộ của những người thân đã khuất.
Trong cuộc trường chinh nắm quyền, Đảng cộng sản Trung Quốc đã chỉ tôn trọng các tôn giáo truyền thống ngoài môi ngoài miệng nhưng sớm bắt đầu phá hủy vô số hàng ngàn ngôi chùa Phật giáo và Đạo giáo cũng như các nhà thờ Kitô giáo khi lên nắm quyền với một làn sóng hoạt động chống tôn giáo lớn khác trong Cách mạng Văn hóa.
Trong tác phẩm do tờ New York Times xuất bản, Johnson lưu ý bằng thí dụ: “các học giả ước tính rằng vào giữa thế kỷ 20, một nửa số ngôi đền hiện hữu ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ 19 đã bị phá hủy. Một cuộc khảo sát năm 1851 về thành phố cổ Bắc Kinh đã liệt kê 866 ngôi đền; ngày nay, tôi chỉ đếm được 18 ngôi. Vào cuối thế kỷ 19, hầu hết các làng đều có ít nhất một ngôi đền và nhiều làng có đến nửa tá ngôi đền; nhiều khu vực rộng lớn của vùng nông thôn Trung Quốc hiện không có đền thờ nào cả”.
Sự giả hình của một tổ chức ưu tuyển, chính thức vô thần và cực kỳ tham nhũng mưu toan tô vẽ cho mình một vai trò trong nền luân lý là điều đáng chú ý, nhưng dưới thời Tập Cận Bình, đó chính là điều mà Đảng cộng sản Trung Quốc đang mưu toan một cách chuyên biệt hơn bao giờ hết.
Thẳng tay đàn áp tự do tôn giáo
Trong khi đó, hãng tin CNA (https://www.catholicnewsagency.com/news/china-announces-new-crackdown-on-religious-freedom-4124) ngày 6 tháng1 năm nay cho hay: Trung Quốc sẽ chấp hành các hạn chế mới đối với các nhóm, tổ chức, các cuộc hội họp và các biến cố liên hệ khác của các tôn giáo bắt đầu từ ngày 1 tháng Hai.
Các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát đã công bố chính sách mới vào ngày 30 tháng 12, sau khi chính quyền Trung Quốc chuyển sang việc đàn áp hơn nữa người Công Giáo tại Tổng giáo phận Fuzhou, vì đã từ chối gia nhập Hiệp hội Yêu nước Công Giáo Trung Quốc.
Theo UCA News, “Các biện pháp hành chính mới đối với các nhóm Tôn giáo”, gồm sáu phần và 41 điều, sẽ kiểm soát mọi khía cạnh của hoạt động tôn giáo ở Trung Quốc, và sẽ bắt buộc tất cả các tôn giáo và tín đồ ở Trung Quốc tuân thủ các quy định do Đảng Cộng sản Trung Quốc, một đảng phải được thừa nhận là cơ quan có thẩm quyền cao hơn.
Điều 5 của các chính sách mới nói rằng “Các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tuân thủ hiến pháp, luật pháp, quy định, pháp lệnh và chính sách, tuân thủ nguyên tắc độc lập và tự trị, tuân thủ các chỉ thị về tôn giáo ở Trung Quốc, thực thi các giá trị của chủ nghĩa xã hội”.
Điều 17 qui định rằng “các tổ chức tôn giáo phải truyền bá các nguyên tắc và chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, cũng như đòi “các nhân viên tôn giáo và công dân tôn giáo ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hỗ trợ hệ thống xã hội chủ nghĩa, tuân thủ và tuân theo con đường của chủ nghĩa xã hội với các đặc điểm Trung Quốc”.
Các điều khác trong các biện pháp mới nêu rõ rằng các tổ chức tôn giáo “phải thiết lập một hệ thống học tập”, để đào tạo nhân viên phù hợp với các chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và cũng đòi để chính quyền can dự vào việc lựa chọn các viên chức tôn giáo và vào các cuộc tranh chấp.
Điều 34 tuyên bố “Không có sự chấp thuận của bộ tôn giáo sự vụ của chính phủ nhân dân, hoặc đăng ký với bộ dân sự vụ của chính phủ nhân dân, không có hoạt động nào có thể được thực hiện dưới danh nghĩa của các nhóm tôn giáo”. Điều này có nghĩa “các giáo hội tại gia” hoặc bất cứ hình thức giáo hội hầm trú nào cũng bất hợp pháp.
Trong nhiều thập niên sau cuộc cách mạng Cộng sản ở Trung Quốc, Giáo Hội Công Giáo “hầm trú” hiện hữu trong hiệp thông trọn vẹn với Rome, trong khi Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc, được nhà nước bảo trợ, tấn phong các giám mục được chính quyền chọn lựa và hiện hữu trong tình trạng ly giáo.
Vào tháng 9 năm 2018, một thỏa thuận tạm thời giữa các viên chức Bắc Kinh và Vatican đã được công bố, nhằm mục đích thống nhất Giáo hội hầm trú và Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc. Mặc dù các điều khoản của thỏa thuận đã được giữ bí mật, nhưng theo báo cáo, nó cho phép Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc quyền lựa chọn một danh sách ứng viên làm giám mục, từ đó Đức Giáo Hoàng sẽ lựa chọn.
Kể từ lúc có thỏa thuận, các giáo phận và giám mục hầm trú ở Trung Quốc đã phải chịu đựng một chiến dịch cưỡng chế phải vào hàng ngũ của Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc. Một số nhà thờ đã bị chính phủ ra lệnh đóng cửa hoặc phá hủy vì không tham gia Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc.
Tại Tổng giáo phận Fuzhou, nằm ở phía đông nam Trung Quốc, hơn 100 nhà thờ đã bị chính phủ đóng cửa kể từ tháng 8 năm 2019. Cuộc đàn áp bắt đầu sau khi chỉ có năm thành viên giáo sĩ tham dự một “hội nghị huấn luyện” do Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất và Cục Sắc tộc và Tôn giáo sự vụ bảo trợ.
Các nhà thờ Công Giáo ở thành phố Phú Khánh đã bị đóng cửa và máy giám sát được lắp đặt để xua các giáo dân. Phú Khánh là quê hương của Cha Lin Yuntuan, người là giám quản tông tòa của Tổng giáo phận Fuzhou.
Theo tạp chí Bitter Winter, chính phủ coi Cha Lin là một “nhân vật có sức lôi cuốn và có ảnh hưởng lớn”, người đang ngăn cản việc sáp nhập Giáo hội hầm trú vào Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc.
Một linh mục từ Phú Khánh nói với Bitter Winter rằng chính phủ đang nhắm vào điều họ gọi là “các linh mục nổi loạn” trong tỉnh, những người, từ chối tham gia Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc.
Các linh mục khác cho biết họ bị cấm gặp nhau và phải chịu sự quấy nhiễu liên tục từ phía chính phủ.
Quyết định của Bộ Giáo Lý Đức Tin liên quan đến một linh mục Phi Luật Tân tự xưng có thể làm phép lạ
Đặng Tự Do
17:41 13/01/2020
Cha Fernando Suarez là một linh mục nổi tiếng tại Phi Luật Tân. Ngài được tường thuật là có đặc sủng chữa bệnh và tự tuyên bố đã làm cho một người đàn bà Canada đã chết được sống lại.
Cha Fernando Suarez sinh năm 1967 tại làng Barrio Butong, huyện Taal, tỉnh Batangas. Cậu Suarez chào đời trong một gia đình nghèo. Cha cậu lái một chiếc xe ba bánh và mẹ cậu là một thợ may. Là con cả trong gia đình bốn người con, ngay từ nhỏ, cậu Suarez đã biết cách kiếm sống. Năm 12 tuổi, cậu đã kiếm được tiền phụ giúp cha mẹ bằng cách cho người ta mướn phao ở bãi biển Butong.
Cậu Suarez đạt được bằng kỹ sư hóa học tại Đại học Adamson. Sau khi tốt nghiệp đại học, cậu gia nhập Dòng Phanxicô viện tu, nhưng cuộc sống tu trì có nhiều lận đận nên cậu bỏ ngang. Năm 1995, một sinh viên người Canada gốc Pháp tên Mark Morin, thấy cậu có khiếu kinh doanh nên đã mời cậu đến Canada và trả tiền vé. Đầu tiên, hai người liên kết với nhau trong các hoạt động kinh doanh nhưng cậu Suarez lại muốn theo đuổi chức tư tế. Năm 1997, cậu gia nhập Tu hội Đồng hành với Thánh Giá, một cộng đồng linh mục và chủng sinh mới được thành lập tại Ottawa. Cậu được thụ phong linh mục năm 2002 ở tuổi 35.
Theo Cha Suarez, ở tuổi 16, ngài nhìn thấy một người phụ nữ ăn xin 60 tuổi bị liệt bên ngoài nhà thờ Quiapo. Cậu hỏi bà có muốn mình cầu nguyện cho không, với dụng ý để an ủi bà. Sau một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một Kinh Sáng Danh, người phụ nữ đứng dậy và bước đi.
Ở Canada, khi Suarez vẫn còn là một chủng sinh, một phụ nữ Canada được tuyên bố đã chết 8 tiếng trước đó cũng mở mắt sống lại sau khi cậu cầu nguyện cho bà.
Từ đó, tiếng đồn cha Suarez có đặc sủng chữa bệnh lan rất nhanh và năm 2008, ngài trở lại Phi Luật Tân để tiếp tục thừa tác vụ chữa bệnh. Ngài thành lập nhóm Mary Mother of the Poor, tức là Đức Maria Mẹ của người nghèo, gọi tắt là MMP. Các vụ được cho là lành bệnh không thể giải thích được về mặt y khoa được tường trình trên trang web của MMP.
Các thánh lễ do cha Suarez cử hành lôi cuốn đông đảo anh chị em giáo dân. Tuy nhiên, cho đến nay ít nhất 4 giáo phận và tổng giáo phận cấm cha Suarez không được cử hành các buổi cầu nguyện chữa bệnh trên địa bàn của mình.
Giải thích về quyết định cấm của mình, Đức Tổng Giám Mục Oscar Cruz của tổng giáo phận Lingayen-Dagupan nói ngài không thể nào tin cha Suarez có khả năng khiến một người sống lại từ cõi chết. “Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới có thể làm người chết sống lại,” ngài nói.
Tuy nhiên, các Giám Mục gặp nhiều khó khăn trong việc ngăn cấm cha Suarez sau khi ông chủ tập đoàn San Miguel Corp tuyên bố bà vợ ông được lành bệnh và vào năm 2010 đã tặng cho MMP một khu đất rộng 33 ha ở thị trấn Amuyong, quận Alfonso, ở thành phố Cavite. Ông còn tuyên bố xây dựng bức tượng Đức Mẹ của người nghèo cao 33 tầng.
Ngày 6 tháng Giêng năm nay, Bộ Giáo Lý Đức Tin ra một sắc lệnh truyền công bố rằng cáo buộc cho rằng cha Fernando Suarez lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên là không có cơ sở. Quyết định này là để trả lời cho một vụ kiện được đệ trình lên Vatican vào ngày 8 tháng 5 năm 2019.
Hội đồng Giám mục Phi Luật Tân đã thông báo cho cha Suarez rằng ngài được Bộ Giáo Lý Đức Tin trao cho một quyết định không phạm tội.
Thông báo được đưa ra trên trang Facebook của MMP hôm 9 tháng Giêng giải thích theo chiều hướng là phán quyết không phạm tội này có nghĩa là cha Suarez bị cáo buộc sai trái về tội ác này và do đó, không có gì cản trở ngài thực thi tác vụ chữa bệnh của mình.
Tuy nhiên, Hội Đồng Giám Mục nhấn mạnh rằng tác vụ chữa bệnh của ngài phải được thực hiện đúng theo thẩm quyền tài phán của giáo quyền địa phương. Quyết định của Bộ Giáo Lý Đức Tin chỉ khẳng định ngài vô tội liên quan đến cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ em, không phải là giấy phép thi hành tác vụ chữa bệnh tại Phi Luật Tân.
Source:InquirerVatican absolves ‘healing’ priest Suarez in sexual abuse case
Cha Fernando Suarez sinh năm 1967 tại làng Barrio Butong, huyện Taal, tỉnh Batangas. Cậu Suarez chào đời trong một gia đình nghèo. Cha cậu lái một chiếc xe ba bánh và mẹ cậu là một thợ may. Là con cả trong gia đình bốn người con, ngay từ nhỏ, cậu Suarez đã biết cách kiếm sống. Năm 12 tuổi, cậu đã kiếm được tiền phụ giúp cha mẹ bằng cách cho người ta mướn phao ở bãi biển Butong.
Cậu Suarez đạt được bằng kỹ sư hóa học tại Đại học Adamson. Sau khi tốt nghiệp đại học, cậu gia nhập Dòng Phanxicô viện tu, nhưng cuộc sống tu trì có nhiều lận đận nên cậu bỏ ngang. Năm 1995, một sinh viên người Canada gốc Pháp tên Mark Morin, thấy cậu có khiếu kinh doanh nên đã mời cậu đến Canada và trả tiền vé. Đầu tiên, hai người liên kết với nhau trong các hoạt động kinh doanh nhưng cậu Suarez lại muốn theo đuổi chức tư tế. Năm 1997, cậu gia nhập Tu hội Đồng hành với Thánh Giá, một cộng đồng linh mục và chủng sinh mới được thành lập tại Ottawa. Cậu được thụ phong linh mục năm 2002 ở tuổi 35.
Theo Cha Suarez, ở tuổi 16, ngài nhìn thấy một người phụ nữ ăn xin 60 tuổi bị liệt bên ngoài nhà thờ Quiapo. Cậu hỏi bà có muốn mình cầu nguyện cho không, với dụng ý để an ủi bà. Sau một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một Kinh Sáng Danh, người phụ nữ đứng dậy và bước đi.
Ở Canada, khi Suarez vẫn còn là một chủng sinh, một phụ nữ Canada được tuyên bố đã chết 8 tiếng trước đó cũng mở mắt sống lại sau khi cậu cầu nguyện cho bà.
Từ đó, tiếng đồn cha Suarez có đặc sủng chữa bệnh lan rất nhanh và năm 2008, ngài trở lại Phi Luật Tân để tiếp tục thừa tác vụ chữa bệnh. Ngài thành lập nhóm Mary Mother of the Poor, tức là Đức Maria Mẹ của người nghèo, gọi tắt là MMP. Các vụ được cho là lành bệnh không thể giải thích được về mặt y khoa được tường trình trên trang web của MMP.
Các thánh lễ do cha Suarez cử hành lôi cuốn đông đảo anh chị em giáo dân. Tuy nhiên, cho đến nay ít nhất 4 giáo phận và tổng giáo phận cấm cha Suarez không được cử hành các buổi cầu nguyện chữa bệnh trên địa bàn của mình.
Giải thích về quyết định cấm của mình, Đức Tổng Giám Mục Oscar Cruz của tổng giáo phận Lingayen-Dagupan nói ngài không thể nào tin cha Suarez có khả năng khiến một người sống lại từ cõi chết. “Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới có thể làm người chết sống lại,” ngài nói.
Tuy nhiên, các Giám Mục gặp nhiều khó khăn trong việc ngăn cấm cha Suarez sau khi ông chủ tập đoàn San Miguel Corp tuyên bố bà vợ ông được lành bệnh và vào năm 2010 đã tặng cho MMP một khu đất rộng 33 ha ở thị trấn Amuyong, quận Alfonso, ở thành phố Cavite. Ông còn tuyên bố xây dựng bức tượng Đức Mẹ của người nghèo cao 33 tầng.
Ngày 6 tháng Giêng năm nay, Bộ Giáo Lý Đức Tin ra một sắc lệnh truyền công bố rằng cáo buộc cho rằng cha Fernando Suarez lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên là không có cơ sở. Quyết định này là để trả lời cho một vụ kiện được đệ trình lên Vatican vào ngày 8 tháng 5 năm 2019.
Hội đồng Giám mục Phi Luật Tân đã thông báo cho cha Suarez rằng ngài được Bộ Giáo Lý Đức Tin trao cho một quyết định không phạm tội.
Thông báo được đưa ra trên trang Facebook của MMP hôm 9 tháng Giêng giải thích theo chiều hướng là phán quyết không phạm tội này có nghĩa là cha Suarez bị cáo buộc sai trái về tội ác này và do đó, không có gì cản trở ngài thực thi tác vụ chữa bệnh của mình.
Tuy nhiên, Hội Đồng Giám Mục nhấn mạnh rằng tác vụ chữa bệnh của ngài phải được thực hiện đúng theo thẩm quyền tài phán của giáo quyền địa phương. Quyết định của Bộ Giáo Lý Đức Tin chỉ khẳng định ngài vô tội liên quan đến cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ em, không phải là giấy phép thi hành tác vụ chữa bệnh tại Phi Luật Tân.
Source:Inquirer
Thêm vào đời độc thân linh mục, tâm tình vâng phục hiền thảo với Đức Thánh Cha.
Thanh Quảng sdb
17:59 13/01/2020
Thêm vào đời độc thân linh mục, tâm tình vâng phục hiền thảo với Đức Thánh Cha.
Trong cuốn sách mà Đức nguyên Giáo hoàng và Đức nguyên Hồng Y Tổng trưởng Bộ Phụng Tự có cập đến một vấn đề mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ nhiều lần.
(Andrea Tornielli – Tin Vatican – Thanh Quảng sdb phỏng dịch)
Một cuốn sách về chức tư tế do Đức Thánh Cha danh dự Joseph Ratzinger và Đức Hồng Y nguyên Tổng trưởng bộ Phụng tự Robert Sarah, sẽ được phát hành tại Pháp vào ngày 15 tháng 1 này. Theo các tài liệu giới thiệu tóm lược tác phẩm trước khi phát hành do nhà phát hành Le Figaro cho hay thì hai tác giả có tham khảo tài liệu từ các cuộc tranh luận về tình trạng độc thân và khả năng phong chức cho những người nam đã và đang sống đời hôn nhân làm linh mục. Đức nguyên Thánh cha Ratzinger và Đức Hồng Y Sarah - những người tự mô tả mình là hai Giám mục với sự vâng phục hiền thảo dành cho Đức Thánh Cha Phanxicô, người đang tìm kiếm sự thật, trong một tinh thần yêu thương hiệp nhất của Giáo hội - bảo vệ luật độc thân và đưa ra những lý chứng thuyết phục được trào lưu đòi thay đổi luật này! Vấn đề về độc thân linh mục chiếm 175 trang của toàn bộ tập sách, với hai suy tư - một từ Đức Giáo Hoàng danh dự và một từ Đức Hồng Y - và phần giới thiệu và kết luận được cả hai cùng viết.
Trong văn bản của mình, Đức Hồng Y Sarah lưu ý có một mối liên hệ bản thể - bí tích giữa chức tư tế và đời sống độc thân. Xác quyết này đã được Công đồng Vatican II và các vị tiền nhiệm hai thánh Giáo hoàng Paul VI và John Paul II và Đức Thánh Cha danh dự Benedict XVI luôn củng cố. Tôi mong ước Đức Thánh Cha Phanxicô cũng sẽ bảo vệ luật này một cách dứt khoát, ngay cả khi cho phép một luật trừ cho một khu vực nào đó. Hơn nữa, theo ĐHY Sarah còn đi xa tới mức độ mô tả khả năng phong chức cho những người nam đã và đang sống đời gia đình là một thảm họa cho việc mục vụ, một cái nhìn khiếm diện về Giáo hội và sự thiếu hiểu biết về chức vụ tư tế. Trong đóng góp ngắn gọn của mình, Đức nguyên Giáo hoàng Benedict XVI, cũng suy tư về chủ đề này, Ngài đưa chúng ta trở về cội nguồn Kitô giáo của người Do Thái, khẳng định rằng từ đầu Thiên Chúa kết ước giao ước mới với nhân loại, giao ước đó được thiết lập bởi Chúa Giêsu, vị tư tế độc thân. Ngài nhắc nhớ rằng đã có những Kitô hữu trong Giáo hội thửa xưa, trong những thiên niên kỷ đầu tiên, là những người đàn ông đã kết hôn, có thể đã chịu chức linh mục với điều kiện họ cam kết sống tiết dục.
Độc thân linh mục không, và chưa bao giờ là một giáo điều.
Đó là một luật của Giáo hội Latinh và được coi là một món quà quý giá, như tất cả các Giáo hoàng gần đây đã khẳng định. Các Giáo Hội Công Giáo Đông phương cho phép những người đàn ông đã có vợ làm linh mục. Cũng có nhiều trường hợp ngoại lệ cũng đã được thừa nhận trong Giáo hội Latinh do chính Đức nguyên Giáo hoàng Benedict XVI đề cập tới trong Tông huấn Anglicanorum coetibus, dành riêng cho các linh mục Anh giáo, những người về hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, trong đó Giáo hội thừa nhận những linh mục Anh giáo đã kết hôn có thể tiếp tục làm linh mục Công Giáo trong khi vẫn sống đời vợ chồng trong gia đình của mình.
Cũng nên nhắc lại rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nói về chủ đề này. Khi còn là một Hồng Y, trong cuộc phỏng vấn của ký giả Rabbi Abraham Skorka, ngài đã ủng hộ việc duy trì tình trạng độc thân linh mục: Ngài nêu ra các ưu và nhược điểm, trong nhiều thế kỷ qua, mang lại nhiều điều tích cực hơn là lỗi lầm!
Truyền thống linh mục độc thân có nhiều giá trị và thích hợp.
Trong cuộc đối thoại với các nhà báo trên chuyến bay trở về từ Đại hội Giới trẻ Thế giới tại Panama hồi tháng 1 năm ngoái, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ lại rằng đối với các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, việc lựa chọn sống đời độc thân hoặc kết hôn trước khi chịu chức Phó tế; nhưng ĐTC nói thêm, đối với Giáo hội Latinh: Tôi nhớ những lời mà thánh Giáo hoàng Paul VI đã nói: “Tôi thà chết hơn là thay đổi luật độc thân”. Những lời này xuất hiện trong tâm trí tôi và tôi muốn nói điều đó, bởi vì đó là những lời phát ra từ một tâm hồn can đảm, giữa một thời điểm đầy khó khăn của những thập niên 1968/1970 ... Cá nhân tôi luôn thâm tín rằng sự độc thân là một món quà trân quí cho Giáo hội. Thứ hai, tôi không tán đồng việc cho phép tùy ý chọn sống độc thân hay không.
Trong cuộc phỏng vấn này ĐTC nói về cuộc thảo luận với các nhà thần học về khả năng miễn trừ cho một số vùng xa xôi, như các quần đảo ở Thái Bình Dương… Tuy nhiên, ĐTC không đưa ra một quyết định nào cả! Quyết định của ĐTC là: Có thể quyết định chọn đời độc thân hay không trước khi chịu chức phó tế? Và câu trả lời của ĐTC là không. Đó là một cái gì tôi đã lựa chọn, một cái gì cá nhân, hiển nhiên tôi đã đạt được điều đó một cách rõ ràng. Tôi có quá ngặt không? Có lẽ. Nhưng tôi không muốn trả lời với Chúa về quyết định này.
Thượng Hội đồng Giám mục Vùng Amazon được tổ chức vào tháng 10 năm 2019 và chủ đề này đã được tranh luận sôi nổi. Như có thể tìm thấy trong các tài liệu đúc kết, nhiều nghị phụ đã đề cập tới khả năng phong chức phó tế vĩnh viễn cho những người sống bậc hôn nhân... Tuy nhiên, điều đáng chú ý là vào ngày 26 tháng 10, trong bài phát biểu kết thúc Thượng Hội Đồng, Đức Thánh Cha Phanxicô, sau khi đã theo dõi tất cả các bài phát biểu và thảo luận của Thượng Hội Đồng, Ngài đã không đề cập đến việc truyền chức linh mục cho những người đang sống đời hôn nhân dưới bất cứ một hoàn cảnh hay trạng huống nào! Thay vào đó, ĐTC nhấn mạnh tới bốn chiều hướng của Thượng hội đồng: đó là sự hòa nhập; tình trạng sinh thái; chiều kích xã hội; và cuối cùng là đường hướng mục vụ. Cũng trong bài phát biểu đó, Đức Thánh Cha đã nói về các sáng kiến trong các bộ mới và vai trò của phụ nữ; và đề cập đến sự khan hiếm giáo sĩ ở một số khu vực truyền giáo, Ngài nhắc lại có nhiều linh mục từ một số quốc gia đã được gửi đi Hoa Kỳ và Châu Âu, nơi mà không có nhiều việc cho bằng gửi họ đến các khu vực vùng Amazon...
Cuối cùng, điều quan trọng là Đức Thánh Cha Phanxicô, trong lời cảm ơn các phương tiện truyền thông, đã mời gọi họ hãy ủng hộ phổ biến các Tài liệu Cuối cùng của Thượng Hội Đồng, tập trung vào các phần quan trọng mà Thượng hội đồng muốn quảng bá: Hòa nhập văn hóa, Phát triển xã hội, mục vụ và bảo vệ sinh thái. Sau đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo họ đừng để bị cuốn hút vào nguy cơ phe nhóm mà tranh cãi hơn thua, thắng bại khi nhìn vào những gì được quyết định liên quan đến các vấn đề kỷ luật.
Trong cuốn sách mà Đức nguyên Giáo hoàng và Đức nguyên Hồng Y Tổng trưởng Bộ Phụng Tự có cập đến một vấn đề mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ nhiều lần.
(Andrea Tornielli – Tin Vatican – Thanh Quảng sdb phỏng dịch)
Một cuốn sách về chức tư tế do Đức Thánh Cha danh dự Joseph Ratzinger và Đức Hồng Y nguyên Tổng trưởng bộ Phụng tự Robert Sarah, sẽ được phát hành tại Pháp vào ngày 15 tháng 1 này. Theo các tài liệu giới thiệu tóm lược tác phẩm trước khi phát hành do nhà phát hành Le Figaro cho hay thì hai tác giả có tham khảo tài liệu từ các cuộc tranh luận về tình trạng độc thân và khả năng phong chức cho những người nam đã và đang sống đời hôn nhân làm linh mục. Đức nguyên Thánh cha Ratzinger và Đức Hồng Y Sarah - những người tự mô tả mình là hai Giám mục với sự vâng phục hiền thảo dành cho Đức Thánh Cha Phanxicô, người đang tìm kiếm sự thật, trong một tinh thần yêu thương hiệp nhất của Giáo hội - bảo vệ luật độc thân và đưa ra những lý chứng thuyết phục được trào lưu đòi thay đổi luật này! Vấn đề về độc thân linh mục chiếm 175 trang của toàn bộ tập sách, với hai suy tư - một từ Đức Giáo Hoàng danh dự và một từ Đức Hồng Y - và phần giới thiệu và kết luận được cả hai cùng viết.
Trong văn bản của mình, Đức Hồng Y Sarah lưu ý có một mối liên hệ bản thể - bí tích giữa chức tư tế và đời sống độc thân. Xác quyết này đã được Công đồng Vatican II và các vị tiền nhiệm hai thánh Giáo hoàng Paul VI và John Paul II và Đức Thánh Cha danh dự Benedict XVI luôn củng cố. Tôi mong ước Đức Thánh Cha Phanxicô cũng sẽ bảo vệ luật này một cách dứt khoát, ngay cả khi cho phép một luật trừ cho một khu vực nào đó. Hơn nữa, theo ĐHY Sarah còn đi xa tới mức độ mô tả khả năng phong chức cho những người nam đã và đang sống đời gia đình là một thảm họa cho việc mục vụ, một cái nhìn khiếm diện về Giáo hội và sự thiếu hiểu biết về chức vụ tư tế. Trong đóng góp ngắn gọn của mình, Đức nguyên Giáo hoàng Benedict XVI, cũng suy tư về chủ đề này, Ngài đưa chúng ta trở về cội nguồn Kitô giáo của người Do Thái, khẳng định rằng từ đầu Thiên Chúa kết ước giao ước mới với nhân loại, giao ước đó được thiết lập bởi Chúa Giêsu, vị tư tế độc thân. Ngài nhắc nhớ rằng đã có những Kitô hữu trong Giáo hội thửa xưa, trong những thiên niên kỷ đầu tiên, là những người đàn ông đã kết hôn, có thể đã chịu chức linh mục với điều kiện họ cam kết sống tiết dục.
Độc thân linh mục không, và chưa bao giờ là một giáo điều.
Đó là một luật của Giáo hội Latinh và được coi là một món quà quý giá, như tất cả các Giáo hoàng gần đây đã khẳng định. Các Giáo Hội Công Giáo Đông phương cho phép những người đàn ông đã có vợ làm linh mục. Cũng có nhiều trường hợp ngoại lệ cũng đã được thừa nhận trong Giáo hội Latinh do chính Đức nguyên Giáo hoàng Benedict XVI đề cập tới trong Tông huấn Anglicanorum coetibus, dành riêng cho các linh mục Anh giáo, những người về hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, trong đó Giáo hội thừa nhận những linh mục Anh giáo đã kết hôn có thể tiếp tục làm linh mục Công Giáo trong khi vẫn sống đời vợ chồng trong gia đình của mình.
Cũng nên nhắc lại rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nói về chủ đề này. Khi còn là một Hồng Y, trong cuộc phỏng vấn của ký giả Rabbi Abraham Skorka, ngài đã ủng hộ việc duy trì tình trạng độc thân linh mục: Ngài nêu ra các ưu và nhược điểm, trong nhiều thế kỷ qua, mang lại nhiều điều tích cực hơn là lỗi lầm!
Truyền thống linh mục độc thân có nhiều giá trị và thích hợp.
Trong cuộc đối thoại với các nhà báo trên chuyến bay trở về từ Đại hội Giới trẻ Thế giới tại Panama hồi tháng 1 năm ngoái, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ lại rằng đối với các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, việc lựa chọn sống đời độc thân hoặc kết hôn trước khi chịu chức Phó tế; nhưng ĐTC nói thêm, đối với Giáo hội Latinh: Tôi nhớ những lời mà thánh Giáo hoàng Paul VI đã nói: “Tôi thà chết hơn là thay đổi luật độc thân”. Những lời này xuất hiện trong tâm trí tôi và tôi muốn nói điều đó, bởi vì đó là những lời phát ra từ một tâm hồn can đảm, giữa một thời điểm đầy khó khăn của những thập niên 1968/1970 ... Cá nhân tôi luôn thâm tín rằng sự độc thân là một món quà trân quí cho Giáo hội. Thứ hai, tôi không tán đồng việc cho phép tùy ý chọn sống độc thân hay không.
Trong cuộc phỏng vấn này ĐTC nói về cuộc thảo luận với các nhà thần học về khả năng miễn trừ cho một số vùng xa xôi, như các quần đảo ở Thái Bình Dương… Tuy nhiên, ĐTC không đưa ra một quyết định nào cả! Quyết định của ĐTC là: Có thể quyết định chọn đời độc thân hay không trước khi chịu chức phó tế? Và câu trả lời của ĐTC là không. Đó là một cái gì tôi đã lựa chọn, một cái gì cá nhân, hiển nhiên tôi đã đạt được điều đó một cách rõ ràng. Tôi có quá ngặt không? Có lẽ. Nhưng tôi không muốn trả lời với Chúa về quyết định này.
Thượng Hội đồng Giám mục Vùng Amazon được tổ chức vào tháng 10 năm 2019 và chủ đề này đã được tranh luận sôi nổi. Như có thể tìm thấy trong các tài liệu đúc kết, nhiều nghị phụ đã đề cập tới khả năng phong chức phó tế vĩnh viễn cho những người sống bậc hôn nhân... Tuy nhiên, điều đáng chú ý là vào ngày 26 tháng 10, trong bài phát biểu kết thúc Thượng Hội Đồng, Đức Thánh Cha Phanxicô, sau khi đã theo dõi tất cả các bài phát biểu và thảo luận của Thượng Hội Đồng, Ngài đã không đề cập đến việc truyền chức linh mục cho những người đang sống đời hôn nhân dưới bất cứ một hoàn cảnh hay trạng huống nào! Thay vào đó, ĐTC nhấn mạnh tới bốn chiều hướng của Thượng hội đồng: đó là sự hòa nhập; tình trạng sinh thái; chiều kích xã hội; và cuối cùng là đường hướng mục vụ. Cũng trong bài phát biểu đó, Đức Thánh Cha đã nói về các sáng kiến trong các bộ mới và vai trò của phụ nữ; và đề cập đến sự khan hiếm giáo sĩ ở một số khu vực truyền giáo, Ngài nhắc lại có nhiều linh mục từ một số quốc gia đã được gửi đi Hoa Kỳ và Châu Âu, nơi mà không có nhiều việc cho bằng gửi họ đến các khu vực vùng Amazon...
Cuối cùng, điều quan trọng là Đức Thánh Cha Phanxicô, trong lời cảm ơn các phương tiện truyền thông, đã mời gọi họ hãy ủng hộ phổ biến các Tài liệu Cuối cùng của Thượng Hội Đồng, tập trung vào các phần quan trọng mà Thượng hội đồng muốn quảng bá: Hòa nhập văn hóa, Phát triển xã hội, mục vụ và bảo vệ sinh thái. Sau đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo họ đừng để bị cuốn hút vào nguy cơ phe nhóm mà tranh cãi hơn thua, thắng bại khi nhìn vào những gì được quyết định liên quan đến các vấn đề kỷ luật.
Phản ứng của Vatican đối với cuốn sách của Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Robert Sarah
Đặng Tự Do
20:05 13/01/2020
Như chúng tôi đã loan tin, trong một diễn biến được thông tấn xã Reuters gọi là một quả bom chấn động, tờ Le Figaro đã công bố một trích đoạn của cuốn “From the Depths of our Hearts”, nghĩa là “Từ sâu thẳm tâm hồn chúng tôi”, do Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 và Đức Hồng Y Robert Sarah viết chung với nhau.
Theo cha Joseph Fessio, sáng lập viên và là chủ biên của Ignatius Press là nhà xuất bản phiên bản tiếng Anh của cuốn sách này, Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Robert Sarah quyết liệt chống lại việc bãi bỏ luật độc thân linh mục. Các tác giả “nhấn mạnh rằng việc canh tân Giáo Hội đòi buộc một sự hiểu biết mới mẻ về ơn gọi linh mục như một chia sẻ trong căn tính tư tế của Chúa Giêsu dành cho Hiền Thê Giáo Hội”, và “các ngài khẳng định rằng khi các linh mục được tùy chọn sống độc thân hay không thì lúc đó chức linh mục không còn là một chức tư tế đích thực nữa.”
Ngoài luật độc thân linh mục, hai vị còn đề cập đến bản chất của Giáo Hội và bản chất tình môn đệ Kitô giáo để khẳng định rằng cuộc khủng hoảng Giáo Hội đang phải đối diện xuất phát từ cố gắng muốn thích ứng với văn hóa đương đại và từ bỏ những giáo huấn về đức tin.
Các báo cáo trên các phương tiện truyền thông thế tục, trong bối cảnh chỉ mới có các trích đoạn của phiên bản tiếng Pháp của cuốn sách được công bố trên tờ Le Figaro có thể dẫn đến ý kiến cho rằng có sự mâu thuẫn gay gắt giữa Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 và Đức Thánh Cha Phanxicô về luật độc thân linh mục, cũng như có những khác biệt trong đánh giá của hai vị về cuộc khủng hoảng hiện nay trong Giáo Hội.
Trong cố gắng dập tắt điều này, ông Andrea Tornielli, chủ biên Vatican News, đã có bài nhận định cho rằng cuốn sách của Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Robert Sarah là “một đóng góp về luật độc thân linh mục trong sự vâng phục hiếu thảo với Đức Thánh Cha,” và luật độc thân linh mục là “một chủ đề đã được Đức Thánh Cha Phanxicô trình bày nhiều lần.”
Ông Andrea Tornielli viết như sau:
Một cuốn sách về chức tư tế có chữ ký của Đức Giáo Hoàng danh dự Joseph Ratzinger và Đức Hồng Y Robert Sarah, tổng trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, sẽ được phát hành tại Pháp vào ngày 15 tháng Giêng. Các tài liệu trước khi xuất bản được công bố trên tờ Le Figaro cho thấy với sự đóng góp của hai vị, các tác giả đang tham gia vào cuộc tranh luận về luật độc thân và khả năng phong chức linh mục cho những người nam đã kết hôn. Đức Ratzinger và Đức Hồng Y Sarah đã mô tả mình là hai Giám Mục “trong sự vâng phục con thảo đối với Đức Thánh Cha Phanxicô” và là những người “đang tìm kiếm sự thật” trong “một tinh thần quý chuộng sự hiệp nhất của Giáo Hội”. Các ngài bảo vệ kỷ luật độc thân linh mục và đưa ra những lý do mà các ngài cảm thấy cần phải chống lại các đề nghị thay đổi luật này. Vấn đề liên quan đến về luật độc thân linh mục chiếm 175 trang của cuốn sách, với hai văn bản - từ Đức Giáo Hoàng danh dự và từ Đức Hồng Y - cùng với lời giới thiệu và kết luận được ký bởi cả hai vị.
Trong văn bản của mình, Đức Hồng Y Sarah nhắc nhớ rằng “có một liên kết bản thể học-bí tích giữa chức tư tế và luật độc thân linh mục. Bất kỳ sự suy yếu nào của liên kết này sẽ đặt ra vấn nạn về Huấn Quyền của Công đồng [Vatican thứ hai] và các Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI. Tôi khẩn cầu Đức Thánh Cha Phanxicô quyết liệt bảo vệ chúng ta khỏi một khả năng như vậy bằng cách phủ quyết bất kỳ cố gắng làm suy yếu luật độc thân linh mục, ngay cả khi điều đó chỉ giới hạn trong một khu vực”. Hơn nữa, Đức Hồng Y Sarah đi xa đến mức mô tả khả năng phong chức cho người nam đã lập gia đình như “một thảm họa mục vụ, một sự lầm lạc giáo hội học và là một trở ngại cho sự hiểu biết về chức tư tế”. Trong đóng góp ngắn gọn của mình, Đức Bênêđictô XVI phản ánh về đề tài này bằng cách truy ngược lại những gốc rễ Do Thái giáo của Kitô giáo, và khẳng định rằng từ khi bắt đầu “giao ước mới” của Thiên Chúa với nhân loại, được thiết lập bởi Chúa Giêsu, chức tư tế và lối sống độc thân luôn hiệp nhất với nhau. Ngài nhắc nhớ rằng “trong Giáo Hội tiên khởi”, nghĩa là, Giáo Hội trong thiên niên kỷ đầu tiên, “những người đàn ông đã lập gia đình có thể nhận được Bí Tích Truyền Chức Thánh chỉ khi nào họ cam kết tiết dục hoàn toàn”.
Luật độc thân linh mục không phải, và chưa bao giờ là một tín lý. Đó là một kỷ luật của Giáo hội Latinh tiêu biểu cho một hồng ân quý giá, như tất cả các vị Giáo Hoàng gần đây đã khẳng định. Các Giáo Hội Công Giáo Đông phương cho phép khả năng phong chức linh mục cho những người đàn ông đã có vợ. Các ngoại lệ cũng đã được thừa nhận trong Giáo Hội Latinh bởi chính Đức Bênêđíctô XVI trong Tông Hiến Anglicanorum Coetibus, dành cho các linh mục Anh giáo muốn tìm kiếm sự hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, trong đó cho phép “nhận vào hàng giáo sĩ những người nam có gia đình trên cơ sở từng trường hợp một, theo tiêu chuẩn khách quan được Tòa Thánh chuẩn y”.
Cũng đáng nhớ lại rằng Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã nhiều lần trình bày ý kiến của ngài về chủ đề này. Khi còn là một Hồng Y, trong cuốn sách kể lại cuộc trò chuyện với Rabbi Abraham Skorka, ngài giải thích rằng ngài ủng hộ việc duy trì luật độc thân: “trước tất cả những ủng hộ và chống đối có liên quan, trong hàng chục thế kỷ có nhiều kinh nghiệm tích cực hơn những khuyết điểm. Truyền thống này có trọng lượng và giá trị pháp lý”. Trong cuộc gặp gỡ các nhà báo trên chuyến bay trở về từ Panama hồi tháng Giêng năm ngoái, Đức Giáo Hoàng nhắc lại rằng trong các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, vị linh mục tương lai có thể lựa chọn độc thân hoặc kết hôn trước khi được phong chức phó tế; nhưng liên quan đến Giáo Hội Latinh, ngài nói thêm “Tôi nhớ lại câu Thánh Phaolô Đệ Lục đã nói: 'Tôi thà hy sinh mạng sống của mình hơn là thay đổi luật độc thân linh mục. Nó ập đến trong trí tôi và tôi muốn nói điều đó, bởi vì đó là một lời can đảm, trong một thời điểm khó khăn hơn thế này, vào những năm 1968/1970. .. Cá nhân tôi nghĩ rằng độc thân linh mục là một ân sủng cho Giáo hội. Thứ hai, tôi không đồng ý với việc cho phép độc thân tùy chọn, không.” Ngài cũng nói về các cuộc thảo luận giữa các nhà thần học về khả năng miễn trừ đối với một số vùng sâu vùng xa, chẳng hạn như các đảo ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, ngài khẳng định “không có quyết định về phần tôi. Quyết định của tôi là: độc thân tùy chọn trước khi được phong phó tế, không. Đó là một quyết định riêng tôi, một cái gì đó cá nhân, tôi sẽ không làm điều đó, điều này vẫn rõ ràng. Tôi có ‘đóng kín’ không? Có thể là thế. Nhưng tôi không muốn xuất hiện trước mặt Thiên Chúa với quyết định này”.
Thượng Hội Đồng về vùng Amazon được tổ chức vào tháng 10 năm 2019 và chủ đề này đã được tranh luận ở đó. Như có thể thấy từ tài liệu cuối cùng, có những giám mục đã yêu cầu khả năng phong chức linh mục cho các phó tế vĩnh viễn có gia đình. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là vào ngày 26 tháng 10, trong bài phát biểu kết luận của mình, Đức Giáo Hoàng, sau khi đã theo dõi tất cả các giai đoạn của các bài phát biểu và thảo luận trong hội trường, đã không đề cập chút nào đến chủ đề phong chức linh mục cho người nam đã kết hôn, dù chỉ thoáng qua. Thay vào đó, ngài nhắc lại bốn chiều kích của Thượng hội đồng: đó là sự hội nhập; những chiều kích sinh thái; những chiều kích xã hội; và cuối cùng những chiều kích mục vụ, là điều “bao gồm tất cả”. Cũng trong bài phát biểu đó, Đức Thánh Cha đã nói về khả năng tạo ra các thừa tác vụ mới và vai trò của phụ nữ; và đề cập đến tình trạng khan hiếm giáo sĩ trong những miền truyền giáo nhất định, ngài nhắc nhớ rằng có rất nhiều linh mục từ một nước nào đó đã đến các quốc gia thuộc Thế giới thứ nhất, như Hoa Kỳ và Châu Âu, trong khi lại “không có đủ linh mục để gửi đến khu vực Amazon của cùng quốc gia đó”.
Cuối cùng, điều quan trọng là Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong khi cảm ơn các phương tiện truyền thông, đã đồng thời cũng yêu cầu họ giúp đỡ: “trong việc phổ biến Tài liệu chung kết, họ sẽ tập trung trên hết vào phần phán đoán, là phần quan trọng hơn, và là phần mà Thượng hội đồng thực sự diễn tả tốt nhất: đó là các phán đoán về văn hóa, xã hội, mục vụ và sinh thái. Sau đó, Đức Giáo Hoàng đã mời gọi họ tránh rơi vào nguy cơ tập trung vào việc “bên nào thắng và bên nào thua” khi nhìn vào những gì được quyết định liên quan đến các vấn đề kỷ luật.
Source:Vatican NewsA contribution on priestly celibacy in filial obedience to the Pope
Theo cha Joseph Fessio, sáng lập viên và là chủ biên của Ignatius Press là nhà xuất bản phiên bản tiếng Anh của cuốn sách này, Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Robert Sarah quyết liệt chống lại việc bãi bỏ luật độc thân linh mục. Các tác giả “nhấn mạnh rằng việc canh tân Giáo Hội đòi buộc một sự hiểu biết mới mẻ về ơn gọi linh mục như một chia sẻ trong căn tính tư tế của Chúa Giêsu dành cho Hiền Thê Giáo Hội”, và “các ngài khẳng định rằng khi các linh mục được tùy chọn sống độc thân hay không thì lúc đó chức linh mục không còn là một chức tư tế đích thực nữa.”
Ngoài luật độc thân linh mục, hai vị còn đề cập đến bản chất của Giáo Hội và bản chất tình môn đệ Kitô giáo để khẳng định rằng cuộc khủng hoảng Giáo Hội đang phải đối diện xuất phát từ cố gắng muốn thích ứng với văn hóa đương đại và từ bỏ những giáo huấn về đức tin.
Các báo cáo trên các phương tiện truyền thông thế tục, trong bối cảnh chỉ mới có các trích đoạn của phiên bản tiếng Pháp của cuốn sách được công bố trên tờ Le Figaro có thể dẫn đến ý kiến cho rằng có sự mâu thuẫn gay gắt giữa Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 và Đức Thánh Cha Phanxicô về luật độc thân linh mục, cũng như có những khác biệt trong đánh giá của hai vị về cuộc khủng hoảng hiện nay trong Giáo Hội.
Trong cố gắng dập tắt điều này, ông Andrea Tornielli, chủ biên Vatican News, đã có bài nhận định cho rằng cuốn sách của Đức Bênêđíctô và Đức Hồng Y Robert Sarah là “một đóng góp về luật độc thân linh mục trong sự vâng phục hiếu thảo với Đức Thánh Cha,” và luật độc thân linh mục là “một chủ đề đã được Đức Thánh Cha Phanxicô trình bày nhiều lần.”
Ông Andrea Tornielli viết như sau:
Một cuốn sách về chức tư tế có chữ ký của Đức Giáo Hoàng danh dự Joseph Ratzinger và Đức Hồng Y Robert Sarah, tổng trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, sẽ được phát hành tại Pháp vào ngày 15 tháng Giêng. Các tài liệu trước khi xuất bản được công bố trên tờ Le Figaro cho thấy với sự đóng góp của hai vị, các tác giả đang tham gia vào cuộc tranh luận về luật độc thân và khả năng phong chức linh mục cho những người nam đã kết hôn. Đức Ratzinger và Đức Hồng Y Sarah đã mô tả mình là hai Giám Mục “trong sự vâng phục con thảo đối với Đức Thánh Cha Phanxicô” và là những người “đang tìm kiếm sự thật” trong “một tinh thần quý chuộng sự hiệp nhất của Giáo Hội”. Các ngài bảo vệ kỷ luật độc thân linh mục và đưa ra những lý do mà các ngài cảm thấy cần phải chống lại các đề nghị thay đổi luật này. Vấn đề liên quan đến về luật độc thân linh mục chiếm 175 trang của cuốn sách, với hai văn bản - từ Đức Giáo Hoàng danh dự và từ Đức Hồng Y - cùng với lời giới thiệu và kết luận được ký bởi cả hai vị.
Trong văn bản của mình, Đức Hồng Y Sarah nhắc nhớ rằng “có một liên kết bản thể học-bí tích giữa chức tư tế và luật độc thân linh mục. Bất kỳ sự suy yếu nào của liên kết này sẽ đặt ra vấn nạn về Huấn Quyền của Công đồng [Vatican thứ hai] và các Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI. Tôi khẩn cầu Đức Thánh Cha Phanxicô quyết liệt bảo vệ chúng ta khỏi một khả năng như vậy bằng cách phủ quyết bất kỳ cố gắng làm suy yếu luật độc thân linh mục, ngay cả khi điều đó chỉ giới hạn trong một khu vực”. Hơn nữa, Đức Hồng Y Sarah đi xa đến mức mô tả khả năng phong chức cho người nam đã lập gia đình như “một thảm họa mục vụ, một sự lầm lạc giáo hội học và là một trở ngại cho sự hiểu biết về chức tư tế”. Trong đóng góp ngắn gọn của mình, Đức Bênêđictô XVI phản ánh về đề tài này bằng cách truy ngược lại những gốc rễ Do Thái giáo của Kitô giáo, và khẳng định rằng từ khi bắt đầu “giao ước mới” của Thiên Chúa với nhân loại, được thiết lập bởi Chúa Giêsu, chức tư tế và lối sống độc thân luôn hiệp nhất với nhau. Ngài nhắc nhớ rằng “trong Giáo Hội tiên khởi”, nghĩa là, Giáo Hội trong thiên niên kỷ đầu tiên, “những người đàn ông đã lập gia đình có thể nhận được Bí Tích Truyền Chức Thánh chỉ khi nào họ cam kết tiết dục hoàn toàn”.
Luật độc thân linh mục không phải, và chưa bao giờ là một tín lý. Đó là một kỷ luật của Giáo hội Latinh tiêu biểu cho một hồng ân quý giá, như tất cả các vị Giáo Hoàng gần đây đã khẳng định. Các Giáo Hội Công Giáo Đông phương cho phép khả năng phong chức linh mục cho những người đàn ông đã có vợ. Các ngoại lệ cũng đã được thừa nhận trong Giáo Hội Latinh bởi chính Đức Bênêđíctô XVI trong Tông Hiến Anglicanorum Coetibus, dành cho các linh mục Anh giáo muốn tìm kiếm sự hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, trong đó cho phép “nhận vào hàng giáo sĩ những người nam có gia đình trên cơ sở từng trường hợp một, theo tiêu chuẩn khách quan được Tòa Thánh chuẩn y”.
Cũng đáng nhớ lại rằng Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã nhiều lần trình bày ý kiến của ngài về chủ đề này. Khi còn là một Hồng Y, trong cuốn sách kể lại cuộc trò chuyện với Rabbi Abraham Skorka, ngài giải thích rằng ngài ủng hộ việc duy trì luật độc thân: “trước tất cả những ủng hộ và chống đối có liên quan, trong hàng chục thế kỷ có nhiều kinh nghiệm tích cực hơn những khuyết điểm. Truyền thống này có trọng lượng và giá trị pháp lý”. Trong cuộc gặp gỡ các nhà báo trên chuyến bay trở về từ Panama hồi tháng Giêng năm ngoái, Đức Giáo Hoàng nhắc lại rằng trong các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, vị linh mục tương lai có thể lựa chọn độc thân hoặc kết hôn trước khi được phong chức phó tế; nhưng liên quan đến Giáo Hội Latinh, ngài nói thêm “Tôi nhớ lại câu Thánh Phaolô Đệ Lục đã nói: 'Tôi thà hy sinh mạng sống của mình hơn là thay đổi luật độc thân linh mục. Nó ập đến trong trí tôi và tôi muốn nói điều đó, bởi vì đó là một lời can đảm, trong một thời điểm khó khăn hơn thế này, vào những năm 1968/1970. .. Cá nhân tôi nghĩ rằng độc thân linh mục là một ân sủng cho Giáo hội. Thứ hai, tôi không đồng ý với việc cho phép độc thân tùy chọn, không.” Ngài cũng nói về các cuộc thảo luận giữa các nhà thần học về khả năng miễn trừ đối với một số vùng sâu vùng xa, chẳng hạn như các đảo ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, ngài khẳng định “không có quyết định về phần tôi. Quyết định của tôi là: độc thân tùy chọn trước khi được phong phó tế, không. Đó là một quyết định riêng tôi, một cái gì đó cá nhân, tôi sẽ không làm điều đó, điều này vẫn rõ ràng. Tôi có ‘đóng kín’ không? Có thể là thế. Nhưng tôi không muốn xuất hiện trước mặt Thiên Chúa với quyết định này”.
Thượng Hội Đồng về vùng Amazon được tổ chức vào tháng 10 năm 2019 và chủ đề này đã được tranh luận ở đó. Như có thể thấy từ tài liệu cuối cùng, có những giám mục đã yêu cầu khả năng phong chức linh mục cho các phó tế vĩnh viễn có gia đình. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là vào ngày 26 tháng 10, trong bài phát biểu kết luận của mình, Đức Giáo Hoàng, sau khi đã theo dõi tất cả các giai đoạn của các bài phát biểu và thảo luận trong hội trường, đã không đề cập chút nào đến chủ đề phong chức linh mục cho người nam đã kết hôn, dù chỉ thoáng qua. Thay vào đó, ngài nhắc lại bốn chiều kích của Thượng hội đồng: đó là sự hội nhập; những chiều kích sinh thái; những chiều kích xã hội; và cuối cùng những chiều kích mục vụ, là điều “bao gồm tất cả”. Cũng trong bài phát biểu đó, Đức Thánh Cha đã nói về khả năng tạo ra các thừa tác vụ mới và vai trò của phụ nữ; và đề cập đến tình trạng khan hiếm giáo sĩ trong những miền truyền giáo nhất định, ngài nhắc nhớ rằng có rất nhiều linh mục từ một nước nào đó đã đến các quốc gia thuộc Thế giới thứ nhất, như Hoa Kỳ và Châu Âu, trong khi lại “không có đủ linh mục để gửi đến khu vực Amazon của cùng quốc gia đó”.
Cuối cùng, điều quan trọng là Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong khi cảm ơn các phương tiện truyền thông, đã đồng thời cũng yêu cầu họ giúp đỡ: “trong việc phổ biến Tài liệu chung kết, họ sẽ tập trung trên hết vào phần phán đoán, là phần quan trọng hơn, và là phần mà Thượng hội đồng thực sự diễn tả tốt nhất: đó là các phán đoán về văn hóa, xã hội, mục vụ và sinh thái. Sau đó, Đức Giáo Hoàng đã mời gọi họ tránh rơi vào nguy cơ tập trung vào việc “bên nào thắng và bên nào thua” khi nhìn vào những gì được quyết định liên quan đến các vấn đề kỷ luật.
Source:Vatican News
Cái luật quái gở...
Thanh Quảng sdb
22:39 13/01/2020
Cái luật quái gở
Chính phủ Tiểu bang Victoria thông qua Đạo luật cho phép người chuyển giới thay đổi giới tính trong giấy khai sinh mà không cần phẫu thuật
Tiểu bang Victoria đã trở thành tiểu bang hoặc lãnh thổ thứ năm của nước Úc cho phép thay đổi giới tính trong giấy khai sinh mà không cần phẫu thuật để giống trai hay gái...
Dự luật này đã được thông qua với số phiếu 26/14 tại Thượng viện Victoria đêm qua (13/1/20) và nó sẽ trở thành luật khi được hoàng gia Anh châu phê.
Bộ trưởng về sự Bình đẳng, ông Martin Foley cho hay luật mới nhằm đảm bảo cho những người ở Tiểu bang Victoria được quyền bình đẳng và họ có quyền quyết định họ là ai…
Các Tiểu bang hay lãnh thổ đã thông qua đạo luật này là các Tiểu bang: Victoria cùng Tasmania, Nam Úc và hai Lãnh thổ Bắc Úc và Thủ đô (ACT).
Dù dự luật không được đa số các nghị viên của đảng Tự do hỗ trợ, nhưng dự luật đã được thông qua: giới tính của những người trưởng thành sẽ được sữa trong giấy khai sinh dù việc nhận dạng bề ngoài nam hay nữ không nhất thiết được nhận dạng vì đó là một ý niệm khác...
Từ nay các phòng vệ sinh công cộng sẽ được thay đổi bảng hiệu là nhà vệ sinh hay thay đồ chung cho á nam á nữ!?!
(Tin ký giả Marnie Banger của Hãng AAP trong News.COM.AU)
Chính phủ Tiểu bang Victoria thông qua Đạo luật cho phép người chuyển giới thay đổi giới tính trong giấy khai sinh mà không cần phẫu thuật
Tiểu bang Victoria đã trở thành tiểu bang hoặc lãnh thổ thứ năm của nước Úc cho phép thay đổi giới tính trong giấy khai sinh mà không cần phẫu thuật để giống trai hay gái...
Dự luật này đã được thông qua với số phiếu 26/14 tại Thượng viện Victoria đêm qua (13/1/20) và nó sẽ trở thành luật khi được hoàng gia Anh châu phê.
Bộ trưởng về sự Bình đẳng, ông Martin Foley cho hay luật mới nhằm đảm bảo cho những người ở Tiểu bang Victoria được quyền bình đẳng và họ có quyền quyết định họ là ai…
Các Tiểu bang hay lãnh thổ đã thông qua đạo luật này là các Tiểu bang: Victoria cùng Tasmania, Nam Úc và hai Lãnh thổ Bắc Úc và Thủ đô (ACT).
Dù dự luật không được đa số các nghị viên của đảng Tự do hỗ trợ, nhưng dự luật đã được thông qua: giới tính của những người trưởng thành sẽ được sữa trong giấy khai sinh dù việc nhận dạng bề ngoài nam hay nữ không nhất thiết được nhận dạng vì đó là một ý niệm khác...
Từ nay các phòng vệ sinh công cộng sẽ được thay đổi bảng hiệu là nhà vệ sinh hay thay đồ chung cho á nam á nữ!?!
(Tin ký giả Marnie Banger của Hãng AAP trong News.COM.AU)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hiệp Hội Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại Mừng Lễ Bổn Mạng
Kim Vân - Chu Văn Trào
10:36 13/01/2020
WGPSG -- “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng” (Mc 16, 15).
Hiệp hội Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại (Hiệp hội) đã chọn câu Lời Chúa trên đây làm chủ đề trong Thánh lễ tạ ơn nhân ngày lễ bổn mạng của Hiệp hội, diễn ra lúc 09g thứ Bảy, ngày 11.01.2020 tại nhà thờ Đắc Lộ, giáo hạt Tân Sơn Nhì.
Thánh lễ trọng thể do Lm Louis Bertrand Cao Đức Thuận, SSP - Tổng Phụ trách Hiệp hội chủ tế. Đồng tế với ngài có Lm Phêrô Nguyễn Văn Phương - Phó Tổng Phụ trách Hiệp hội, Lm Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP - Phụ tá Giám tỉnh Tỉnh dòng Đaminh Việt Nam; Lm Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Nhứt, OP - Linh hướng Hiệp Hội, Lm Giuse Phạm Quốc Văn, OP - Giám đốc Học viện Phaolô Nguyễn Văn Bình, cùng 12 Lm triều và dòng.
Xem Hình
Đến hiệp dâng Thánh lễ, ngoài quý thầy trong Hiệp hội, quý tu sĩ nam nữ, còn có quý ông bà cố, quý ân nhân, thân nhân, quý khách mời và đông đảo cộng đoàn dân Chúa.
Mở đầu Thánh lễ, Lm Louis Bertrand tâm tình: “Hiệp hội Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại là một Hiệp hội Giáo sĩ Truyền giáo, đó cũng là một sứ vụ cao cả mà tất cả tu sĩ trong Hiệp hội sẵn sàng vững bước trên con đường chiến thắng như Chúa Kitô. Hôm nay mừng lễ bổn mạng của Hiệp hội, là dịp tốt để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đến quý cha, quý ân nhân và quý khách.
Kế đến, trong bài giảng, từ Lời Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15), Lm Vinh Sơn chia sẻ: “Thời Giáo hội sơ khai, vì những người được đón nhận Tin Mừng Chúa Giêsu còn rất ít, và khi Thánh Phaolô trở lại, ngài đã ý thức rằng: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” thì công cuộc loan báo Tin Mừng được Giáo hội quan tâm và gặp nhiều khó khăn và cam go. Ngày nay cũng vậy, mỗi lần chúng ta được Hội Thánh kêu gọi ra đi loan báo Tin Mừng, chúng ta vẫn sợ khó khăn. Thế nhưng, đó lệnh truyền của Chúa và là phẩm chất của Giáo hội cho đến ngày sau hết”.
Kết luận, ngài nhấn mạnh: “Chúng ta mừng lễ Thánh Phaolô hôm nay, bổn mạng của Hiệp hội. Chúng ta tạ ơn Chúa vì đã làm nhiều điều mới mẻ, mở ra chặng đường mới cho Thánh Phaolô, cho Hội Thánh thời sơ khai và ngày nay, cách riêng là cho Hiệp hội. Khi chúng ta chọn Thánh nhân làm gương mẫu cho sứ mạng và ơn gọi của mình, thì Hiệp hội là các thầy đây, cũng sẽ được trở nên sinh động, mới mẻ, tràn đầy sự sống để đón nhận sứ vụ truyền giáo của Giáo hội hôm nay và mãi mãi”.
Thánh lễ nối tiếp với lời nguyện chung và phụng vụ Thánh Thể.
Sau lời nguyện hiệp lễ, thay mặt Hiệp hội, thầy Giuse Vinh Sơn Nguyễn Ngọc Biển, SSP -Tổng Thư ký Hiệp hội- có lời cảm ơn và chúc tết đến quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý ông bà cố, quý ân nhân, thân nhân và cộng đoàn hiện diện.
Thánh lễ kết thúc vào lúc 10g30. Sau khi chụp hình lưu niệm, mọi người tham dự buổi liên hoan tại khuôn viên nhà thờ.
Nguồn: https://tgpsaigon.net
Bài viết và hình ảnh: Kim Vân - Chu Văn Trào
Hiệp hội Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại (Hiệp hội) đã chọn câu Lời Chúa trên đây làm chủ đề trong Thánh lễ tạ ơn nhân ngày lễ bổn mạng của Hiệp hội, diễn ra lúc 09g thứ Bảy, ngày 11.01.2020 tại nhà thờ Đắc Lộ, giáo hạt Tân Sơn Nhì.
Thánh lễ trọng thể do Lm Louis Bertrand Cao Đức Thuận, SSP - Tổng Phụ trách Hiệp hội chủ tế. Đồng tế với ngài có Lm Phêrô Nguyễn Văn Phương - Phó Tổng Phụ trách Hiệp hội, Lm Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP - Phụ tá Giám tỉnh Tỉnh dòng Đaminh Việt Nam; Lm Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Nhứt, OP - Linh hướng Hiệp Hội, Lm Giuse Phạm Quốc Văn, OP - Giám đốc Học viện Phaolô Nguyễn Văn Bình, cùng 12 Lm triều và dòng.
Xem Hình
Đến hiệp dâng Thánh lễ, ngoài quý thầy trong Hiệp hội, quý tu sĩ nam nữ, còn có quý ông bà cố, quý ân nhân, thân nhân, quý khách mời và đông đảo cộng đoàn dân Chúa.
Mở đầu Thánh lễ, Lm Louis Bertrand tâm tình: “Hiệp hội Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại là một Hiệp hội Giáo sĩ Truyền giáo, đó cũng là một sứ vụ cao cả mà tất cả tu sĩ trong Hiệp hội sẵn sàng vững bước trên con đường chiến thắng như Chúa Kitô. Hôm nay mừng lễ bổn mạng của Hiệp hội, là dịp tốt để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đến quý cha, quý ân nhân và quý khách.
Kế đến, trong bài giảng, từ Lời Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15), Lm Vinh Sơn chia sẻ: “Thời Giáo hội sơ khai, vì những người được đón nhận Tin Mừng Chúa Giêsu còn rất ít, và khi Thánh Phaolô trở lại, ngài đã ý thức rằng: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” thì công cuộc loan báo Tin Mừng được Giáo hội quan tâm và gặp nhiều khó khăn và cam go. Ngày nay cũng vậy, mỗi lần chúng ta được Hội Thánh kêu gọi ra đi loan báo Tin Mừng, chúng ta vẫn sợ khó khăn. Thế nhưng, đó lệnh truyền của Chúa và là phẩm chất của Giáo hội cho đến ngày sau hết”.
Kết luận, ngài nhấn mạnh: “Chúng ta mừng lễ Thánh Phaolô hôm nay, bổn mạng của Hiệp hội. Chúng ta tạ ơn Chúa vì đã làm nhiều điều mới mẻ, mở ra chặng đường mới cho Thánh Phaolô, cho Hội Thánh thời sơ khai và ngày nay, cách riêng là cho Hiệp hội. Khi chúng ta chọn Thánh nhân làm gương mẫu cho sứ mạng và ơn gọi của mình, thì Hiệp hội là các thầy đây, cũng sẽ được trở nên sinh động, mới mẻ, tràn đầy sự sống để đón nhận sứ vụ truyền giáo của Giáo hội hôm nay và mãi mãi”.
Thánh lễ nối tiếp với lời nguyện chung và phụng vụ Thánh Thể.
Sau lời nguyện hiệp lễ, thay mặt Hiệp hội, thầy Giuse Vinh Sơn Nguyễn Ngọc Biển, SSP -Tổng Thư ký Hiệp hội- có lời cảm ơn và chúc tết đến quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý ông bà cố, quý ân nhân, thân nhân và cộng đoàn hiện diện.
Thánh lễ kết thúc vào lúc 10g30. Sau khi chụp hình lưu niệm, mọi người tham dự buổi liên hoan tại khuôn viên nhà thờ.
Nguồn: https://tgpsaigon.net
Bài viết và hình ảnh: Kim Vân - Chu Văn Trào
VietCatholic TV
Đón nhận những kẻ chìm thuyền trong lịch sử - Bài giảng hay của Đức Thánh Cha Phanxicô
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:49 13/01/2020
Trong Bài Giáo Lý thứ 19 về sách Tông Đồ Công Vụ, chương 27, hôm thứ tư 08/01/2020, trong đại thính đường Phaolô Đệ Lục của Vatican, trước sự hiện diện của hàng ngàn khách hành hương và du khách, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh: “dù trong thử thách, thánh Phaolô không ngừng là người canh giữ sự sống của những người khác và là người làm sống lại hy vọng của họ”.
“Tình yêu luôn sung mãn”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên khi bình luận vụ chìm thuyền của thánh Phaolô trên con thuyền phải đưa ngài tới Rôma, như tù nhân bị đày của Césarée. Ngài lưu ý chuyện thánh Phaolô biến đổi “một tình trạng thất sủng” thành cơ hội quan phòng để loan báo Phúc Âm, Đức Thánh Cha đã giảng tiếp: “nếu bạn để được Chúa chiếm lấy và nếu bạn nhận được những ân sủng của Chúa, điều đó sẽ giúp bạn cho lại cho những người khác. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi xa hơn”.
Mở đầu bài huấn đức, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến!
Sách Tông Đồ Công Vụ trong phần cuối, kể rằng Phúc Âm tiếp tục cuộc hành trình không chỉ trên bộ, mà còn trên biển, trên tầu thuyền đưa thánh Phaolô, tù nhân của thành Césarée, đi tới Rôma (x.Cv 27,1-28,16), nơi trái tim của Đế Quốc, để Lời của Đấng Phục Sinh được thực hiện: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất “(Cv 1,8). Quý Anh Chị Em hãy đọc sách Tông Đồ Công Vụ và Quý Anh Chị Em sẽ thấy bằng cách nào, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Phúc Âm đến với tất cả các dân tộc, trở thành phổ quát. Quý Anh Chị Em hãy cầm lấy sách! Hãy đọc sách đó!
Ngay từ lúc đầu, sự ra khơi đã phải đương đầu với những điều kiện bất lợi. Chuyến đi trở nên nguy hiểm. Thánh Phaolô khuyên đừng tiếp tục ra khơi, nhưng viên đại đội trưởng đã không thèm đếm xỉa và tin tưởng vào tên tài công và người chủ thuyền. Chuyến đi tiếp tục và một cơn cuồng phong đã đổ xuống, đến độ thuỷ thủ đoàn mất kiểm soát và để mặc cho chiếc thuyền trôi giạt.
Trong lúc mà thần chết dường như từ nay đã tới gần và sự thất vọng xâm chiếm mọi người, thánh Phaolô đã can thiệp và trấn an các bạn đồng hành của ngài bằng cách nói lên những điều chúng ta đã nghe: “Đêm vừa rồi […] một thiên sứ của Thiên Chúa là Chúa Tể của tôi và là Đấng tôi phụng thờ, đã hiện ra với tôi và bảo: ‘‘Này ông Phaolô, đừng sợ! Ông phải ra trước tòa hoàng đế César; vì thương ông, Thiên Chúa cho tất cả những người cùng đi tàu với ông được sống’’ (Cv 27, 23-24). Dù trong thử thách, thánh Phaolô không ngừng là người canh giữ sự sống của những người khác và đấng làm sống lại niềm hy vọng của họ.
Như thế, thánh Luca cho chúng ta thấy rằng kế hoạch hướng dẫn thánh Phaolô đi tới Rôma đã che chở không chỉ thánh tông đồ, mà còn cả những bạn đồng hành và đồng hoạn nạn, vốn là một tình trạng thất sủng, đã biến thành cơ hội quan phòng để loan báo Phúc Âm.
Vụ đắm thuyền được tiếp nối bởi sự đổ bộ lên đảo Malta, nơi mà dân chúng thể hiện một sự đón tiếp vồn vã. Người đảo Malta can đảm, họ hiền lành, họ niềm nở đón tiếp, họ đã như thế từ thời đó. Trời mưa và lạnh, và họ đã đốt một đống lửa lớn để bảo đảm cho những nạn nhân đắm thuyền được một chút ấm áp và an ủi.
Ở đây cũng thế, như người môn đệ đích thực của Đức Kitô, thánh Phaolô đã phục vụ để thêm cành khô cho lửa cháy tốt. Trong khi làm chuyện đó, ngài bị một con rắn độc cắn, nhưng ngài không bị gì cả; thoạt đầu nhìn thấy chuyện này, dân chúng nói rằng: “Người này chắc là một kẻ đại ác vì hắn vừa được cứu khỏi chết chìm thì lại bị con rắn độc cắn! “Họ chờ đợi một lúc xem ngài có lăn ra chết không, nhưng ngài không hề hấn gì và lúc đó thiên hạ lại coi ngài ngay như một vị thần thay vì một kẻ đại gian đại ác. Trên thực tế, sự tốt lành này đến từ Chúa Phục Sinh đã phù trợ ngài, theo lời hứa trước khi Người về trời được phán ra với các tín hữu: “Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao; và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe “(Mc 16,18). Lịch sử nói rằng, từ lúc đó, trên đảo Malta đã không còn có rắn độc: đó là sự chúc lành của Thiên Chúa vì sự đón tiếp của dân tộc nhân hậu này.
Thực chất, đối với thánh Phaolô, chuỗi ngày tại Malta trở thành một cơ hội thuận lợi để “nhập thể “cho lời nói mà ngài loan báo và thi hành một sứ vụ thương cảm trong việc chữa lành các bệnh tật. Và đó là một lề luật của Phúc Âm: khi một tín hữu trải nghiệm ơn cứu độ, người đó không giữ riêng cho mình, mà người đó làm cho ơn đó luân chuyển. “Điều thiện luôn có xu hướng thông truyền. Mọi trải nghiệm về sự thật và vẻ đẹp đều tìm cách lan tỏa, và mọi người đã trải nghiệm một sự giải thoát sâu đậm đều có được một sự mẫn cảm lớn lao trước những nhu cầu của người khác” (Tông Huấn Evangelii gaudium, 9). Một người Kitô hữu “đã được thử thách” chắc chắn có thể trở thành gần gũi hơn với kẻ đang đau khổ bởi vì người đó biết rõ đau khổ là thế nào và làm cho tấm lòng cởi mở và nhậy cảm với sự liên đới đối với những người khác.
Thánh Phaolô dạy cho chúng ta trải nghiệm những thử thách bằng cách ôm chặt lấy Chúa Kitô, để cho chín muồi “sự xác tín của chúng ta rằng Thiên Chúa có thể tác động trong mọi hoàn cảnh, kể cả giữa những thất bại bề ngoài hiển nhiên” và “sự khẳng định rằng người tự hiến mình cho Thiên Chúa vì tình yêu, chắc chắc sẽ sung mãn” (ibid., 279). Tình yêu luôn sung mãn, tình yêu của Thiên Chúa luôn sung mãn và, nếu bạn để được Chúa chiếm lấy và nếu bạn nhận được những ân sủng của Chúa, điều đó sẽ giúp bạn cho lại cho những người khác. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi xa hơn.
Ngày hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa phù giúp chúng ta trải nghiệm mọi thử thách được nâng đỡ bởi năng lực của đức tin chúng ta và được mẫn cảm trước tất cả những nạn nhân của các vụ chìm thuyền của lịch sử đã đổ bộ, bị kiệt sức, trên những bờ biển của chúng ta, để chúng ta cũng biết đón tiếp họ với tình huynh đệ xuất phát từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Chính điều đó cứu thoát khỏi sự đông lạnh của tính vô cảm và tính vô nhân.
“Tình yêu luôn sung mãn”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên khi bình luận vụ chìm thuyền của thánh Phaolô trên con thuyền phải đưa ngài tới Rôma, như tù nhân bị đày của Césarée. Ngài lưu ý chuyện thánh Phaolô biến đổi “một tình trạng thất sủng” thành cơ hội quan phòng để loan báo Phúc Âm, Đức Thánh Cha đã giảng tiếp: “nếu bạn để được Chúa chiếm lấy và nếu bạn nhận được những ân sủng của Chúa, điều đó sẽ giúp bạn cho lại cho những người khác. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi xa hơn”.
Mở đầu bài huấn đức, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến!
Sách Tông Đồ Công Vụ trong phần cuối, kể rằng Phúc Âm tiếp tục cuộc hành trình không chỉ trên bộ, mà còn trên biển, trên tầu thuyền đưa thánh Phaolô, tù nhân của thành Césarée, đi tới Rôma (x.Cv 27,1-28,16), nơi trái tim của Đế Quốc, để Lời của Đấng Phục Sinh được thực hiện: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất “(Cv 1,8). Quý Anh Chị Em hãy đọc sách Tông Đồ Công Vụ và Quý Anh Chị Em sẽ thấy bằng cách nào, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Phúc Âm đến với tất cả các dân tộc, trở thành phổ quát. Quý Anh Chị Em hãy cầm lấy sách! Hãy đọc sách đó!
Ngay từ lúc đầu, sự ra khơi đã phải đương đầu với những điều kiện bất lợi. Chuyến đi trở nên nguy hiểm. Thánh Phaolô khuyên đừng tiếp tục ra khơi, nhưng viên đại đội trưởng đã không thèm đếm xỉa và tin tưởng vào tên tài công và người chủ thuyền. Chuyến đi tiếp tục và một cơn cuồng phong đã đổ xuống, đến độ thuỷ thủ đoàn mất kiểm soát và để mặc cho chiếc thuyền trôi giạt.
Trong lúc mà thần chết dường như từ nay đã tới gần và sự thất vọng xâm chiếm mọi người, thánh Phaolô đã can thiệp và trấn an các bạn đồng hành của ngài bằng cách nói lên những điều chúng ta đã nghe: “Đêm vừa rồi […] một thiên sứ của Thiên Chúa là Chúa Tể của tôi và là Đấng tôi phụng thờ, đã hiện ra với tôi và bảo: ‘‘Này ông Phaolô, đừng sợ! Ông phải ra trước tòa hoàng đế César; vì thương ông, Thiên Chúa cho tất cả những người cùng đi tàu với ông được sống’’ (Cv 27, 23-24). Dù trong thử thách, thánh Phaolô không ngừng là người canh giữ sự sống của những người khác và đấng làm sống lại niềm hy vọng của họ.
Như thế, thánh Luca cho chúng ta thấy rằng kế hoạch hướng dẫn thánh Phaolô đi tới Rôma đã che chở không chỉ thánh tông đồ, mà còn cả những bạn đồng hành và đồng hoạn nạn, vốn là một tình trạng thất sủng, đã biến thành cơ hội quan phòng để loan báo Phúc Âm.
Vụ đắm thuyền được tiếp nối bởi sự đổ bộ lên đảo Malta, nơi mà dân chúng thể hiện một sự đón tiếp vồn vã. Người đảo Malta can đảm, họ hiền lành, họ niềm nở đón tiếp, họ đã như thế từ thời đó. Trời mưa và lạnh, và họ đã đốt một đống lửa lớn để bảo đảm cho những nạn nhân đắm thuyền được một chút ấm áp và an ủi.
Ở đây cũng thế, như người môn đệ đích thực của Đức Kitô, thánh Phaolô đã phục vụ để thêm cành khô cho lửa cháy tốt. Trong khi làm chuyện đó, ngài bị một con rắn độc cắn, nhưng ngài không bị gì cả; thoạt đầu nhìn thấy chuyện này, dân chúng nói rằng: “Người này chắc là một kẻ đại ác vì hắn vừa được cứu khỏi chết chìm thì lại bị con rắn độc cắn! “Họ chờ đợi một lúc xem ngài có lăn ra chết không, nhưng ngài không hề hấn gì và lúc đó thiên hạ lại coi ngài ngay như một vị thần thay vì một kẻ đại gian đại ác. Trên thực tế, sự tốt lành này đến từ Chúa Phục Sinh đã phù trợ ngài, theo lời hứa trước khi Người về trời được phán ra với các tín hữu: “Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao; và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe “(Mc 16,18). Lịch sử nói rằng, từ lúc đó, trên đảo Malta đã không còn có rắn độc: đó là sự chúc lành của Thiên Chúa vì sự đón tiếp của dân tộc nhân hậu này.
Thực chất, đối với thánh Phaolô, chuỗi ngày tại Malta trở thành một cơ hội thuận lợi để “nhập thể “cho lời nói mà ngài loan báo và thi hành một sứ vụ thương cảm trong việc chữa lành các bệnh tật. Và đó là một lề luật của Phúc Âm: khi một tín hữu trải nghiệm ơn cứu độ, người đó không giữ riêng cho mình, mà người đó làm cho ơn đó luân chuyển. “Điều thiện luôn có xu hướng thông truyền. Mọi trải nghiệm về sự thật và vẻ đẹp đều tìm cách lan tỏa, và mọi người đã trải nghiệm một sự giải thoát sâu đậm đều có được một sự mẫn cảm lớn lao trước những nhu cầu của người khác” (Tông Huấn Evangelii gaudium, 9). Một người Kitô hữu “đã được thử thách” chắc chắn có thể trở thành gần gũi hơn với kẻ đang đau khổ bởi vì người đó biết rõ đau khổ là thế nào và làm cho tấm lòng cởi mở và nhậy cảm với sự liên đới đối với những người khác.
Thánh Phaolô dạy cho chúng ta trải nghiệm những thử thách bằng cách ôm chặt lấy Chúa Kitô, để cho chín muồi “sự xác tín của chúng ta rằng Thiên Chúa có thể tác động trong mọi hoàn cảnh, kể cả giữa những thất bại bề ngoài hiển nhiên” và “sự khẳng định rằng người tự hiến mình cho Thiên Chúa vì tình yêu, chắc chắc sẽ sung mãn” (ibid., 279). Tình yêu luôn sung mãn, tình yêu của Thiên Chúa luôn sung mãn và, nếu bạn để được Chúa chiếm lấy và nếu bạn nhận được những ân sủng của Chúa, điều đó sẽ giúp bạn cho lại cho những người khác. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi xa hơn.
Ngày hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa phù giúp chúng ta trải nghiệm mọi thử thách được nâng đỡ bởi năng lực của đức tin chúng ta và được mẫn cảm trước tất cả những nạn nhân của các vụ chìm thuyền của lịch sử đã đổ bộ, bị kiệt sức, trên những bờ biển của chúng ta, để chúng ta cũng biết đón tiếp họ với tình huynh đệ xuất phát từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Chính điều đó cứu thoát khỏi sự đông lạnh của tính vô cảm và tính vô nhân.