Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:58 06/01/2019
27. BÁN RẺ BIỆT THỰ
Diêu Tam Lão là người giàu có nhất vùng Tam Nguyên đã mua một căn biệt thự, bên trong có hồ ao, đền đài, hòn non bộ, tất cả đều lấy những viên đá kỳ lạ ở trong hồ mà làm.
Một hôm, Vương Đại Si đến đó để du ngoạn và dừng lại nơi cái đình trên hồ uống rượu, rượu đến hồi phấn chấn thì hỏi chủ nhân:
- “Ngài mua cái biệt thự này hết bao nhiêu tiền ?”
Chủ nhân trả lời:
- “Một ngàn lượng bạc”.
Vương Đại Si nói:
- “Hai mươi năm trước tôi cũng đã uống rượu ngâm thơ ở nơi đây, chủ nhân lúc ấy nói với tôi là mua một vạn lượng bạc, ngài làm thế nào mà mua rẻ quá vậy ?”
Đào Tam Lão nói:
- “Vì để mua được nó mà tôi phải vận dụng rất nhiều trí não, phí rất nhiều nước bọt, con cháu nhà ấy chịu không nổi nên mới đem bán rẻ cho tôi đấy.”
Vương Đại Si cười nói:
- “Ngài có thể rút lấy đó làm bài học và khắc trên đá lời khuyên răn để khuyên con cháu đời sau, sau này nếu quá túng thiếu thì cũng không được bán rẻ.”
(Ứng hài lục)
Suy tư 27:
Hai mươi năm trước và hai mươi năm sau thì rất là không giống nhau, cho nên đừng lấy quá khứ hai mươi năm trước của anh em chị em để đoán xét việc làm hiện tại của họ, bởi vì quá khứ hai mươi năm đã như nắm mồ đầy cỏ hoang.
Có người đi đâu cũng chê người anh em của mình có một quá khứ không tốt làm hại sự tiến thân của họ, có người cứ “chăm chăm” ngó đến quá khứ của tha nhân mà không nhìn thấy hiện tại của họ như thế nào...
Đức Chúa Giê-su không nhìn thấy quá khứ của cô Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, Ngài cũng không nhìn thấy quá khứ của ông thánh Phê-rô, ông thánh Phao-lô hoặc là của anh trộm lành cùng bị đóng đinh với Ngài trên đồi Can-vê, nhưng Đức Chúa Giê-su chỉ nhìn cái hiện tại của các vị thánh ấy để tha thứ và để đón nhận vào trong Nước của Ngài.
Quá khứ thì rẻ như...hàng giả, cái hiện tại thì quý và đắt như viên ngọc trai, không ai thích thứ giả nhưng ai cũng thích thứ thiệt, Thiên Chúa thì càng thích cái đẹp cái thứ thiệt hơn, bởi vì chính Ngài là Đấng toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ và đầy lòng nhân ái.
Đừng bán rẻ biệt thự (lương tâm) của mình cho tính kiêu ngạo, ích kỷ và ghen ghét, bởi vì chỉ có những thứ dõm đó mới làm cho lương tâm của mình trở thành rẻ mạt khi đoán xét chuyện quá khứ của tha nhân.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Diêu Tam Lão là người giàu có nhất vùng Tam Nguyên đã mua một căn biệt thự, bên trong có hồ ao, đền đài, hòn non bộ, tất cả đều lấy những viên đá kỳ lạ ở trong hồ mà làm.
Một hôm, Vương Đại Si đến đó để du ngoạn và dừng lại nơi cái đình trên hồ uống rượu, rượu đến hồi phấn chấn thì hỏi chủ nhân:
- “Ngài mua cái biệt thự này hết bao nhiêu tiền ?”
Chủ nhân trả lời:
- “Một ngàn lượng bạc”.
Vương Đại Si nói:
- “Hai mươi năm trước tôi cũng đã uống rượu ngâm thơ ở nơi đây, chủ nhân lúc ấy nói với tôi là mua một vạn lượng bạc, ngài làm thế nào mà mua rẻ quá vậy ?”
Đào Tam Lão nói:
- “Vì để mua được nó mà tôi phải vận dụng rất nhiều trí não, phí rất nhiều nước bọt, con cháu nhà ấy chịu không nổi nên mới đem bán rẻ cho tôi đấy.”
Vương Đại Si cười nói:
- “Ngài có thể rút lấy đó làm bài học và khắc trên đá lời khuyên răn để khuyên con cháu đời sau, sau này nếu quá túng thiếu thì cũng không được bán rẻ.”
(Ứng hài lục)
Suy tư 27:
Hai mươi năm trước và hai mươi năm sau thì rất là không giống nhau, cho nên đừng lấy quá khứ hai mươi năm trước của anh em chị em để đoán xét việc làm hiện tại của họ, bởi vì quá khứ hai mươi năm đã như nắm mồ đầy cỏ hoang.
Có người đi đâu cũng chê người anh em của mình có một quá khứ không tốt làm hại sự tiến thân của họ, có người cứ “chăm chăm” ngó đến quá khứ của tha nhân mà không nhìn thấy hiện tại của họ như thế nào...
Đức Chúa Giê-su không nhìn thấy quá khứ của cô Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, Ngài cũng không nhìn thấy quá khứ của ông thánh Phê-rô, ông thánh Phao-lô hoặc là của anh trộm lành cùng bị đóng đinh với Ngài trên đồi Can-vê, nhưng Đức Chúa Giê-su chỉ nhìn cái hiện tại của các vị thánh ấy để tha thứ và để đón nhận vào trong Nước của Ngài.
Quá khứ thì rẻ như...hàng giả, cái hiện tại thì quý và đắt như viên ngọc trai, không ai thích thứ giả nhưng ai cũng thích thứ thiệt, Thiên Chúa thì càng thích cái đẹp cái thứ thiệt hơn, bởi vì chính Ngài là Đấng toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ và đầy lòng nhân ái.
Đừng bán rẻ biệt thự (lương tâm) của mình cho tính kiêu ngạo, ích kỷ và ghen ghét, bởi vì chỉ có những thứ dõm đó mới làm cho lương tâm của mình trở thành rẻ mạt khi đoán xét chuyện quá khứ của tha nhân.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Lễ Chúa Hiển Linh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:00 06/01/2019
<b>Chúa Nhật LỄ HIỂN LINH
Tin Mừng : Mt 2, 1-12.
“Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Ngài.”
Bạn thân mến,
Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy nổi bật lên hai khuôn mặt thật của hai loại người: một là khuôn mặt dối trá thâm hiểm của vua Hê-rô-đê, hai là khuôn mặt ngây thơ thật thà và thành kính của ba nhà hiền sĩ đến từ phương Đông.
Khuôn mặt dối trá và thâm hiểm của vua Hê-rô-đê đã đánh lừa được những người hiền lành chất phác, nhưng ông ta không thể đánh lừa được Thiên Chúa, những mưu mô tận đáy lòng của ông đã không che giấu được con mắt của Thiên Chúa, là Đấng luôn nhìn thấy và che chở những người hiền lành. Ông ta đã thất bại chua cay vì có Chúa can thiệp và phá vỡ âm mưu thâm hiểm của ông ta.
Khuôn mặt ngây thơ thật thà và thành kính của ba nhà hiền sĩ đã cho chúng ta thấy các ông là những người yêu thích và luôn tìm kiếm chân lý trong cuộc sống của mình. Thái độ và khuôn mặt thật thà ấy đã làm cho vua Hê-rô-đê hí hửng vui mừng vì rất dễ dàng đánh lừa được họ, nhưng chính Thiên Chúa đã không để những người thành tâm tìm kiếm chân lý bị người khác lợi dụng bắt nạt, Ngài đã ra tay cứu giúp, và các vị hiền sĩ trở về quê nhà cách bình an...
Bạn thân mến,
Trong con người của bạn và tôi đều có hai khuôn mặt: khuôn mặt của Hê-rô-đê tàn ác và khuôn mặt thành kính thật thà của ba nhà hiền sĩ...
Khuôn mặt tàn ác đã làm cho chúng ta trở thành những tên lừa dối anh em chị em của mình, khuôn mặt gian thâm này đã làm cho chúng ta không nhìn thấy được thiện chí của tha nhân, nên chúng ta vẫn cứ mãi lừa dối và mưu hại anh em và người khác để thoả mãn lòng tham của mình. Trái lại, khuôn mặt thành kính thật thà nơi bạn và tôi sẽ làm cho nhiều người nhận ra Đức Chúa Ki-tô đang hiện diện và hoạt động trong thái độ thân tình, yêu mến và khiêm tốn của chúng ta, và đó chính là một sự chọn lựa: chọn khuôn mặt của Hê-rô-đê hay chọn khuôn mặt của các nhà hiền sĩ, tất cả đều lệ thuộc vào đức tin và cuộc sống của mình mà thôi.
Lễ Hiển Linh là ngày Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, có nghĩa là ơn cứu độ của Thiên Chúa không dành cho một ai, nhưng là hể ai thành tâm đón nhận Tin Mừng thì sẽ được ơn cứu độ.
Thành tâm đón nhận Tin Mừng như ba nhà hiền sĩ phương Đông, hoặc thành tâm đón nhận Tin Mừng như các mục đồng của thành Bê-lem là đón nhận và trở thành những ánh sao lạ chiếu soi Tin Mừng của Chúa cho mọi người, đó cũng là sứ điệp truyền giáo mà Giáo Hội đang ngày đêm thúc giục chúng ta, hãy làm tất cả những gì có thể để Lời Chúa được mau chạy đến với các linh hồn vậy.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
---------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Mừng : Mt 2, 1-12.
“Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Ngài.”
Bạn thân mến,
Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy nổi bật lên hai khuôn mặt thật của hai loại người: một là khuôn mặt dối trá thâm hiểm của vua Hê-rô-đê, hai là khuôn mặt ngây thơ thật thà và thành kính của ba nhà hiền sĩ đến từ phương Đông.
Khuôn mặt dối trá và thâm hiểm của vua Hê-rô-đê đã đánh lừa được những người hiền lành chất phác, nhưng ông ta không thể đánh lừa được Thiên Chúa, những mưu mô tận đáy lòng của ông đã không che giấu được con mắt của Thiên Chúa, là Đấng luôn nhìn thấy và che chở những người hiền lành. Ông ta đã thất bại chua cay vì có Chúa can thiệp và phá vỡ âm mưu thâm hiểm của ông ta.
Khuôn mặt ngây thơ thật thà và thành kính của ba nhà hiền sĩ đã cho chúng ta thấy các ông là những người yêu thích và luôn tìm kiếm chân lý trong cuộc sống của mình. Thái độ và khuôn mặt thật thà ấy đã làm cho vua Hê-rô-đê hí hửng vui mừng vì rất dễ dàng đánh lừa được họ, nhưng chính Thiên Chúa đã không để những người thành tâm tìm kiếm chân lý bị người khác lợi dụng bắt nạt, Ngài đã ra tay cứu giúp, và các vị hiền sĩ trở về quê nhà cách bình an...
Bạn thân mến,
Trong con người của bạn và tôi đều có hai khuôn mặt: khuôn mặt của Hê-rô-đê tàn ác và khuôn mặt thành kính thật thà của ba nhà hiền sĩ...
Khuôn mặt tàn ác đã làm cho chúng ta trở thành những tên lừa dối anh em chị em của mình, khuôn mặt gian thâm này đã làm cho chúng ta không nhìn thấy được thiện chí của tha nhân, nên chúng ta vẫn cứ mãi lừa dối và mưu hại anh em và người khác để thoả mãn lòng tham của mình. Trái lại, khuôn mặt thành kính thật thà nơi bạn và tôi sẽ làm cho nhiều người nhận ra Đức Chúa Ki-tô đang hiện diện và hoạt động trong thái độ thân tình, yêu mến và khiêm tốn của chúng ta, và đó chính là một sự chọn lựa: chọn khuôn mặt của Hê-rô-đê hay chọn khuôn mặt của các nhà hiền sĩ, tất cả đều lệ thuộc vào đức tin và cuộc sống của mình mà thôi.
Lễ Hiển Linh là ngày Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, có nghĩa là ơn cứu độ của Thiên Chúa không dành cho một ai, nhưng là hể ai thành tâm đón nhận Tin Mừng thì sẽ được ơn cứu độ.
Thành tâm đón nhận Tin Mừng như ba nhà hiền sĩ phương Đông, hoặc thành tâm đón nhận Tin Mừng như các mục đồng của thành Bê-lem là đón nhận và trở thành những ánh sao lạ chiếu soi Tin Mừng của Chúa cho mọi người, đó cũng là sứ điệp truyền giáo mà Giáo Hội đang ngày đêm thúc giục chúng ta, hãy làm tất cả những gì có thể để Lời Chúa được mau chạy đến với các linh hồn vậy.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
---------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:02 06/01/2019
75. Tu đức tiến tới bao nhiêu, thì nhìn toàn bộ chí hướng của chúng ta như thế nào; ai muốn tiến bộ lâu dài thì phải nổ lực phấn chấn.
(sách Gương Đức Chúa Giê-su)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-------------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bộ Trưởng Ngoại Giáo Anh Quốc Jeremy Hunt đã ra lệnh việc duyệt xét độc lập và toàn cầu về các Kitô hữu bị bách hại trên thế giới.
LM Nguyễn Tất Thắng, O.P.
11:07 06/01/2019
Tin Anh Quốc - Ông Jeremy Hunt, Bộ Trưởng Ngoại Giáo Anh Quốc, đã ra lệnh việc duyệt xét độc lập và toàn cầu việc bách hại các Kitô hữu thuộc mọi quốc tịch trong bối cảnh có những tuyên bố rằng không đủ bảo vệ gần 200 triệu Kitô hữu có nguy cơ bị bách hại ngày nay.
Việc duyệt xét của Bộ Ngoại giao chưa từng có sẽ được Giám mục của Truro, Philip Mounstephen dẫn đầu, và sẽ đưa ra khuyến nghị về các bước thực tế mà chính phủ có thể thực hiện để hỗ trợ tốt hơn cho những người đang bị đe dọa. Việc duyệt xét sẽ đặc biệt nhắm vào cuộc bách hại Kitô hữu, và không phải là những tôn giáo thiểu số nói chung, phản ánh quan điểm của Bộ trưởng Ngoại giao rằng vì Kitô giáo là một đức tin được thiết lập ở Anh, nên hợp pháp xử dụng tài nguyên quốc gia dành cho việc duyệt xét. Việc duyệt xét sẽ được báo cáo trước dịp lễ Phục sinh 21.4.2019.
Ông Hunt tin rằng cuộc bách hại Kitô hữu đang gia tăng ở một số quốc gia thường là biểu tượng của cuộc bách hại rộng lớn hơn. Các nhóm Kitô giáo tuyên bố có tới 3.000 Kitô hữu đã bị giết trong năm 2018, gấp đôi con số của năm ngoái.
Động thái này được đưa ra khi chính phủ tiếp tục đối mặt với những lời chỉ trích vì đã không cung cấp bảo vệ cho Asia Bibi, một phụ nữ Kitô giáo người Pakistan đã trải qua tám năm tử tù sau khi bị kết án tội phạm thánh, và vẫn bị giam giữ gần hai tháng sau khi việc bà bị kết án được Tòa án tố cao phán quyết ngược lại.
Cơ quan Open Doors làm thống kê mỗi năm về các quốc gia xảy ra bách hại Kitô dữ dội nhất, xếp Triều tiên đứng đầu danh sách, sau đó là Afghanistan, Somalia, Sudan, Pakistan. Iraq, Yemen, Iran, Saudi Arabia, Egypt, Nigeria, Libya và India. Tất cả những quốc gia có liên hệ ngoại giao với Anh quốc được xếp trong bảng 20 quốc hàng đầu, nhấn mạnh về cuộc điều tra có thể chứng minh mức độ nhạy cảm, nếu nó không gây ra hành vi xúc phạm. Ở Hồng Kông, các tín hữu Kitô đến nhà thờ mang y phục đen để phản đối về việc chính quyền Trung hoa bách hại các tín hữu Kitô.
Ông Hunt nói: “Anh quốc từ lâu đã bảo vệ tự do tôn giáo quốc tế, và thủ tướng đã nhấn mạnh sự lãnh đạo toàn cầu của chúng tôi về vấn đề này khi bà bổ nhiệm đồng nghiệp xuất sắc của tôi là ngài Ahmad được bổ nhiệm làm phụ tá đặc biệt cho Thủ tướng về tự do tôn giáo và tín ngưỡng.” Anh quốc có thể và phải làm nhiều hơn để đáp ứng với hoàn cảnh của các Kitô hữu bị đàn áp trên khắp thế giới.
Ahmad nói: “Đây là một vấn đề gây tiếng vang sâu sắc: 70 năm trước trong thời kỳ phân chia Ấn Độ, gia đình tôi phải rời bỏ nhà cửa và sinh kế chỉ vì niềm tin của họ.” “Bảy mươi năm sau, cuộc đàn áp tôn giáo đang gia tăng trên khắp thế giới. Chính phủ của chúng tôi đã ưu tiên tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng và việc duyệt xét mà chúng tôi công bố hôm nay là cung cấp một cái nhìn khách quan về sự hỗ trợ của Anh quốc cho các Kitô hữu dễ bị tổn thương nhất trên toàn cầu.” “Chúng tôi đang tìm cách xác định các bước thực tế bổ sung để giúp ngăn chặn mức độ bạo lực kinh hoàng đã chứng kiến 3.000 Kitô hữu bị sát hại năm ngoái vì đức tin của họ. Tôi hoàn toàn cam kết không chỉ đứng lên cho những người bị bách hại, mà còn bảo vệ và củng cố quyền cơ bản của con người.”
Trong một dấu hiệu của sự giận dữ ngày càng tăng khi họ đối xử các cộng đồng Kitô giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về một “kỷ nguyên mới của tử đạo” gợi lên những năm đầu của Kitô giáo khi các tín hữu bị nhà nước La Mã săn lùng và giết chết. ĐTC Francis nói: “Có vẻ như cuộc đàn áp tàn khốc và xấu xa của đế chế La Mã vẫn chưa kết thúc. Một ông Nero mới luôn được sinh ra để đàn áp các tín hữu chỉ vì đức tin của họ vào Chúa Kitô.”
(Nguôn www.theguardian.com)
Việc duyệt xét của Bộ Ngoại giao chưa từng có sẽ được Giám mục của Truro, Philip Mounstephen dẫn đầu, và sẽ đưa ra khuyến nghị về các bước thực tế mà chính phủ có thể thực hiện để hỗ trợ tốt hơn cho những người đang bị đe dọa. Việc duyệt xét sẽ đặc biệt nhắm vào cuộc bách hại Kitô hữu, và không phải là những tôn giáo thiểu số nói chung, phản ánh quan điểm của Bộ trưởng Ngoại giao rằng vì Kitô giáo là một đức tin được thiết lập ở Anh, nên hợp pháp xử dụng tài nguyên quốc gia dành cho việc duyệt xét. Việc duyệt xét sẽ được báo cáo trước dịp lễ Phục sinh 21.4.2019.
Ông Hunt tin rằng cuộc bách hại Kitô hữu đang gia tăng ở một số quốc gia thường là biểu tượng của cuộc bách hại rộng lớn hơn. Các nhóm Kitô giáo tuyên bố có tới 3.000 Kitô hữu đã bị giết trong năm 2018, gấp đôi con số của năm ngoái.
Động thái này được đưa ra khi chính phủ tiếp tục đối mặt với những lời chỉ trích vì đã không cung cấp bảo vệ cho Asia Bibi, một phụ nữ Kitô giáo người Pakistan đã trải qua tám năm tử tù sau khi bị kết án tội phạm thánh, và vẫn bị giam giữ gần hai tháng sau khi việc bà bị kết án được Tòa án tố cao phán quyết ngược lại.
Cơ quan Open Doors làm thống kê mỗi năm về các quốc gia xảy ra bách hại Kitô dữ dội nhất, xếp Triều tiên đứng đầu danh sách, sau đó là Afghanistan, Somalia, Sudan, Pakistan. Iraq, Yemen, Iran, Saudi Arabia, Egypt, Nigeria, Libya và India. Tất cả những quốc gia có liên hệ ngoại giao với Anh quốc được xếp trong bảng 20 quốc hàng đầu, nhấn mạnh về cuộc điều tra có thể chứng minh mức độ nhạy cảm, nếu nó không gây ra hành vi xúc phạm. Ở Hồng Kông, các tín hữu Kitô đến nhà thờ mang y phục đen để phản đối về việc chính quyền Trung hoa bách hại các tín hữu Kitô.
Ông Hunt nói: “Anh quốc từ lâu đã bảo vệ tự do tôn giáo quốc tế, và thủ tướng đã nhấn mạnh sự lãnh đạo toàn cầu của chúng tôi về vấn đề này khi bà bổ nhiệm đồng nghiệp xuất sắc của tôi là ngài Ahmad được bổ nhiệm làm phụ tá đặc biệt cho Thủ tướng về tự do tôn giáo và tín ngưỡng.” Anh quốc có thể và phải làm nhiều hơn để đáp ứng với hoàn cảnh của các Kitô hữu bị đàn áp trên khắp thế giới.
Ahmad nói: “Đây là một vấn đề gây tiếng vang sâu sắc: 70 năm trước trong thời kỳ phân chia Ấn Độ, gia đình tôi phải rời bỏ nhà cửa và sinh kế chỉ vì niềm tin của họ.” “Bảy mươi năm sau, cuộc đàn áp tôn giáo đang gia tăng trên khắp thế giới. Chính phủ của chúng tôi đã ưu tiên tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng và việc duyệt xét mà chúng tôi công bố hôm nay là cung cấp một cái nhìn khách quan về sự hỗ trợ của Anh quốc cho các Kitô hữu dễ bị tổn thương nhất trên toàn cầu.” “Chúng tôi đang tìm cách xác định các bước thực tế bổ sung để giúp ngăn chặn mức độ bạo lực kinh hoàng đã chứng kiến 3.000 Kitô hữu bị sát hại năm ngoái vì đức tin của họ. Tôi hoàn toàn cam kết không chỉ đứng lên cho những người bị bách hại, mà còn bảo vệ và củng cố quyền cơ bản của con người.”
Trong một dấu hiệu của sự giận dữ ngày càng tăng khi họ đối xử các cộng đồng Kitô giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về một “kỷ nguyên mới của tử đạo” gợi lên những năm đầu của Kitô giáo khi các tín hữu bị nhà nước La Mã săn lùng và giết chết. ĐTC Francis nói: “Có vẻ như cuộc đàn áp tàn khốc và xấu xa của đế chế La Mã vẫn chưa kết thúc. Một ông Nero mới luôn được sinh ra để đàn áp các tín hữu chỉ vì đức tin của họ vào Chúa Kitô.”
(Nguôn www.theguardian.com)
Nhà truyền giáo 43 năm ở Bangladesh: Tôi chưa bao giờ khuyên ai trở lại đạo Công Giáo.
Nguyễn Long Thao
12:55 06/01/2019
Cha Robert Terrence McCahill |
Tính đến nay, Ngài đã phục vụ người nghèo trong 43 năm ở Bangladesh là một quốc gia mà đa số dân chúng theo Hồi Giáo.
Mạng lưới tin tức Công Giáo Á Châu viết rằng Ngài chọn cuộc sống nghèo giữa những người nghèo. Mỗi ngày Ngài thức dậy lúc 3 giờ sáng, đọc kinh, dâng thánh lễ rồi đi đến các làng mạc tìm các bệnh nhân cần điều trị.
Ngài nói ở Bangladesh tôi nhận ra rằng chọn cuộc sống nghèo giữa những người nghèo là cách thể làm chứng cho Chúa Kitô hữu hiệu hơn. Ngài thuê một căn nhà làm bằng tre nứa cho tới năm 2016 là năm có vụ khủng bố xẫy ra. Từ đó, vì sự an toàn sinh mạng của cha, cảnh sát Bangladesh đã đưa cha đi chỗ khác cư ngụ
Ngài cũng kể thêm: Ban đầu công việc truyền giáo của tôi không dễ dàng. Tôi gặp nhiều người Hồi Giáo không tin và nghi ngờ tôi, họ không muốn làm quen với các nhà truyền giáo hay người ngoại quốc. Tôi đã cư ngụ ở 12 quận hạt khác nhau thuộc Shariatpur và dần dần dân chúng đã có cảm tình với tôi. Vì vậy tôi đã đến ở nơi nào dân chúng cần tôi nhất.
Ngài kể về câu chuyện ban đầu dân chúng nghi kỵ Ngài: Ông Malad Islam bố của em bé Al Amnin, một đứa bé 6 tuỗi bị tang tật, ông bố không cho cha đưa em bé tới bệnh viện để chữa trị. Mãi 2 năm sau, ông Malak mới cho cha đưa em bé đển bệnh viện. Giờ đây ông Malak Islam đã cám ơn cha. Ông nói: Tôi cám ơn bác Bob, sức khoẻ con tôi đã khá hơn nhiều”
“Bác Bóp” là tên đượm tình yêu thương mà dân chúng Hồi Giáo Bangladesh giờ đã dùng để gọi cha Robert Terence McCahill.Mạc dù mới đây có những vụ khủng bố của Hồi Giáo quá khích, nhưng cha Cahill nói tính mạng của cha chưa bao giờ bị đe dọa.
Cha Cahill nói cha chưa bao giờ khuyên ai trở lại đạo Công Giáo. Cha nói “ Là tín hữu Kitô Giáo, Ấn Giáo, hay Hồi Giáo, tất cả chúng ta là một gia đình nhân loại, tôi không cố gẳng cải đạo của bất cứ ai mà chỉ muốn họ thấy lòng yêu thương của Chúa và những điều tốt lành của cuộc đời Chúa Giêsu ”
Cha kể: “ Một người đàn ông Hồi Giáo đến xin Cha trở lại đạo Kitô Giáo. Cha trả lời “Ông sẽ chỉ có nỗi buồn mà thôi”
Người đàn ông đáp lại, Cha không hiểu ý của con, con muốn là người Kitô Giáo. Cha đáp lại: Làm như vậy ông sẽ có nội buồn to lớn hơn”
(When a Muslim man asked him to become Christian, he said: "You will only have sorrow". The man insisted: "You don’t understand Father, I want to become a Christian". The priest said again: "In doing so, you will have great sorrow.")
Cha không khuyên ai trở lại đạo Công Giáo, nhưng cung cách sống của cha đã cho người ta thầy gương mặt của Chúa Kitô.
Năm nay cha McCahill 81 tuổi, sức khỏe còn tốt, vẫn đi xe đạp, vẫn sẵn sàng đến ở một quận hạt mới và nhất là cảm thấy niềm hạnh phúc của đời sống tu trì.
Nguyễn Long Thao
Người Công Giáo Hoa Kỳ nghĩ gì về Đức Phanxicô và cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục?
Vũ Văn An
15:57 06/01/2019
Linh mục dòng tên Thomas Sweetser là sáng lập viên và là đương kim giám đốc Dự Án Lượng Giá Giáo Xứ. Cuốn sách sắp xuất bản của ngài có tựa đề là Can Francis Change the Church?: How American Catholics Are Responding to His Leadership (Đức Phanxicô có thể thay đổi được Giáo Hội không?: Người Công Giáo Hoa Kỳ Phản Ứng Ra Sao Đối Với Sự Lãnh Đạo Của Ngài?).
Cha cho hay: trong hơn 7 năm qua, ngài đã phỏng vấn nhiều người Công Giáo Hoa Kỳ về thái độ của họ đối với Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trong vòng phỏng vấn mới nhất, diễn ra vào tháng 9 năm ngoái, cha đã hỏi người ta về phản ứng của họ đối với vụ tai tiếng lạm dụng tình dục. Họ tỏ ý giận dữ và ghê tởm nhưng cũng hy vọng các thay đổi đáng kể có thể sẽ sớm diễn ra.
Chẳng hạn, bà Pam, một phụ nữ từ bang Minnesota ở tuổi đầu 50, nhận xét: "Tôi cảm thấy buồn cho các nhà lãnh đạo của giáo hội khi họ phải tự bảo vệ mình và giáo hội của chúng ta. Nhưng chủ yếu, tôi không biết nên tin tưởng ai trong Giáo Hội Công Giáo nữa". Allyson, một người ở độ tuổi 20 đang học thần học ở trường hậu đại học, nhận xét: “Làm thế nào cái giáo hội mà tôi tin tưởng và là trung tâm trọn cuộc sống của tôi, [đã] làm một điều như thế này – trở thành nguồn gốc cho một nỗi đau đớn như vậy chứ?”
Cuộc tụ tập của các vị đứng đầu các hội đồng giám mục với Đức Giáo Hoàng vào tháng Hai có thể là một khởi đầu theo một hướng mới. Như Đức Tổng Giám Mục Charles Scicluna, một trong những người lập kế hoạch cho cuộc tụ tập, đã nói với tờ America, “các giám mục chúng tôi cần ... tiếp nhận điều Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi là 'một phương thức đồng nghị' (synodal approach). Nghĩa là chúng tôi không thể làm điều ấy một mình trong cộng đồng của chúng ta, chúng tôi cũng cần phải trao quyền cho giáo dân, cho hàng ngũ giáo dân, để giúp chúng ta trở thành những người quản lý tốt”.
Sự trao quyền này sẽ đòi hỏi gì? Nhiều người được phỏng vấn kêu gọi để giáo dân đóng một vai trò tích cực hơn trong các cơ cấu và diễn trình ra quyết định khác nhau của giáo hội.
Kathleen, một phụ nữ lớn tuổi sống ở Washington, D.C., đã kêu gọi giáo hội “mang giáo dân vào, đầy đủ lực lượng". Bà nói thêm: "Chúng ta là người khổng lồ của giáo hội. Chúng ta cần phải là một phần của việc ra quyết định giáo hội sẽ ra như thế nào".
Larry, đã nghỉ hưu và sống ở Wisconsin, đã khẩn khoản: “Hãy đưa phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo ở cấp cao nhất ngay cả khi bạn không muốn phong chức cho họ. Rất nhiều những gì thuộc về con người, sự quan tâm, hòa nhập, cảnh giác và yêu thương được phát biểu tốt hơn bởi phụ nữ, hoặc ít nhất được phát biểu tốt hơn bởi đàn ông và phụ nữ cùng với nhau”. Đây là một chủ đề phổ biến trong số những người được phỏng vấn.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô là nhân tố chủ yếu cho sự thay đổi từ quyền lực và đặc quyền giáo sĩ sang chia sẻ thẩm quyền và ra quyết định. Nancy, một người Trung Tây, nói với cha, “ở thời điểm này, tôi muốn Đức Giáo Hoàng của mình trở thành một giọng nói rất táo bạo, ồn ào, đòi hỏi, nói hàng ngày, một người đang vận động các thay đổi cần diễn ra trong giáo hội”.
Tom, một cụ già 80 tuổi từ California, cũng yêu cầu Đức Giáo Hoàng phải hành động táo bạo: “Xin hãy dẫn đường! Hãy mạnh mẽ! Đừng sợ! Hãy đề xuất và cổ vũ các thay đổi thực sự, nhận ra và hiểu rõ sự đối lập gay gắt mà ngài sẽ gặp phải. Hãy cải cách chính nền văn hóa của giáo hội. Một là thế hai là chứng kiến giáo hội mất thế giá và hàng triệu người mất đức tin”.
Sự thay đổi văn hóa này phải được các giám mục và linh mục chấp nhận. Ken Untener, cố giám mục của Saginaw, Mich., xuất hiện trong tâm trí cha. Khi trở thành giám mục vào năm 1980, ngài trao trú sở chính thức của ngài cho người thứ ba bảo trì, và đi sống tại các giáo xứ khắp giáo phận trong khoảng chừng hai hoặc ba tháng một lần. Khi ngài qua đời vào năm 2004, giáo dân đã tới rất đông để canh thức và dự tang lễ của ngài. Đức Cha Untener là một với đoàn chiên của ngài. Đó là một phong cách lãnh đạo nên được bắt chước.
Bạn hãy tưởng tượng điều gì sẽ xẩy ra nếu những vị tham dự hội nghị tháng hai với Đức Giáo Hoàng lấy làm lòng tầm nhìn sâu sắc rằng chúng ta phải minh bạch và có trách nhiệm trong việc xử lý lạm dụng tình dục. Nhưng đây mới chỉ là khởi đầu. Các giám mục cũng phải thay đổi cách họ cai quản các giáo phận. Các ngài phải học cách làm việc bằng cách hợp tác với giáo dân, có tinh thần hòa nhập. Các tòa giám mục của các ngài nên là các môi trường cởi mở, chào đón, chú trọng tới sự hiếu khách và hợp tác. Nên cung cấp việc huấn luyện theo phương thức mới mẻ này cho các linh mục để sự thay đổi hướng tới nền văn hóa hòa nhập hơn trở thành tiêu chuẩn trong cả các giáo xứ.
Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục và che đậy nó trong giáo hội là một triệu chứng của một cơ cấu khép kín, không chịu trách nhiệm. Phong trào hướng tới một phong cách lãnh đạo cởi mở và chia sẻ chỉ ra một cách mới mẻ để trở thành giáo hội. Như Ed, một linh mục không còn hoạt động nữa, nhắc đến trong một cuộc phỏng vấn, “Nhiệm vụ rất lớn, sự kháng cự thấy rõ và dường như bất khả, nhưng một sự hồi tâm sâu sắc là điều chủ yếu”.
Ginny, một phụ nữ ở độ tuổi 70 sống ở New England, đã có một cái nhìn tích cực: “Cảm ơn Chúa, chúng ta có Đức Phanxicô là giáo hoàng của chúng ta. Ngài có thể chăn dắt chúng ta bằng các thay đổi cần thiết .... Đây có thể là một khoảnh khắc chuyển tiếp khó tin trong hoàn cảnh chỉ có nam giới mới được thụ phong mà giáo hội của chúng ta vốn là, phần lớn”.
Cha Sweetser hy vọng cuộc họp tháng Hai này giữa các giám mục và Đức Giáo Hoàng sẽ là khởi đầu của sự hồi tâm mới mẻ nói trên. Cuộc hồi tâm này sẽ dẫn đến đâu? Hy vọng, nó sẽ dẫn đến một vai trò mới sôi động hơn cho giáo dân, nhiều cơ hội lãnh đạo hơn cho phụ nữ trong giáo hội và một cuộc thảo luận nghiêm túc về các trách nhiệm của các giáo sĩ. Dựa trên các cuộc phỏng vấn của cha, dân Chúa không sợ hãi nhưng thay vào đó, họ đòi hỏi một thay đổi thực sự.
Cha cho hay: trong hơn 7 năm qua, ngài đã phỏng vấn nhiều người Công Giáo Hoa Kỳ về thái độ của họ đối với Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trong vòng phỏng vấn mới nhất, diễn ra vào tháng 9 năm ngoái, cha đã hỏi người ta về phản ứng của họ đối với vụ tai tiếng lạm dụng tình dục. Họ tỏ ý giận dữ và ghê tởm nhưng cũng hy vọng các thay đổi đáng kể có thể sẽ sớm diễn ra.
Chẳng hạn, bà Pam, một phụ nữ từ bang Minnesota ở tuổi đầu 50, nhận xét: "Tôi cảm thấy buồn cho các nhà lãnh đạo của giáo hội khi họ phải tự bảo vệ mình và giáo hội của chúng ta. Nhưng chủ yếu, tôi không biết nên tin tưởng ai trong Giáo Hội Công Giáo nữa". Allyson, một người ở độ tuổi 20 đang học thần học ở trường hậu đại học, nhận xét: “Làm thế nào cái giáo hội mà tôi tin tưởng và là trung tâm trọn cuộc sống của tôi, [đã] làm một điều như thế này – trở thành nguồn gốc cho một nỗi đau đớn như vậy chứ?”
Cuộc tụ tập của các vị đứng đầu các hội đồng giám mục với Đức Giáo Hoàng vào tháng Hai có thể là một khởi đầu theo một hướng mới. Như Đức Tổng Giám Mục Charles Scicluna, một trong những người lập kế hoạch cho cuộc tụ tập, đã nói với tờ America, “các giám mục chúng tôi cần ... tiếp nhận điều Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi là 'một phương thức đồng nghị' (synodal approach). Nghĩa là chúng tôi không thể làm điều ấy một mình trong cộng đồng của chúng ta, chúng tôi cũng cần phải trao quyền cho giáo dân, cho hàng ngũ giáo dân, để giúp chúng ta trở thành những người quản lý tốt”.
Sự trao quyền này sẽ đòi hỏi gì? Nhiều người được phỏng vấn kêu gọi để giáo dân đóng một vai trò tích cực hơn trong các cơ cấu và diễn trình ra quyết định khác nhau của giáo hội.
Kathleen, một phụ nữ lớn tuổi sống ở Washington, D.C., đã kêu gọi giáo hội “mang giáo dân vào, đầy đủ lực lượng". Bà nói thêm: "Chúng ta là người khổng lồ của giáo hội. Chúng ta cần phải là một phần của việc ra quyết định giáo hội sẽ ra như thế nào".
Larry, đã nghỉ hưu và sống ở Wisconsin, đã khẩn khoản: “Hãy đưa phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo ở cấp cao nhất ngay cả khi bạn không muốn phong chức cho họ. Rất nhiều những gì thuộc về con người, sự quan tâm, hòa nhập, cảnh giác và yêu thương được phát biểu tốt hơn bởi phụ nữ, hoặc ít nhất được phát biểu tốt hơn bởi đàn ông và phụ nữ cùng với nhau”. Đây là một chủ đề phổ biến trong số những người được phỏng vấn.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô là nhân tố chủ yếu cho sự thay đổi từ quyền lực và đặc quyền giáo sĩ sang chia sẻ thẩm quyền và ra quyết định. Nancy, một người Trung Tây, nói với cha, “ở thời điểm này, tôi muốn Đức Giáo Hoàng của mình trở thành một giọng nói rất táo bạo, ồn ào, đòi hỏi, nói hàng ngày, một người đang vận động các thay đổi cần diễn ra trong giáo hội”.
Tom, một cụ già 80 tuổi từ California, cũng yêu cầu Đức Giáo Hoàng phải hành động táo bạo: “Xin hãy dẫn đường! Hãy mạnh mẽ! Đừng sợ! Hãy đề xuất và cổ vũ các thay đổi thực sự, nhận ra và hiểu rõ sự đối lập gay gắt mà ngài sẽ gặp phải. Hãy cải cách chính nền văn hóa của giáo hội. Một là thế hai là chứng kiến giáo hội mất thế giá và hàng triệu người mất đức tin”.
Sự thay đổi văn hóa này phải được các giám mục và linh mục chấp nhận. Ken Untener, cố giám mục của Saginaw, Mich., xuất hiện trong tâm trí cha. Khi trở thành giám mục vào năm 1980, ngài trao trú sở chính thức của ngài cho người thứ ba bảo trì, và đi sống tại các giáo xứ khắp giáo phận trong khoảng chừng hai hoặc ba tháng một lần. Khi ngài qua đời vào năm 2004, giáo dân đã tới rất đông để canh thức và dự tang lễ của ngài. Đức Cha Untener là một với đoàn chiên của ngài. Đó là một phong cách lãnh đạo nên được bắt chước.
Bạn hãy tưởng tượng điều gì sẽ xẩy ra nếu những vị tham dự hội nghị tháng hai với Đức Giáo Hoàng lấy làm lòng tầm nhìn sâu sắc rằng chúng ta phải minh bạch và có trách nhiệm trong việc xử lý lạm dụng tình dục. Nhưng đây mới chỉ là khởi đầu. Các giám mục cũng phải thay đổi cách họ cai quản các giáo phận. Các ngài phải học cách làm việc bằng cách hợp tác với giáo dân, có tinh thần hòa nhập. Các tòa giám mục của các ngài nên là các môi trường cởi mở, chào đón, chú trọng tới sự hiếu khách và hợp tác. Nên cung cấp việc huấn luyện theo phương thức mới mẻ này cho các linh mục để sự thay đổi hướng tới nền văn hóa hòa nhập hơn trở thành tiêu chuẩn trong cả các giáo xứ.
Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục và che đậy nó trong giáo hội là một triệu chứng của một cơ cấu khép kín, không chịu trách nhiệm. Phong trào hướng tới một phong cách lãnh đạo cởi mở và chia sẻ chỉ ra một cách mới mẻ để trở thành giáo hội. Như Ed, một linh mục không còn hoạt động nữa, nhắc đến trong một cuộc phỏng vấn, “Nhiệm vụ rất lớn, sự kháng cự thấy rõ và dường như bất khả, nhưng một sự hồi tâm sâu sắc là điều chủ yếu”.
Ginny, một phụ nữ ở độ tuổi 70 sống ở New England, đã có một cái nhìn tích cực: “Cảm ơn Chúa, chúng ta có Đức Phanxicô là giáo hoàng của chúng ta. Ngài có thể chăn dắt chúng ta bằng các thay đổi cần thiết .... Đây có thể là một khoảnh khắc chuyển tiếp khó tin trong hoàn cảnh chỉ có nam giới mới được thụ phong mà giáo hội của chúng ta vốn là, phần lớn”.
Cha Sweetser hy vọng cuộc họp tháng Hai này giữa các giám mục và Đức Giáo Hoàng sẽ là khởi đầu của sự hồi tâm mới mẻ nói trên. Cuộc hồi tâm này sẽ dẫn đến đâu? Hy vọng, nó sẽ dẫn đến một vai trò mới sôi động hơn cho giáo dân, nhiều cơ hội lãnh đạo hơn cho phụ nữ trong giáo hội và một cuộc thảo luận nghiêm túc về các trách nhiệm của các giáo sĩ. Dựa trên các cuộc phỏng vấn của cha, dân Chúa không sợ hãi nhưng thay vào đó, họ đòi hỏi một thay đổi thực sự.
George Weigel: Năm 2018 là một năm tồi tệ đối với người Công Giáo, năm 2019 có lẽ còn thê thảm hơn
Đặng Tự Do
18:55 06/01/2019
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây A Tough Year Ahead. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt ngữ.
Một Năm Khó Khăn Trước Mặt
George Weigel
Năm 2018 là một năm tồi tệ đối với người Công Giáo. Năm 2019 gần như chắc chắn sẽ còn thê thảm hơn nữa. Thật là chính đáng để suy tư về hai đoạn văn trong giờ Kinh Sách gần đây của Giáo Hội.
Đầu tiên là từ đoạn 48 trong Tông Hiến của Vatican II về Giáo Hội:
Thời thế mạt đã đến với chúng ta. Sự đổi mới của thế giới đã được thiết lập và không thể bị đảo ngược. Trong thời đại của chúng ta, một cảm thức thực sự đã được dự đoán trước: Giáo Hội trên trái đất dù chưa hoàn thiện đã được đóng ấn bởi sự chân thực, và thánh thiện. Tuy nhiên, cho đến khi một trời mới và một đất mới được hình thành như một nơi ngự trị của công lý, Giáo Hội lữ hành, trong các bí tích và thể chế của mình, vẫn thuộc về thế giới của thời gian này, và vẫn có những tương đồng với thế giới đang qua đi này. Giáo Hội sống giữa một thế giới vẫn đang rên rỉ và đang trong cuộc hành trình chờ đợi ngày các con cái Thiên Chúa được tỏ lộ trong vinh quang.
Và thứ hai là từ bài Tụng Ca của Thánh Gioan Thánh Giá, Tiến sĩ Hội Thánh, một nhà cải cách Tây Ban Nha.
Cuối cùng, có lẽ con người sẽ hiểu ra rằng thật khó để đến gần một rừng những phong phú và khôn ngoan của Thiên Chúa, nếu không bước vào chập chùng những khổ đau, sao cho linh hồn mình tìm thấy ở đó niềm an ủi và ao ước của nó. Linh hồn nào khao khát sự khôn ngoan của Thiên Chúa đều phải chọn trước tiên, và trong chân lý, việc tiến vào một rừng những thập giá.
Với những suy nghĩ tuy nặng nề nhưng đầy an ủi này trong đầu, tôi đưa ra một vài dự đoán về năm 2019, một cách thận trọng trước những sóng gió phía trước.
Sẽ có những tiết lộ nhiều hơn nữa về tội lỗi lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ từ nhiều thập kỷ trước, nhằm củng cố thêm một truyền thuyết sai lầm rằng có một thứ văn hóa cưỡng hiếp trong Giáo Hội Công Giáo ngày nay.
Nhiều chi tiết khủng khiếp hơn về hành vi của Theodore McCarrick, cựu tổng giám mục của Washington, sẽ được đưa ra ánh sáng.
Ít nhất một Giám Mục Hoa Kỳ, và có thể còn nhiều hơn nữa, sẽ từ chức sau những tiết lộ về sai lầm hay một điều gì đó tệ hơn nữa trong việc giải quyết các cáo buộc lạm dụng tình dục của các giáo sĩ dưới quyền các ngài.
Rôma và một số thành phần nhất định trong Giáo Hội Hoa Kỳ sẽ tiếp tục phớt lờ hoặc diễn dịch sai các bằng chứng khách quan về tỷ lệ đặc biệt cao các thanh thiếu niên và người trẻ là những nạn nhân của tội lỗi lạm dụng tình dục giáo sĩ.
Cuộc họp tháng 2 ở Rôma để thảo luận về cuộc khủng hoảng lạm dụng trong bối cảnh toàn cầu sẽ làm thất vọng nhiều người Công Giáo Hoa Kỳ, những người lầm tưởng rằng cuộc gặp gỡ đó sẽ tạo ra một kế hoạch cải cách toàn cầu.
Quá nhiều quan chức cao cấp từ giáo triều Rôma sẽ tiếp tục khẳng định rằng các phản ứng tại Hoa Kỳ liên quan đến tội lỗi lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ và việc giải quyết các cáo buộc không đến nơi đến chốn của các giám mục đã và đang bị cường điệu hóa, bị lèo lái bởi các phương tiện truyền thông, và phần nào có tính chất “Tin Lành”.
Quyết tâm của Ban lãnh đạo Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ muốn các chuyên viên giáo dân Công Giáo tham gia vào việc cải cách hàng linh mục và giám mục sẽ gặp nhiều chống đối hơn nữa ở Rôma.
Không có bộ trưởng tư pháp tiểu bang nào và cũng chẳng có một công tố viên liên bang nào sẽ mở một cuộc điều tra về tình trạng lạm dụng tình dục trong các trường công lập. [Dụng ý là vẽ nên một bức tranh trong đó lạm dụng tình dục chỉ diễn ra trong Giáo Hội Công Giáo chứ không hề diễn ra ở các tổ chức thể chế khác (như trường học, bệnh viện, nơi làm việc…) hay trong các gia đình – Chú thích của người dịch]
Thượng hội đồng đặc biệt vào tháng 10 về vùng Amazon sẽ (gián tiếp?) kêu gọi việc phong chức linh mục cho những người nam trưởng thành đã kết hôn để làm mục vụ trong khu vực đó, nhưng không có sự tham gia ý kiến của các Giáo Hội địa phương khác, là các Giáo Hội sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi bất kỳ sự nhượng bộ nào như vậy - kể cả Giáo Hội ở Hoa Kỳ .
Chủ thuyết độc tôn giáo quyền Rôma (Ultramontanism) - một ý tưởng tập trung quá mức vào vai trò trung tâm của Đức Giáo Hoàng diễn dịch sai giáo huấn của Công Đồng Vatican I và Công Đồng Vatican II bằng cách coi giáo hoàng là một vị tiên tri - sẽ tăng cường xu hướng Công Giáo cánh tả ngày càng hà khắc và độc đoán.
Ngân sách Tòa Thánh sẽ bị thâm hụt rất lớn, thậm chí những đóng góp cho Quỹ Đồng Tiền Thánh Phêrô sẽ tiếp tục giảm trong Giáo Hội khắp thế giới.
Cuộc bách hại Đức Hồng Y George Pell sẽ tiếp tục nhưng niềm tin của ngài trước các cáo buộc về “lạm dụng tình dục quá khứ” sẽ khiến ngày càng nhiều những người có lý trí coi vụ bách hại này là một sự lạm dụng công lý quái đản được thúc đẩy bởi khao khát muốn đưa ngài làm con dê tế thần, bởi não trạng bài Công Giáo và bởi những thứ chính trị bẩn thỉu ở Úc (và những nơi khác).
Khi cuộc đàn áp Kitô hữu của chế độ Tập Cận Bình ngày càng gia tăng, bộ mặt của “thỏa thuận” giữa Vatican với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ càng trông thảm hại hơn và khả năng biện hộ cho thỏa thuận ấy xem ra càng bất khả thi hơn bao giờ.
Các phát ngôn viên của Chính thống Nga sẽ tiếp tục đổ lỗi cho Giáo Hội Công Giáo về những rắc rối của Đức Thượng Phụ Mạc Tư Khoa ở Ukraine, làm tổn hại thêm đến chiến lược đại kết lấy Nga là trung tâm của Tòa Thánh đối với một thế giới Chính thống giáo quá phức tạp.
Một năm khó khăn nằm ở phía trước. Tuy nhiên, Chúa Kitô, Đấng đã sống lại và chiến thắng khải hoàn, vẫn hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, là nơi các môn đệ truyền giáo nghiêm chỉnh sẽ thường xuyên chạy đến hơn bao giờ để có thể kín múc sức mạnh và lòng can đảm. Xin cho Nước Cha trị đến.
Source: First Things A Tough Year Ahead
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gia đình tận hiến hạt Tân Sơn Nhì mừng lễ bổn mạng
Phương Nga
09:48 06/01/2019
“ Người làm chồng hãy yêu thương vợ như chính Đức Kitô thương yêu Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh”( Êphêsô 5,25)
Mẹ Maria một Eva thứ 2,từ hai tiếng “Xin Vâng” đã đóng góp trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho loài người.Vì sự cao quý này Mẹ đã được Thiên Chúa ân ban cho bốn tước hiệu và một trong bốn tước hiệu ấy là Mẹ Thiên Chúa mà hôm nay hòa chung niềm vui với Giáo hội;Gia đình Tận Hiến hạt Tân Sơn Nhì,Presidia Mẹ Thiên Chúa Legio gx Tân Phú đã hân hoan mừng kính vào lúc 9g30 ngày 01-01-2018 tại thánh đường gx Tân Phú.
Dù chưa đến giờ lễ,nhưng sân nhà thờ Tân Phú đã tràn ngập màu áo dài và sơ mi trắng đồng phục của các hội viên.Hôm nay cũng là Tết Dương lịch nên những cuộc gặp gỡ trở nên sôi động và có nhiều ý nghĩa vì những anh chị em trong Chúa và Mẹ được hội ngộ đông đủ và dâng lễ cùng nhau.Buổi lễ có các phần:
Xem Hình
HỌC HỎI LINH ĐAO CỦA HỘI :
Đúng 9g30 tất cả tập trung tại Hoa viên gx Tân Phú,anh Gioan Maria Ngô Minh Hành ( Hội trưởng GĐ Tận hiến hạt Tân Sơn nhì xướng kinh.Sau khi hát kinh Chúa Thánh Thần,kinh Chúa Sáng Soi,các hội viên đã được nghe Cha Luca Maria Nguyễn Viết Cương dòng Mẹ Cứu Chuộc chia sẻ về chủ đề gia đình dựa theo Thư Thánh Phaolo gửi tín hữu Êphêsô ( 5,21-33) Cha nói: Năm nayvẫn còn là năm gia đình nên Cha muốn nhấn mạnh điều này với cộng đoàn.Hạnh phúc của gia đình phải được xây dựng bằng sự cộng tác của tất cả các thành viên trong đó người chồng là gia trưởng “Người vợ hãy phục tùng chồng như Giáo hội phục tùng Chúa Kitô” (Êphêsô 5,24) nhưng xem ra thòi đại này thật là khó khăn vì nhiều gia đình hiện nay,người vợ đang đóng vai chính trong việc kiếm tiền và địa vị;vì lẽ đó đã có không ít những người phụ nữ chửi chồng,mạt sát và khinh chê kẻ làm gia trưởng.
Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa đã thiết định người nữ được tạo ra từ xương sườn của người nam với trật tự của gia đình,nên dù người nữ có làm ra tiền,địa vị cao hay học cao cũng nên khiêm tốn với chồng và tránh những mạt sát,chê bai và lộng ngôn nữa.Khi người đàn ông bị lép vế thì họ đã cảm thấy tủi thân và chịu đựng lắm rồi,chúng ta không nên dồn ép thêm và Cha hy vọng các chị ỏ đây có lòng mến Chúa thì điều đó sẽ bớt đi.Ai cao sang bằng Chúa Giêsu?Ai đầy ơn phúc bằng Mẹ Maria nhưng cả hai đã tuân phục Thánh cả Giuse trong mọi việc.Khi có những việc trọng đại Thiên Thần luôn hiện ra báo mộng và chỉ vẽ cho Ngài;như vậy dù thế nào,người đàn ông vẫn đóng vai trò gia trưởng trong gia đình.Còn với các ông tuy là gia trưởng nhưng vợ mình là một xương một thịt nên phải chăm sóc và thương yêu,không vũ phu cộc cằn và gây ra sóng gió cho chị em.
Tân hiến cho Mẹ là rất tốt,nhưng như vậy chưa phải là xong vì đó mới chỉ là Hạt giống Chúa ban cho ta,còn phần chăm bón,tưới nước,bắt sâu tỉa lá là chúng ta phải làm.Cha phụ trách Hội nên gần đây Cha thấy trăn trở vì một số nơi bị xuống cấp và rời rạc.Là những hội viên ACE có bao giờ tự hỏi rằng mình đã mời gọi bao nhiêu người đi sinh hoạt và hy sinh chút thời giờ cho Chúa? Và cộng đoàn thì hãy tâm niệm một điều là Chúa luôn đồng hành cùng chúng ta bởi có những người công việc ngập đầu mà vẫn cố gắng tham gia,kết quả cuộc sống rất ổn,ngược lại có người rảnh rỗi mà thờ ơ hoặc né tránh chỉ chăm lo kiếm tiền kết cuộc cũng không được bao nhiêu cả !! Như vậy,chúng ta thấy Chúa,Mẹ Maria và Thánh Giuse luôn che chở và gìn giữ chúng ta.
Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa ngay trong ngày đầu năm mới là Giáo hội rất khôn ngoan và muốn Mẹ Maria không chỉ là Mẹ Chúa Giêsu mà còn là Mẹ chúng ta nữa ! Ngạn ngữ Ấn Độ có câu “Thượng Đến không hiện diện ỏ khắp mọi nơi,mà Ngài dựng lên cho chúng ta một người Mẹ cụ thể và đặt Trái tim của Ngài vào người Mẹ ấy,để người Mẹ chăm sóc các con của Ngài.Phận làm con thì phải hiếu thảo vì Cha mẹ luôn độ lượng với con cái,như Mẹ Maria cũng ban cho chúng ta rất nhiều,nhưng bảo chúng ta bỏ ra một ít để làm bác ái thì cũng rất khó khăn.Cha chúc các gia đình luôn hạnh phúc và Năm Mới hãy cố gắng sống tinh thần Tận hiến và làm nhiều việc bác ái vì bác ái ở đây không chỉ là cho vật chất,mà chúng ta hãy đi thăm viếng và hòa giải những gia đình bất hòa trên tinh thần năm nay còn là Năm Gia đình.
THÁNH LỄ :
Buổi chia sẻ kết thúc tất cả ra ngoài giải lao 10 phút và sau đó cùng hiệp dâng thánh lễ.Các hội viên xuống cuối nhà thờ để rước Cha Giuse Lê Hoàng (Hạt Phó)Linh hướng của Hội,Cha Phó Giuse Phạm Công Minh,Cha Luca Maria Nguyễn Viết Cương,Cha Raymundo Trần Hữu Thảo dòng Mẹ Cứu Chuộc lên bàn thánh.Cha Giuse chủ sự nói với cộng đoàn
Chúng ta quy tụ về nơi đây trong ngày Đầu năm,để cùng dâng lễ cầu nguyện cho cộng đoàn,đặc biệt các ACE trong Hội GĐ Tận hiến và tạ ơn Thiên Chúa vì :Chúng ta được làm người và làm con Thiên Chúa,rồi Chúa còn ban cho chúng ta một người Mẹ tuyệt vời. và nhất là nhìn lại một năm qua chúng ta đã được bình an và chu toàn bổn phận trong gia đình.
Theo bài Tin Mừng Thánh Luca,Cha Raymundo dòng Mẹ Cứu Chuộc (Tổng phụ trách ) đã diễn giảng: Tước hiệu Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa đã có rất lâu trong Giáo hội.Theo tài liệu năm (+ 235) của Thánh Hippolyto tại Roma và năm 431 của Thánh Cyrillio đã chủ trì công đồng Êphêsô.Trong Công đồng này Tín lý đã nêu vấn đề quan trọng là Đức Kitô có hai bản tính Thiên Chúa và con người.Nếu chỉ ở bản tính Thiên Chúa thì Người không thể cứu chuộc vì không thể chịu đau khổ nơi thân xác;còn nếu là bản tính con người thì không thể cứu chuộc được vì con người làm sao cứu được con người ?
Sau Công đồng Êphêsô Tước hiệu Mẹ Maria là chính của Đức Maria trong kinh Kính Mừng”Thánh Maria Đức Mẹ Chúa trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử Amen.” Cậu bé Karol Wojtyla lên 7 tuổi thì mẹ mất,trước khi nhắm mắt bà nói với cậu” Mẹ chết đi,nhưng con sẽ có một bà mẹ tuyệt vời là Đức Maria” và từ đó cậu bé đã sùng kính Đức Mẹ một cách đặc biệt để rồi sau này cậu đã trở thành Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và đã được phong Hiển Thánh.Trong Kinh Thánh có 6 lần Đức Mẹ nói về Thiên Chúa( Lc1,34-1,38-1,40-2,48- và Ga 2,3) thì chỉ có 1 lần mẹ nói về con người “Người bảo gì thì cứ làm theo (Lc 2,5) Ai không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta, là những người đã tận hiến toàn thân cho Mẹ để được đến gần Chúa hơn nữa.Dù chúng ta có bỏ rơi Mẹ , ít tưởng nhớ và cầu xin với Mẹ trong công việc hàng ngày thì Mẹ vẫn không bao giờ bỏ ta, luôn đồng hành với ta mọi nơi, mọi lúc.
Nói tới Giáng Sinh là nói tới bình an vì bình an là ước mơ của tất cả mọi người trên thế giới. Người Việt Nam ta lúc nào cũng mong sao cho được an bình. Sự mơ ước nầy được thể hiện qua tên của các địa phương từ Bắc chí Nam. Chằng hạn như vài ba địa danh quen thuộc:
Ninh Bình, Quảng Bình, Hòa Bình;
Bình Phước, Bình Thuận, Bình An, Bình Đường
Bình Dương, Bình Thạnh, Bình Nhâm;
Bình Sơn, Bình Định, Bình Tân, Bình Hòa.
Bình an là nhu cầu lớn nhất của cuộc sống con người vì sống mà thiếu bình an, đời sống sẽ trở nên vô nghĩa và thất vọng chán chường,như nhiều tài tử, đại gia đã tự tử vv)Chúa Giêsu là thủ lĩnh của bình an,nhưng chính Người khi xuống thế chấp nhận thân phận con người,lại gặp toàn sự “mất bình an”.Chúng ta thường hay nói:“Ở hiền gặp lành”, nhưng Chúa Giê-su ở hiền, nhưng “gặp toàn sự dữ”từ lúc sinh ra cho tới lúc chết trên thánh giá.Vì vậy,mỗi lần chúng ta đau khổ hãy nhìn lên Thánh Giá và chê nghiệm về sự đau khổ của Chúa thì chúng ta sẽ được yên lòng.Muốn thắng kẻ thù thì phải có ba điều: Cầu nguyện,phải cầu nguyện và buộc phải cầu nguyện.Muốn được Thiên Chúa xót thương thì cũng phải có ba điều: có Đức Mẹ,phải có Đức Mẹ và buộc phải có Đức Mẹ.Trong dịp Tận hiến này,chúng ta hãy tự hỏi lòng mình rằng”Chúng ta đã làm việc đạo đức đến đâu rồi?”và hãy nhìn lại bản thân.Cầu chúc cho ACE Gia đình Tận hiến bình an và thêm lòng mến Chúa yêu Người.
Trước khi ban phép lành Cha Giuse Linh hướng cảm ơn Cha Raymundo Tổng phụ trách đã nhiều năm đồng hành và giúp đỡ Hội được thăng tiến rõ rệt trong đời sống Đức Tin.Cảm ơn Cha Luca Maria đã giảng huấn về linh đạo và Cha Giuse Phó xứ đã đồng tế thánh lễ.Cha cũng chúc quý Cha một Năm Mới được nhiều ơn Chúa và ACE của Hội Gia đình Tận hiến và Legio luôn hạnh phúc và bình an.Ca đoàn hát bài kết lễ “Loài người ơi tới Belem kính thờ Ngôi Hai Chúa cao sang.Người sinh xuống cứu muôn dân đang lầm than...”
Mọi người ra về trong niềm hân hoan vì luôn có Mẹ Maria luôn che chở trong cuộc sống của tất cả .
Phương Nga
Mẹ Maria một Eva thứ 2,từ hai tiếng “Xin Vâng” đã đóng góp trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho loài người.Vì sự cao quý này Mẹ đã được Thiên Chúa ân ban cho bốn tước hiệu và một trong bốn tước hiệu ấy là Mẹ Thiên Chúa mà hôm nay hòa chung niềm vui với Giáo hội;Gia đình Tận Hiến hạt Tân Sơn Nhì,Presidia Mẹ Thiên Chúa Legio gx Tân Phú đã hân hoan mừng kính vào lúc 9g30 ngày 01-01-2018 tại thánh đường gx Tân Phú.
Dù chưa đến giờ lễ,nhưng sân nhà thờ Tân Phú đã tràn ngập màu áo dài và sơ mi trắng đồng phục của các hội viên.Hôm nay cũng là Tết Dương lịch nên những cuộc gặp gỡ trở nên sôi động và có nhiều ý nghĩa vì những anh chị em trong Chúa và Mẹ được hội ngộ đông đủ và dâng lễ cùng nhau.Buổi lễ có các phần:
Xem Hình
HỌC HỎI LINH ĐAO CỦA HỘI :
Đúng 9g30 tất cả tập trung tại Hoa viên gx Tân Phú,anh Gioan Maria Ngô Minh Hành ( Hội trưởng GĐ Tận hiến hạt Tân Sơn nhì xướng kinh.Sau khi hát kinh Chúa Thánh Thần,kinh Chúa Sáng Soi,các hội viên đã được nghe Cha Luca Maria Nguyễn Viết Cương dòng Mẹ Cứu Chuộc chia sẻ về chủ đề gia đình dựa theo Thư Thánh Phaolo gửi tín hữu Êphêsô ( 5,21-33) Cha nói: Năm nayvẫn còn là năm gia đình nên Cha muốn nhấn mạnh điều này với cộng đoàn.Hạnh phúc của gia đình phải được xây dựng bằng sự cộng tác của tất cả các thành viên trong đó người chồng là gia trưởng “Người vợ hãy phục tùng chồng như Giáo hội phục tùng Chúa Kitô” (Êphêsô 5,24) nhưng xem ra thòi đại này thật là khó khăn vì nhiều gia đình hiện nay,người vợ đang đóng vai chính trong việc kiếm tiền và địa vị;vì lẽ đó đã có không ít những người phụ nữ chửi chồng,mạt sát và khinh chê kẻ làm gia trưởng.
Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa đã thiết định người nữ được tạo ra từ xương sườn của người nam với trật tự của gia đình,nên dù người nữ có làm ra tiền,địa vị cao hay học cao cũng nên khiêm tốn với chồng và tránh những mạt sát,chê bai và lộng ngôn nữa.Khi người đàn ông bị lép vế thì họ đã cảm thấy tủi thân và chịu đựng lắm rồi,chúng ta không nên dồn ép thêm và Cha hy vọng các chị ỏ đây có lòng mến Chúa thì điều đó sẽ bớt đi.Ai cao sang bằng Chúa Giêsu?Ai đầy ơn phúc bằng Mẹ Maria nhưng cả hai đã tuân phục Thánh cả Giuse trong mọi việc.Khi có những việc trọng đại Thiên Thần luôn hiện ra báo mộng và chỉ vẽ cho Ngài;như vậy dù thế nào,người đàn ông vẫn đóng vai trò gia trưởng trong gia đình.Còn với các ông tuy là gia trưởng nhưng vợ mình là một xương một thịt nên phải chăm sóc và thương yêu,không vũ phu cộc cằn và gây ra sóng gió cho chị em.
Tân hiến cho Mẹ là rất tốt,nhưng như vậy chưa phải là xong vì đó mới chỉ là Hạt giống Chúa ban cho ta,còn phần chăm bón,tưới nước,bắt sâu tỉa lá là chúng ta phải làm.Cha phụ trách Hội nên gần đây Cha thấy trăn trở vì một số nơi bị xuống cấp và rời rạc.Là những hội viên ACE có bao giờ tự hỏi rằng mình đã mời gọi bao nhiêu người đi sinh hoạt và hy sinh chút thời giờ cho Chúa? Và cộng đoàn thì hãy tâm niệm một điều là Chúa luôn đồng hành cùng chúng ta bởi có những người công việc ngập đầu mà vẫn cố gắng tham gia,kết quả cuộc sống rất ổn,ngược lại có người rảnh rỗi mà thờ ơ hoặc né tránh chỉ chăm lo kiếm tiền kết cuộc cũng không được bao nhiêu cả !! Như vậy,chúng ta thấy Chúa,Mẹ Maria và Thánh Giuse luôn che chở và gìn giữ chúng ta.
Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa ngay trong ngày đầu năm mới là Giáo hội rất khôn ngoan và muốn Mẹ Maria không chỉ là Mẹ Chúa Giêsu mà còn là Mẹ chúng ta nữa ! Ngạn ngữ Ấn Độ có câu “Thượng Đến không hiện diện ỏ khắp mọi nơi,mà Ngài dựng lên cho chúng ta một người Mẹ cụ thể và đặt Trái tim của Ngài vào người Mẹ ấy,để người Mẹ chăm sóc các con của Ngài.Phận làm con thì phải hiếu thảo vì Cha mẹ luôn độ lượng với con cái,như Mẹ Maria cũng ban cho chúng ta rất nhiều,nhưng bảo chúng ta bỏ ra một ít để làm bác ái thì cũng rất khó khăn.Cha chúc các gia đình luôn hạnh phúc và Năm Mới hãy cố gắng sống tinh thần Tận hiến và làm nhiều việc bác ái vì bác ái ở đây không chỉ là cho vật chất,mà chúng ta hãy đi thăm viếng và hòa giải những gia đình bất hòa trên tinh thần năm nay còn là Năm Gia đình.
THÁNH LỄ :
Buổi chia sẻ kết thúc tất cả ra ngoài giải lao 10 phút và sau đó cùng hiệp dâng thánh lễ.Các hội viên xuống cuối nhà thờ để rước Cha Giuse Lê Hoàng (Hạt Phó)Linh hướng của Hội,Cha Phó Giuse Phạm Công Minh,Cha Luca Maria Nguyễn Viết Cương,Cha Raymundo Trần Hữu Thảo dòng Mẹ Cứu Chuộc lên bàn thánh.Cha Giuse chủ sự nói với cộng đoàn
Chúng ta quy tụ về nơi đây trong ngày Đầu năm,để cùng dâng lễ cầu nguyện cho cộng đoàn,đặc biệt các ACE trong Hội GĐ Tận hiến và tạ ơn Thiên Chúa vì :Chúng ta được làm người và làm con Thiên Chúa,rồi Chúa còn ban cho chúng ta một người Mẹ tuyệt vời. và nhất là nhìn lại một năm qua chúng ta đã được bình an và chu toàn bổn phận trong gia đình.
Theo bài Tin Mừng Thánh Luca,Cha Raymundo dòng Mẹ Cứu Chuộc (Tổng phụ trách ) đã diễn giảng: Tước hiệu Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa đã có rất lâu trong Giáo hội.Theo tài liệu năm (+ 235) của Thánh Hippolyto tại Roma và năm 431 của Thánh Cyrillio đã chủ trì công đồng Êphêsô.Trong Công đồng này Tín lý đã nêu vấn đề quan trọng là Đức Kitô có hai bản tính Thiên Chúa và con người.Nếu chỉ ở bản tính Thiên Chúa thì Người không thể cứu chuộc vì không thể chịu đau khổ nơi thân xác;còn nếu là bản tính con người thì không thể cứu chuộc được vì con người làm sao cứu được con người ?
Sau Công đồng Êphêsô Tước hiệu Mẹ Maria là chính của Đức Maria trong kinh Kính Mừng”Thánh Maria Đức Mẹ Chúa trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử Amen.” Cậu bé Karol Wojtyla lên 7 tuổi thì mẹ mất,trước khi nhắm mắt bà nói với cậu” Mẹ chết đi,nhưng con sẽ có một bà mẹ tuyệt vời là Đức Maria” và từ đó cậu bé đã sùng kính Đức Mẹ một cách đặc biệt để rồi sau này cậu đã trở thành Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và đã được phong Hiển Thánh.Trong Kinh Thánh có 6 lần Đức Mẹ nói về Thiên Chúa( Lc1,34-1,38-1,40-2,48- và Ga 2,3) thì chỉ có 1 lần mẹ nói về con người “Người bảo gì thì cứ làm theo (Lc 2,5) Ai không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta, là những người đã tận hiến toàn thân cho Mẹ để được đến gần Chúa hơn nữa.Dù chúng ta có bỏ rơi Mẹ , ít tưởng nhớ và cầu xin với Mẹ trong công việc hàng ngày thì Mẹ vẫn không bao giờ bỏ ta, luôn đồng hành với ta mọi nơi, mọi lúc.
Nói tới Giáng Sinh là nói tới bình an vì bình an là ước mơ của tất cả mọi người trên thế giới. Người Việt Nam ta lúc nào cũng mong sao cho được an bình. Sự mơ ước nầy được thể hiện qua tên của các địa phương từ Bắc chí Nam. Chằng hạn như vài ba địa danh quen thuộc:
Ninh Bình, Quảng Bình, Hòa Bình;
Bình Phước, Bình Thuận, Bình An, Bình Đường
Bình Dương, Bình Thạnh, Bình Nhâm;
Bình Sơn, Bình Định, Bình Tân, Bình Hòa.
Bình an là nhu cầu lớn nhất của cuộc sống con người vì sống mà thiếu bình an, đời sống sẽ trở nên vô nghĩa và thất vọng chán chường,như nhiều tài tử, đại gia đã tự tử vv)Chúa Giêsu là thủ lĩnh của bình an,nhưng chính Người khi xuống thế chấp nhận thân phận con người,lại gặp toàn sự “mất bình an”.Chúng ta thường hay nói:“Ở hiền gặp lành”, nhưng Chúa Giê-su ở hiền, nhưng “gặp toàn sự dữ”từ lúc sinh ra cho tới lúc chết trên thánh giá.Vì vậy,mỗi lần chúng ta đau khổ hãy nhìn lên Thánh Giá và chê nghiệm về sự đau khổ của Chúa thì chúng ta sẽ được yên lòng.Muốn thắng kẻ thù thì phải có ba điều: Cầu nguyện,phải cầu nguyện và buộc phải cầu nguyện.Muốn được Thiên Chúa xót thương thì cũng phải có ba điều: có Đức Mẹ,phải có Đức Mẹ và buộc phải có Đức Mẹ.Trong dịp Tận hiến này,chúng ta hãy tự hỏi lòng mình rằng”Chúng ta đã làm việc đạo đức đến đâu rồi?”và hãy nhìn lại bản thân.Cầu chúc cho ACE Gia đình Tận hiến bình an và thêm lòng mến Chúa yêu Người.
Trước khi ban phép lành Cha Giuse Linh hướng cảm ơn Cha Raymundo Tổng phụ trách đã nhiều năm đồng hành và giúp đỡ Hội được thăng tiến rõ rệt trong đời sống Đức Tin.Cảm ơn Cha Luca Maria đã giảng huấn về linh đạo và Cha Giuse Phó xứ đã đồng tế thánh lễ.Cha cũng chúc quý Cha một Năm Mới được nhiều ơn Chúa và ACE của Hội Gia đình Tận hiến và Legio luôn hạnh phúc và bình an.Ca đoàn hát bài kết lễ “Loài người ơi tới Belem kính thờ Ngôi Hai Chúa cao sang.Người sinh xuống cứu muôn dân đang lầm than...”
Mọi người ra về trong niềm hân hoan vì luôn có Mẹ Maria luôn che chở trong cuộc sống của tất cả .
Phương Nga
Gặp Gỡ Ban Điều Hành Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Giáo Phận Đà Nẵng và Tổng Giáo Phận Huế
Tôma Trương Văn Ân
17:23 06/01/2019
Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa Nhật Lễ Hiển Linh ( 6 / 1 / 2019), Ban Điều hành Chương trình Thăng tiến hôn nhân gia đình ( CTTTHN GĐ) Giáo phận Đà Nẵng đã đến mừng Lễ Bổn mạng Giáo xứ Loan Lý – TGP Huế và gặp gỡ Ban Điều hành CTTTHN GĐ Giáo phận Huế , theo lời mời của Cha Phao –lô Nguyễn Luận – Tổng Linh Nguyền Việt Nam , đương kim Quản xứ Loan Lý.
Xem Hình
Hai Ban Điều hành đã cùng nhau cầu nguyện , xin Lời Chúa hướng dẫn , chia sẻ kinh nghiệm trong việc điều hành và phát triển CTTTHN GĐ tại mỗi Giáo phận. những nhận định lượng giá các hoạt động trong thời gian qua và hoạch định chương trình, hướng tới mở các Khóa Căn bản trong năm 2019 tại cả hai Giáo phận.
Trong lời huấn từ, Cha Phao –lô , Tổng Linh Nguyền đã dùng đoạn Tin Mừng của Ngày Lễ Hiển Linh để mời gọi tất cả Song Nguyền: biết nhận ra những dấu chỉ của thời đại như những ánh sao để tìm gặp Chúa . Đồng thời Ngài cũng mời gọi mỗi người , mỗi gia đình là những ánh sao yêu thương , gia đình hòa thuận chan hòa tình thương , để chiếu soi dẫn đường cho những gia đình anh chị em sống xung quanh nơi gia đình mình đang sống và làm việc, được đến với Thiên Chúa tình yêu.
Hiện nay Giáo phận Đà Nẵng có 21 Liên gia Song Nguyền và Giáo phận Huế có 20 Liên gia.
Chủ Nguyền CTTTHN GĐ Giáo phận Đà Nẵng : Anh chị PX Nguyễn Đức Thọ & Anna Hồ Thị Lợi.
Tân Chủ Nguyền CTTTHN GĐ Giáo phận Huế : Anh Chị Anphongsô Nguyễn Ngọc Ý & Maria Trần Thị Hương
Toma Trương Văn Ân
Xem Hình
Hai Ban Điều hành đã cùng nhau cầu nguyện , xin Lời Chúa hướng dẫn , chia sẻ kinh nghiệm trong việc điều hành và phát triển CTTTHN GĐ tại mỗi Giáo phận. những nhận định lượng giá các hoạt động trong thời gian qua và hoạch định chương trình, hướng tới mở các Khóa Căn bản trong năm 2019 tại cả hai Giáo phận.
Trong lời huấn từ, Cha Phao –lô , Tổng Linh Nguyền đã dùng đoạn Tin Mừng của Ngày Lễ Hiển Linh để mời gọi tất cả Song Nguyền: biết nhận ra những dấu chỉ của thời đại như những ánh sao để tìm gặp Chúa . Đồng thời Ngài cũng mời gọi mỗi người , mỗi gia đình là những ánh sao yêu thương , gia đình hòa thuận chan hòa tình thương , để chiếu soi dẫn đường cho những gia đình anh chị em sống xung quanh nơi gia đình mình đang sống và làm việc, được đến với Thiên Chúa tình yêu.
Hiện nay Giáo phận Đà Nẵng có 21 Liên gia Song Nguyền và Giáo phận Huế có 20 Liên gia.
Chủ Nguyền CTTTHN GĐ Giáo phận Đà Nẵng : Anh chị PX Nguyễn Đức Thọ & Anna Hồ Thị Lợi.
Tân Chủ Nguyền CTTTHN GĐ Giáo phận Huế : Anh Chị Anphongsô Nguyễn Ngọc Ý & Maria Trần Thị Hương
Toma Trương Văn Ân
Video Phỏng Vấn Linh Mục Nhạc Sĩ Ân Đức Dòng Xitô VN, Đến Thăm Nam Úc
Jos. Vĩnh SA
20:32 06/01/2019
Trong chương trình “Chân Dung Người Mục Tử” do nhóm TTV Vietcatholic Adelaide thực hiện
Nhân dịp chuyến viếng thăm thành phố Adelaide thủ phủ tiểu bang Nam Úc, của Linh mục Nhạc Sĩ Ân Đức dòng Xitô. Cha đã sáng tác nhiều bài Thánh Ca nổi tiếng.
Anh Chị Em Ban truyền Thông Vietcatholic Adelaide may mắn có dịp gặp gỡ, trò truyện với Linh mục Nhạc sĩ Ân Đức.
Xin mời qúi khán thính giả cùng đón xem
XEM VIDEO PHỎNG VẤN LM. NHẠC SĨ ÂN ĐỨC
Nhân dịp chuyến viếng thăm thành phố Adelaide thủ phủ tiểu bang Nam Úc, của Linh mục Nhạc Sĩ Ân Đức dòng Xitô. Cha đã sáng tác nhiều bài Thánh Ca nổi tiếng.
Anh Chị Em Ban truyền Thông Vietcatholic Adelaide may mắn có dịp gặp gỡ, trò truyện với Linh mục Nhạc sĩ Ân Đức.
Xin mời qúi khán thính giả cùng đón xem
XEM VIDEO PHỎNG VẤN LM. NHẠC SĨ ÂN ĐỨC
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tài Liệu Sau Cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2018 về Giới Trẻ, Phần 2, Chương 1
Vũ Văn An
02:08 06/01/2019
PHẦN II:"Mắt họ mở ra"
58. "Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Chúa Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: 'Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.' Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất."(Lc 24: 27-31).
Sau khi lắng nghe họ, Chúa ngỏ với hai lữ khách một lời “sắc bén" và quyết đoán, lời có thẩm quyền và biến đổi họ. Vì vậy, một cách dịu dàng và mạnh mẽ, Chúa vào nhà của họ, ở lại với họ và chia sẻ bánh sự sống: chính dấu chỉ Thánh Thể đã giúp hai môn đệ cuối cùng mở mắt ra.
Một lễ Ngũ tuần mới
Hành động của Chúa Thánh Thần
59. Chúa Thánh Thần soi sáng trái tim, mở mắt và kích thích đức tin của hai người hành hương. Người đã làm việc từ khi bắt đầu sáng tạo thế giới để dự án của Chúa Cha thâu tóm mọi sự trong Chúa Kitô sẽ đạt được sự thành toàn của nó. Người hành động, mọi lúc và mọi nơi, trong sự đa dạng của các bối cảnh và nền văn hóa, bằng cách, ngay giữa các khó khăn và đau khổ, kích thích sự dấn thân cho công lý, tìm kiếm sự thật, can đảm hy vọng. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô quả quyết rằng "toàn bộ sáng thế cho đến nay đang rên rỉ trong những đau khổ khi sinh nở" (Rm 8, 22). Khát khao sống trong yêu thương và sự lo lắng lành mạnh này trong trái tim người trẻ là một phần của khát vọng mãnh liệt của toàn bộ sáng thế đối với niềm vui viên mãn. Trong mỗi người họ, ngay cả nơi những người không biết Chúa Kitô, Thần Trí Sáng Tạo vẫn hoạt động để dẫn họ đến vẻ đẹp, sự tốt lành và sự thật.
Chúa Thánh Thần làm trẻ trung Giáo hội
60. Tuổi trẻ là thời kỳ độc đáo và đầy kích thích của sự sống, mà chính Chúa Giêsu đã sống, bằng cách thánh hóa nó. Thông Điệp Gửi Người Trẻ của Công đồng Vatican II (ngày 7 tháng 12 năm 1965) đã trình bày Giáo hội như "tuổi trẻ đích thực của thế giới", một tuổi trẻ có "khả năng vui mừng vì những gì đang bắt đầu, tự hiến không cần đáp trả, tự đổi mới và tự lên đường lại để thực hiện các cuộc chinh phục mới". Với sự tươi mới và đức tin của họ, người trẻ góp phần biểu lộ khuôn mặt đó của Giáo hội, khuôn mặt nơi phản ảnh "Đấng Sống vĩ đại, Chúa Kitô đời đời trẻ trung". Do đó, vấn đề không phải là tạo ra một Giáo hội mới cho giới trẻ, mà đúng hơn, là cùng họ tái khám phá ra tuổi trẻ của Giáo hội, bằng cách mở lòng chúng ta đón nhận ơn thánh của một lễ Ngũ tuần mới.
Chúa Thánh Thần trong đời sống tín hữu
61. Ơn gọi của Kitô hữu là theo Chúa Kitô bằng cách bước qua nước Phép Rửa, nhận lãnh dấu ấn Thêm Sức và trở thành thân thể Người trong Bí tích Thánh Thể: "Chúa Thánh Thần đến, chính là lửa sau nước và bạn trở nên bánh, nghĩa là thân thể Chúa Kitô "(Thánh Augustinô, Bài giảng 227). Trong diễn trình khai tâm Kitô giáo, trên hết, chính Phép Thêm Sức giúp các tín hữu thực hiện cảm nghiệm Ngũ tuần và sự tuôn tràn mới của Chúa Thánh Thần để lớn mạnh và thi hành sứ mệnh. Điều quan trọng là phải khám phá lại sự phong phú của bí tích này, để nắm được mối liên hệ của nó với ơn gọi bản thân của mỗi người đã chịu phép rửa và với nền thần học các đặc sủng, để theo dõi tốt nền mục vụ của nó, để nó không trở thành một khoảnh khắc chỉ có hình thức, ít có ý nghĩa. Chúa Thánh Thần là người sáng tạo mọi con đường ơn gọi: Người là "bậc thầy nội tâm", cần phải để Người dẫn dắt chúng ta.
Một trải nghiệm đích thực về Thiên Chúa
62. Điều kiện đầu tiên để biện phân ơn gọi trong Chúa Thánh Thần là một kinh nghiệm đức tin đích thực vào Chúa Kitô đã chết và phục sinh, bằng cách nhớ rằng "đó không phải là một ánh sáng sua tan mọi bóng tối của chúng ta, mà là ngọn đèn dẫn bước chân ta trong đêm tối, và thế là đủ để đi đường "(Đức Phanxicô, Lumen Fidei, số 57). Trong các cộng đồng Kitô giáo, đôi khi chúng ta có nguy cơ đề xuất, vượt ra ngoài ý định, một chủ nghĩa duy thần đạo đức và có tính trị liệu, đáp ứng nhu cầu an toàn và thoải mái cho con người, thay vì một cuộc gặp gỡ sống động với Thiên Chúa dưới ánh sáng Tin Mừng và trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nếu đúng là đời sống chỉ có thể được đánh thức bởi đời sống, thì điều trở nên rõ ràng là người trẻ cần gặp các cộng đồng Kitô hữu bắt rễ sâu trong tình bạn với Chúa Kitô, Đấng hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Cha trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần.
Chương I: Hồng phúc tuổi trẻ
Chúa Giêsu trẻ giữa những người trẻ
Tuổi trẻ của Chúa Giêsu
63. "Trẻ giữa những người trẻ trở thành tấm gương cho những người trẻ tuổi và thánh hiến họ cho Chúa" (Thánh Irênê, Chống lại Các Lạc Giáo, II, 22, 4), Chúa Kitô thánh hóa tuổi trẻ bằng chính sự kiện Người đã sống nó. Câu truyện Sách Thánh trình bày một tình tiết về tuổi trẻ của Chúa Giêsu (x. Lc 2: 41-52), sống không ồn ào, trong cảnh đơn giản và việc làm ở Nadarét, đến nỗi Người được nhận diện là "bác thợ mộc" (Mc 6: 3) và "con trai của bác thợ mộc" (Mt 13:55).
Khi suy ngẫm về cuộc đời của Người, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tuổi trẻ là một hồng phước như thế nào: Chúa Giêsu có một niềm tin tưởng vô điều kiện vào Chúa Cha, Người quan tâm săn sóc tình bạn với các môn đệ và ngay cả trong những lúc gặp khủng hoảng, Người vẫn luôn trung thành. Người đã biểu lộ lòng trắc ẩn sâu sắc đối với những người yếu đuối nhất, đặc biệt là người nghèo, người bệnh, người tội lỗi và những người bị loại trừ. Người đã can đảm đương đầu với các thẩm quyền tôn giáo và chính trị thời bấy giờ; Người đã trải qua kinh nghiệm bị hiểu lầm và bác bỏ; Người cảm thấy sợ đau khổ và biết sự mong manh của Cuộc Khổ Nạn; Người hướng mắt về tương lai, bằng cách phó mình trong bàn tay chắc chắn của Chúa Cha và bằng cách tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong Chúa Giêsu, mọi người trẻ có thể tìm thấy chính họ, với các nỗi sợ hãi và niềm hy vọng, các không chắc chắn và giấc mơ của họ và họ có thể phó thác cho Người. Việc chiêm niệm các cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với các người trẻ sẽ là nguồn linh hứng cho họ.
Với ánh mắt của Chúa
64. Lắng nghe Chúa Kitô và hiệp thông với Người cũng cho phép các mục tử và nhà giáo dục có được một bài đọc khôn ngoan về thời kỳ này của đời sống. Thượng hội đồng cố gắng nhìn người trẻ tuổi bằng thái độ của Chúa Giêsu, để biện phân trong đời sống họ những dấu chỉ hành động của Chúa Thánh Thần. Thực thế, chúng ta tin rằng ngay cả ngày nay, Thiên Chúa vẫn nói chuyện với Giáo hội và thế giới qua giới trẻ, tính sáng tạo và sự dấn thân của họ, cũng như qua các đau khổ và yêu cầu giúp đỡ của họ. Với họ, chúng ta có thể đọc thời đại của chúng ta một cách tiên tri hơn và nhận ra các dấu chỉ của thời đại; đó là lý do tại sao người trẻ là một trong những "môi trường thần học" nơi Chúa làm chúng ta biết một số kỳ vọng và thách thức của nó để xây dựng ngày mai.
Các đặc điểm của tuổi vị thành niên
65. Tuổi trẻ, giai đoạn phát triển nhân cách, được đánh dấu bằng những giấc mơ đang dần dần hình thành, bằng những mối quan hệ ngày càng trở nên nhất quán và cân bằng hơn, bằng những dò dẫm và thử nghiệm, bằng những lựa chọn đang dần dần xây dựng một dự án sống. Vào thời kỳ sống này, người trẻ được kêu gọi tự phóng chiếu lên phía trước, không cắt đứt gốc rễ, xây dựng quyền tự lập của họ, nhưng không phải trong sự cô độc. Bối cảnh xã hội, kinh tế và văn hóa không phải lúc nào cũng cung cấp các điều kiện thuận lợi. Nhiều vị thánh trẻ đã làm cho các đặc điểm của tuổi thiếu niên rạng sáng trong tất cả vẻ đẹp của họ và, trong thời đại của họ, đã là những tiên tri thực sự của sự thay đổi; những tấm gương của họ cho chúng ta thấy người trẻ có khả năng gì khi họ tự mở lòng ra để gặp gỡ Chúa Kitô.
Cả các người trẻ khuyết tật hoặc mắc bệnh cũng có thể cống hiến một sự đóng góp qúy giá. Thượng hội đồng mời gọi các cộng đồng dành chỗ cho các sáng kiến nhằm nhìn nhận họ và cho phép họ trở thành những người chủ động, ví dụ, thông qua việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu cho người khiếm thính, thông qua các lộ trình giáo lý được hoàn thiện tốt, thông qua các thí nghiệm lập hội hoặc hội nhập nghề nghiệp.
Mối lo lắng lành mạnh của người trẻ
66. Người trẻ có một mối lo lắng, trên hết, muốn được lắng nghe, được tôn trọng và đồng hành; họ đánh cuộc với niềm xác tín vào tự do và trách nhiệm của họ. Nhờ kinh nghiệm, Giáo hội biết rằng sự đóng góp của họ có tính nền tảng cho sự đổi mới của mình. Trong một số phương diện, các người trẻ này có thể đi trước các mục tử của họ. Vào buổi sáng Phục sinh, người Môn đệ yêu dấu đã đến ngôi mộ đầu tiên, trong cuộc đua của mình, đến trước Phêrô nặng trĩu bởi tuổi tác và sự phản bội (xin xem Ga 20: 1-10); cũng vậy, trong cộng đồng Kitô giáo, tính năng động của tuổi trẻ là năng lực đổi mới cho Giáo hội, vì nó giúp Giáo Hội cởi bỏ các nặng nhọc và chậm chạp và mở lòng ra đón nhận Đấng Phục sinh. Đồng thời, thái độ của người Môn đệ yêu dấu cho thấy điều quan trọng là phải nối kết với kinh nghiệm của người xưa, để nhận ra vai trò của các mục tử và không đi lên phía trước một mình. Nhờ thế, chúng ta sẽ có bài giao hưởng này, vốn là hoa trái của Chúa Thánh Thần.
Các người trẻ bị thương
67. Giống cuộc sống của mọi người, cuộc sống của người trẻ cũng bị đánh dấu bởi các vết thương. Đó là các vết thương của những thất bại trong lịch sử của chính họ, những ước muốn không thành, các vụ kỳ thị và bất công đã phải chịu, hoặc do sự kiện này là không cảm thấy được yêu thương hoặc được công nhận. Đây là những vết thương của cơ thể và tâm lý. Chúa Kitô, người đã chấp nhận vượt qua cuộc khổ nạn và cái chết, nhờ Thập giá của mình, Người đã tự làm cho mình trở thành hàng xóm của mọi người trẻ đang đau khổ. Cũng có những vết thương tinh thần, sức nặng của các sai lầm mắc phải, mặc cảm có tội sau khi bị nhầm lẫn. Tự hòa giải với các vết thương của chính mình, ngay bây giờ hơn bao giờ hết, là điều kiện cần thiết để sống một cuộc sống tốt. Giáo hội được kêu gọi nâng đỡ mọi người trẻ trong các thử thách của họ và thực hiện các hành động mục vụ thích hợp.
Trở thành người lớn
Tuổi lựa chọn
68. Tuổi trẻ là thời gian sống phải kết thúc để nhường chỗ cho tuổi trưởng thành. Giai đoạn chuyển tiếp này không chỉ là một diễn trình xa rời hình tượng (processus anagraphique) (*), mà nó hàm nghĩa một con đường trưởng thành, không phải lúc nào cũng được môi trường nơi người trẻ sống tạo điều kiện. Thực vậy, tại nhiều vùng, đã có một nền văn hóa tạm thời ủng hộ việc kéo dài vô hạn tuổi thiếu niên và trì hoãn các quyết định; nỗi sợ điều dứt khoát do đó tạo ra một loại tê liệt quyết định. Tuy nhiên, tuổi trẻ không thể mãi là một thời gian lơ lửng: đó là tuổi của các lựa chọn và tính quyến rũ cùng nhiệm vụ lớn nhất của nó hệ ở chính ở điều này. Những người trẻ tuổi đưa ra quyết định trong các lĩnh vực chuyên nghiệp, xã hội, chính trị và các lĩnh vực khác, có tính triệt để hơn, nhằm mang lại cho cuộc sống của họ một hướng đi quyết định. Chính vì các lựa chọn vừa nói, mà người ta nói đến "sự lựa chọn cuộc sống": thực thế, chính cuộc sống, trong tính đặc thù độc đáo của nó, nhận được từ đó định hướng dứt khoát của nó.
Hiện hữu dưới dấu chỉ sứ mệnh
69. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời các bạn trẻ suy nghĩ về cuộc sống của họ trong chân trời sứ mệnh: "Rất nhiều lần trong đời, chúng ta lãng phí thời gian để tự hỏi:" Nhưng tôi là ai? ". Nhưng bạn có thể tự hỏi mình là ai và dành cả cuộc đời để tìm kiếm bạn là ai. Đúng hơn bạn hãy tự hỏi, "Tôi sống cho ai? "" (Đức Phanxicô, Bài phát biểu trong buổi canh thức cầu nguyện để chuẩn bị cho Ngày Giới trẻ Thế giới, Vương Cung Thánh Đường Santa Maria Maggiore, ngày 8 tháng 4 năm 2017). Sự khẳng định này làm sáng tỏ một cách sâu sắc các lựa chọn của cuộc sống, vì nó mời gọi ta đảm nhiệm chúng trong chân trời giải phóng của việc tự hiến chính mình. Đây là cách duy nhất để đạt được hạnh phúc đích thực và lâu dài! Thực tế, "sứ mệnh ở cõi lòng dân Chúa không phải là một phần của cuộc sống tôi cũng không phải là một vật trang trí mà tôi có thể lìa bỏ, cũng không phải là một phụ lục cũng không phải là một khoảnh khắc hiện hữu. Nó là một điều mà tôi không thể nhổ bỏ khỏi hữu thể mình nếu tôi không muốn tự hủy hoại bản thân mình. Tôi là một sứ mệnh trên trái đất này và vì thế, tôi đang ở thế giới này "(Đức Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 273).
Một phương pháp sư phạm có thể chất vấn
70. Sứ mệnh là một la bàn chắc chắn cho đường đời, nhưng không phải là "hoa tiêu", có thể cho thấy toàn bộ diễn trình bằng cách dự đoán. Tự do luôn có một chiều kích rủi ro cần phải được trân qúi một cách can đảm, và được đồng hành một cách tiệm tiến, khôn ngoan. Nhiều trang Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, Đấng mời gọi chúng ta dám ra khơi, từ luận lý học tuân giữ các giới răn bước qua việc hiến mình một cách quảng đại và vô điều kiện, mà không che giấu yêu cầu phải vác thập giá của mình (x. Mt 16:24). Người triệt để: "Người cho đi mọi sự và yêu cầu mọi sự: Người cho đi một tình yêu trọn vẹn và yêu cầu một trái tim không phân chia" (Đức Phanxicô, Bài Giảng ngày 14 tháng 10 năm 2018). Bằng cách tránh đánh lừa người trẻ bằng những đề xuất duy giản lược hoặc đè nặng họ bằng một bộ quy tắc tạo ra một hình ảnh giảm thiểu và dạy đời cho Kitô Giáo, chúng ta được kêu gọi đánh cuộc trên sự táo bạo của họ, khuyến khích họ và huấn luyện họ chịu lãnh trách nhiệm, chắc chắn rằng lầm lỗi, thất bại và khủng hoảng cũng tạo nên những kinh nghiệm có thể giúp họ lớn lên về phương diện nhân bản.
Ý nghĩa thực sự của thẩm quyền
71. Để thực hiện một hành trình trưởng thành thực sự, người trẻ cần người lớn thi hành thẩm quyền. Theo nghĩa từ nguyên của nó, auctoritas (thẩm quyền) chỉ khả năng làm cho lớn lên; nó không nói lên ý tưởng về một sức mạnh ra chỉ thị, mà là một sức mạnh sinh sản thực sự. Khi Chúa Giêsu gặp các người trẻ, thuộc đủ bậc sống và điều kiện, thậm chí cả chết nữa, bằng cách này hay cách khác, Người thường nói với họ: "Hãy đứng dậy đi! Hãy lớn lên! ". Và lời của Người đã đáp ứng những gì Người nói (xin xem Mc 5: 41, Lc 7:14). Trong tình tiết chữa lành người động kinh bị quỉ ám (x. Mc 9: 14-29), một tình tiết gợi lên nhiều hình thức tha hóa của giới trẻ ngày nay, điều xem ra rõ ràng là nắm tay của Chúa Giêsu không nhằm lấy đi sự tự do, mà là để kích thích nó, giải phóng nó. Chúa Giêsu thi hành đầy đủ thẩm quyền của Người: Người không muốn gì hơn là sự trưởng thành của người trẻ, không có bất cứ ý muốn chiếm hữu, thao túng hay rù quyến nào.
Mối liên kết với gia đình
72. Gia đình là cộng đồng đức tin đầu tiên, nơi, bất chấp các giới hạn và bất toàn, người trẻ trải nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bắt đầu biện phân ơn gọi của riêng mình. Các Thượng hội đồng trước đây, sau đó là Tông huấn Amoris laetitia, không ngừng nhấn mạnh rằng gia đình, trong tư cách một giáo hội tại gia, có nhiệm vụ sống niềm vui Tin mừng trong cuộc sống hàng ngày và làm cho mọi thành viên Giáo Hội tham gia vào đó theo điều kiện riêng của họ, bằng cách giúp họ mãi cởi mở đối với chiều kích ơn gọi và truyền giáo.
Tuy nhiên, không phải tất cả các gia đình đều luôn dạy con cái họ nhìn về tương lai từ viễn tượng ơn gọi. Đôi khi việc theo đuổi tiếng tăm xã hội hoặc thành công bản thân, tham vọng của cha mẹ hoặc xu hướng ấn định lựa chọn cho con cái, xâm chiếm hết không gian biện phân và lên điều kiện cho các quyết định. Thượng hội đồng nhìn nhận sự cần thiết phải giúp các gia đình nhận được cách rõ ràng hơn một quan niệm về cuộc sống như một ơn gọi. Câu chuyện Tin Mừng về Chúa Giêsu lúc thiếu niên (x. Lc 2: 41-52), vâng lời cha mẹ, nhưng vẫn có khả năng tự tách mình ra khỏi họ để chăm lo sự việc của Chúa Cha, có thể cung hiến nhiều ánh sáng quý giá để hướng dẫn các mối liên hệ gia đình trong ý hướng Tin Mừng.
Được kêu gọi tới tự do
Tin Mừng về tự do
73.Tự do là một điều kiện chủ yếu cho một sự lựa chọn đích thực của đời sống. Tuy nhiên, nó có nguy cơ bị hiểu lầm, nhất là vì không phải lúc nào nó cũng được trình bày chính xác. Dưới mắt nhiều người trẻ, chính Giáo hội kết cục bị xem như như một định chế chuyên áp đặt các quy tắc, cấm đoán và nghĩa vụ. Hoặc, Chúa Kitô đã "giải phóng chúng ta cho tự do" (Gal 5: 1), giúp chúng ta vượt khỏi chế độ của Luật lệ để bước vào chế độ của Chúa Thánh Thần. Ngày nay, dưới ánh sáng Tin mừng, điều hợp thời là nhìn nhận một cách rõ ràng hơn rằng tự do từ trong cốt lõi của nó vốn có tính tương quan và cho thấy các đam mê và xúc cảm là điều quan trọng trong chừng mực chúng dẫn chúng ta đến cuộc gặp gỡ đích thực với người khác. Một viễn ảnh như vậy rõ ràng chứng thực rằng tự do đích thực là điều chỉ có thể hiểu được và khả hữu trong tương quan với sự thật (xem Ga 8: 31-32) và nhất là đức ái (1 Cr 13: 1-13;, 13): tự do là trở nên chính mình trong trái tim của một người khác.
Một tự do có tính đáp ứng
74. Qua tình huynh đệ và tình liên đới, nhất là với những người bé nhỏ nhất, người trẻ phát hiện ra rằng tự do đích thực nảy sinh từ cảm quan thấy mình được lắng nghe và nó phát triển bằng cách dành chỗ cho người khác. Họ cũng thực hiện một trải nghiệm tương tự khi cố gắng trau dồi sự tiết độ hoặc tôn trọng môi trường. Trải nghiệm công nhận hỗ tương và cam kết chung dẫn họ tới chỗ phát hiện ra rằng trái tim của họ được mời gọi thầm lặng tiến đến tình yêu vốn phát xuất từ Thiên Chúa. Nhờ thế, người ta trở nên dễ dàng hơn trong việc nhận ra chiều kích siêu việt mà tự do vốn mang theo nó từ nguyên thủy và là một chiều kích, khi tiếp xúc với những trải nghiệm mãnh liệt nhất của cuộc sống - sinh và tử, tình bạn và tình yêu, lỗi lầm và tha thứ - tự đánh thức nó một cách rõ ràng hơn. Các kinh nghiệm này giúp nhận ra rằng bản chất của tự do có tính đáp ứng triệt để.
Tự do và đức tin
75. Hơn 50 năm trước, Thánh Phaolô VI đã dẫn nhập cụm từ "đối thoại ơn cứu rỗi" và giải thích sứ mệnh của Chúa Con trên thế giới như biểu thức của "đòi hỏi yêu đương đáng sợ". Tuy nhiên, ngài nói thêm rằng chúng ta "được tự do đáp ứng hoặc từ chối nó" (Ecclesiam suam, số 77). Trong viễn cảnh này, hành vi đức tin bản thân xuất hiện như tự do và giải thoát: nó sẽ là khởi điểm cho việc dần dần sở hữu hóa các nội dung của đức tin. Vì vậy, đức tin không tạo nên một yếu tố được thêm vào gần như từ bên ngoài cho tự do, nhưng nó đáp ứng mong muốn của lương tâm luôn khao khát sự thật, điều tốt và điều đẹp, bằng cách chào đón chúng một cách trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Chứng từ của nhiều vị tử đạo trẻ trong quá khứ và trong hiện tại, từng vang dội mạnh mẽ tại Thượng hội đồng, là bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy đức tin trở thành tự do trong tương quan với các thế lực trần gian, các bất công và thậm chí cả cái chết nữa.
Tự do bị thương tích và được chuộc lại
76. Tự do của con người được đánh dấu bằng những vết thương của tội lỗi bản thân và tư dục. Nhưng khi, nhờ sự tha thứ và lòng thương xót, con người nhận thức được các trở ngại giam hãm họ, họ lớn lên trong độ chín mùi và có thể dấn thân một cách sáng suốt hơn vào các lựa chọn dứt khoát của cuộc sống. Trong viễn tượng giáo dục, điều quan trọng là giúp người trẻ không nản lòng trước những sai lầm và thất bại, thậm chí cả các nhục nhã nữa, vì chúng là một phần cấu thành ra con đường dẫn đến một sự tự do chín mùi hơn, ý thức được sự vĩ đại và yếu đuối của nó.
Tuy nhiên, cái ác không có lời cuối cùng: "Vì Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban cho họ Người Con duy nhất của mình" (Ga 3:16). Người yêu chúng ta đến cùng và do đó chuộc lại tự do của chúng ta. Bằng việc chết vì chúng ta trên thập giá, Người đã ban phát Chúa Thánh Thần và "Thần Khí của Chúa ở đâu, ở đấy, có tự do" (2 Cr 3: 17): một sư tự do mới mẻ, vượt qua, được hoàn thành trong việc tự hiến hàng ngày.
Kỳ sau: Chương 2: Mầu nhiệm của ơn gọi
______________________________________________________________________________________________________________
(*) Có bản Việt Ngữ dịch cụm từ này là "diễn trình khám phá"; thực ra "anagraphique" gồm tiền từ ana (chữ Hy Lạp có nghĩa là xa rời, như trong anachorète (xa lìa xã hội = ẩn sĩ), và "graphique" (họa hình) chúng tôi tạm dịch là "diễn trình xa rời hình tượng" (từ thiếu niên qua tuởi trưởng thành).
58. "Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Chúa Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: 'Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.' Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất."(Lc 24: 27-31).
Sau khi lắng nghe họ, Chúa ngỏ với hai lữ khách một lời “sắc bén" và quyết đoán, lời có thẩm quyền và biến đổi họ. Vì vậy, một cách dịu dàng và mạnh mẽ, Chúa vào nhà của họ, ở lại với họ và chia sẻ bánh sự sống: chính dấu chỉ Thánh Thể đã giúp hai môn đệ cuối cùng mở mắt ra.
Một lễ Ngũ tuần mới
Hành động của Chúa Thánh Thần
59. Chúa Thánh Thần soi sáng trái tim, mở mắt và kích thích đức tin của hai người hành hương. Người đã làm việc từ khi bắt đầu sáng tạo thế giới để dự án của Chúa Cha thâu tóm mọi sự trong Chúa Kitô sẽ đạt được sự thành toàn của nó. Người hành động, mọi lúc và mọi nơi, trong sự đa dạng của các bối cảnh và nền văn hóa, bằng cách, ngay giữa các khó khăn và đau khổ, kích thích sự dấn thân cho công lý, tìm kiếm sự thật, can đảm hy vọng. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô quả quyết rằng "toàn bộ sáng thế cho đến nay đang rên rỉ trong những đau khổ khi sinh nở" (Rm 8, 22). Khát khao sống trong yêu thương và sự lo lắng lành mạnh này trong trái tim người trẻ là một phần của khát vọng mãnh liệt của toàn bộ sáng thế đối với niềm vui viên mãn. Trong mỗi người họ, ngay cả nơi những người không biết Chúa Kitô, Thần Trí Sáng Tạo vẫn hoạt động để dẫn họ đến vẻ đẹp, sự tốt lành và sự thật.
Chúa Thánh Thần làm trẻ trung Giáo hội
60. Tuổi trẻ là thời kỳ độc đáo và đầy kích thích của sự sống, mà chính Chúa Giêsu đã sống, bằng cách thánh hóa nó. Thông Điệp Gửi Người Trẻ của Công đồng Vatican II (ngày 7 tháng 12 năm 1965) đã trình bày Giáo hội như "tuổi trẻ đích thực của thế giới", một tuổi trẻ có "khả năng vui mừng vì những gì đang bắt đầu, tự hiến không cần đáp trả, tự đổi mới và tự lên đường lại để thực hiện các cuộc chinh phục mới". Với sự tươi mới và đức tin của họ, người trẻ góp phần biểu lộ khuôn mặt đó của Giáo hội, khuôn mặt nơi phản ảnh "Đấng Sống vĩ đại, Chúa Kitô đời đời trẻ trung". Do đó, vấn đề không phải là tạo ra một Giáo hội mới cho giới trẻ, mà đúng hơn, là cùng họ tái khám phá ra tuổi trẻ của Giáo hội, bằng cách mở lòng chúng ta đón nhận ơn thánh của một lễ Ngũ tuần mới.
Chúa Thánh Thần trong đời sống tín hữu
61. Ơn gọi của Kitô hữu là theo Chúa Kitô bằng cách bước qua nước Phép Rửa, nhận lãnh dấu ấn Thêm Sức và trở thành thân thể Người trong Bí tích Thánh Thể: "Chúa Thánh Thần đến, chính là lửa sau nước và bạn trở nên bánh, nghĩa là thân thể Chúa Kitô "(Thánh Augustinô, Bài giảng 227). Trong diễn trình khai tâm Kitô giáo, trên hết, chính Phép Thêm Sức giúp các tín hữu thực hiện cảm nghiệm Ngũ tuần và sự tuôn tràn mới của Chúa Thánh Thần để lớn mạnh và thi hành sứ mệnh. Điều quan trọng là phải khám phá lại sự phong phú của bí tích này, để nắm được mối liên hệ của nó với ơn gọi bản thân của mỗi người đã chịu phép rửa và với nền thần học các đặc sủng, để theo dõi tốt nền mục vụ của nó, để nó không trở thành một khoảnh khắc chỉ có hình thức, ít có ý nghĩa. Chúa Thánh Thần là người sáng tạo mọi con đường ơn gọi: Người là "bậc thầy nội tâm", cần phải để Người dẫn dắt chúng ta.
Một trải nghiệm đích thực về Thiên Chúa
62. Điều kiện đầu tiên để biện phân ơn gọi trong Chúa Thánh Thần là một kinh nghiệm đức tin đích thực vào Chúa Kitô đã chết và phục sinh, bằng cách nhớ rằng "đó không phải là một ánh sáng sua tan mọi bóng tối của chúng ta, mà là ngọn đèn dẫn bước chân ta trong đêm tối, và thế là đủ để đi đường "(Đức Phanxicô, Lumen Fidei, số 57). Trong các cộng đồng Kitô giáo, đôi khi chúng ta có nguy cơ đề xuất, vượt ra ngoài ý định, một chủ nghĩa duy thần đạo đức và có tính trị liệu, đáp ứng nhu cầu an toàn và thoải mái cho con người, thay vì một cuộc gặp gỡ sống động với Thiên Chúa dưới ánh sáng Tin Mừng và trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nếu đúng là đời sống chỉ có thể được đánh thức bởi đời sống, thì điều trở nên rõ ràng là người trẻ cần gặp các cộng đồng Kitô hữu bắt rễ sâu trong tình bạn với Chúa Kitô, Đấng hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Cha trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần.
Chương I: Hồng phúc tuổi trẻ
Chúa Giêsu trẻ giữa những người trẻ
Tuổi trẻ của Chúa Giêsu
63. "Trẻ giữa những người trẻ trở thành tấm gương cho những người trẻ tuổi và thánh hiến họ cho Chúa" (Thánh Irênê, Chống lại Các Lạc Giáo, II, 22, 4), Chúa Kitô thánh hóa tuổi trẻ bằng chính sự kiện Người đã sống nó. Câu truyện Sách Thánh trình bày một tình tiết về tuổi trẻ của Chúa Giêsu (x. Lc 2: 41-52), sống không ồn ào, trong cảnh đơn giản và việc làm ở Nadarét, đến nỗi Người được nhận diện là "bác thợ mộc" (Mc 6: 3) và "con trai của bác thợ mộc" (Mt 13:55).
Khi suy ngẫm về cuộc đời của Người, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tuổi trẻ là một hồng phước như thế nào: Chúa Giêsu có một niềm tin tưởng vô điều kiện vào Chúa Cha, Người quan tâm săn sóc tình bạn với các môn đệ và ngay cả trong những lúc gặp khủng hoảng, Người vẫn luôn trung thành. Người đã biểu lộ lòng trắc ẩn sâu sắc đối với những người yếu đuối nhất, đặc biệt là người nghèo, người bệnh, người tội lỗi và những người bị loại trừ. Người đã can đảm đương đầu với các thẩm quyền tôn giáo và chính trị thời bấy giờ; Người đã trải qua kinh nghiệm bị hiểu lầm và bác bỏ; Người cảm thấy sợ đau khổ và biết sự mong manh của Cuộc Khổ Nạn; Người hướng mắt về tương lai, bằng cách phó mình trong bàn tay chắc chắn của Chúa Cha và bằng cách tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong Chúa Giêsu, mọi người trẻ có thể tìm thấy chính họ, với các nỗi sợ hãi và niềm hy vọng, các không chắc chắn và giấc mơ của họ và họ có thể phó thác cho Người. Việc chiêm niệm các cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với các người trẻ sẽ là nguồn linh hứng cho họ.
Với ánh mắt của Chúa
64. Lắng nghe Chúa Kitô và hiệp thông với Người cũng cho phép các mục tử và nhà giáo dục có được một bài đọc khôn ngoan về thời kỳ này của đời sống. Thượng hội đồng cố gắng nhìn người trẻ tuổi bằng thái độ của Chúa Giêsu, để biện phân trong đời sống họ những dấu chỉ hành động của Chúa Thánh Thần. Thực thế, chúng ta tin rằng ngay cả ngày nay, Thiên Chúa vẫn nói chuyện với Giáo hội và thế giới qua giới trẻ, tính sáng tạo và sự dấn thân của họ, cũng như qua các đau khổ và yêu cầu giúp đỡ của họ. Với họ, chúng ta có thể đọc thời đại của chúng ta một cách tiên tri hơn và nhận ra các dấu chỉ của thời đại; đó là lý do tại sao người trẻ là một trong những "môi trường thần học" nơi Chúa làm chúng ta biết một số kỳ vọng và thách thức của nó để xây dựng ngày mai.
Các đặc điểm của tuổi vị thành niên
65. Tuổi trẻ, giai đoạn phát triển nhân cách, được đánh dấu bằng những giấc mơ đang dần dần hình thành, bằng những mối quan hệ ngày càng trở nên nhất quán và cân bằng hơn, bằng những dò dẫm và thử nghiệm, bằng những lựa chọn đang dần dần xây dựng một dự án sống. Vào thời kỳ sống này, người trẻ được kêu gọi tự phóng chiếu lên phía trước, không cắt đứt gốc rễ, xây dựng quyền tự lập của họ, nhưng không phải trong sự cô độc. Bối cảnh xã hội, kinh tế và văn hóa không phải lúc nào cũng cung cấp các điều kiện thuận lợi. Nhiều vị thánh trẻ đã làm cho các đặc điểm của tuổi thiếu niên rạng sáng trong tất cả vẻ đẹp của họ và, trong thời đại của họ, đã là những tiên tri thực sự của sự thay đổi; những tấm gương của họ cho chúng ta thấy người trẻ có khả năng gì khi họ tự mở lòng ra để gặp gỡ Chúa Kitô.
Cả các người trẻ khuyết tật hoặc mắc bệnh cũng có thể cống hiến một sự đóng góp qúy giá. Thượng hội đồng mời gọi các cộng đồng dành chỗ cho các sáng kiến nhằm nhìn nhận họ và cho phép họ trở thành những người chủ động, ví dụ, thông qua việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu cho người khiếm thính, thông qua các lộ trình giáo lý được hoàn thiện tốt, thông qua các thí nghiệm lập hội hoặc hội nhập nghề nghiệp.
Mối lo lắng lành mạnh của người trẻ
66. Người trẻ có một mối lo lắng, trên hết, muốn được lắng nghe, được tôn trọng và đồng hành; họ đánh cuộc với niềm xác tín vào tự do và trách nhiệm của họ. Nhờ kinh nghiệm, Giáo hội biết rằng sự đóng góp của họ có tính nền tảng cho sự đổi mới của mình. Trong một số phương diện, các người trẻ này có thể đi trước các mục tử của họ. Vào buổi sáng Phục sinh, người Môn đệ yêu dấu đã đến ngôi mộ đầu tiên, trong cuộc đua của mình, đến trước Phêrô nặng trĩu bởi tuổi tác và sự phản bội (xin xem Ga 20: 1-10); cũng vậy, trong cộng đồng Kitô giáo, tính năng động của tuổi trẻ là năng lực đổi mới cho Giáo hội, vì nó giúp Giáo Hội cởi bỏ các nặng nhọc và chậm chạp và mở lòng ra đón nhận Đấng Phục sinh. Đồng thời, thái độ của người Môn đệ yêu dấu cho thấy điều quan trọng là phải nối kết với kinh nghiệm của người xưa, để nhận ra vai trò của các mục tử và không đi lên phía trước một mình. Nhờ thế, chúng ta sẽ có bài giao hưởng này, vốn là hoa trái của Chúa Thánh Thần.
Các người trẻ bị thương
67. Giống cuộc sống của mọi người, cuộc sống của người trẻ cũng bị đánh dấu bởi các vết thương. Đó là các vết thương của những thất bại trong lịch sử của chính họ, những ước muốn không thành, các vụ kỳ thị và bất công đã phải chịu, hoặc do sự kiện này là không cảm thấy được yêu thương hoặc được công nhận. Đây là những vết thương của cơ thể và tâm lý. Chúa Kitô, người đã chấp nhận vượt qua cuộc khổ nạn và cái chết, nhờ Thập giá của mình, Người đã tự làm cho mình trở thành hàng xóm của mọi người trẻ đang đau khổ. Cũng có những vết thương tinh thần, sức nặng của các sai lầm mắc phải, mặc cảm có tội sau khi bị nhầm lẫn. Tự hòa giải với các vết thương của chính mình, ngay bây giờ hơn bao giờ hết, là điều kiện cần thiết để sống một cuộc sống tốt. Giáo hội được kêu gọi nâng đỡ mọi người trẻ trong các thử thách của họ và thực hiện các hành động mục vụ thích hợp.
Trở thành người lớn
Tuổi lựa chọn
68. Tuổi trẻ là thời gian sống phải kết thúc để nhường chỗ cho tuổi trưởng thành. Giai đoạn chuyển tiếp này không chỉ là một diễn trình xa rời hình tượng (processus anagraphique) (*), mà nó hàm nghĩa một con đường trưởng thành, không phải lúc nào cũng được môi trường nơi người trẻ sống tạo điều kiện. Thực vậy, tại nhiều vùng, đã có một nền văn hóa tạm thời ủng hộ việc kéo dài vô hạn tuổi thiếu niên và trì hoãn các quyết định; nỗi sợ điều dứt khoát do đó tạo ra một loại tê liệt quyết định. Tuy nhiên, tuổi trẻ không thể mãi là một thời gian lơ lửng: đó là tuổi của các lựa chọn và tính quyến rũ cùng nhiệm vụ lớn nhất của nó hệ ở chính ở điều này. Những người trẻ tuổi đưa ra quyết định trong các lĩnh vực chuyên nghiệp, xã hội, chính trị và các lĩnh vực khác, có tính triệt để hơn, nhằm mang lại cho cuộc sống của họ một hướng đi quyết định. Chính vì các lựa chọn vừa nói, mà người ta nói đến "sự lựa chọn cuộc sống": thực thế, chính cuộc sống, trong tính đặc thù độc đáo của nó, nhận được từ đó định hướng dứt khoát của nó.
Hiện hữu dưới dấu chỉ sứ mệnh
69. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời các bạn trẻ suy nghĩ về cuộc sống của họ trong chân trời sứ mệnh: "Rất nhiều lần trong đời, chúng ta lãng phí thời gian để tự hỏi:" Nhưng tôi là ai? ". Nhưng bạn có thể tự hỏi mình là ai và dành cả cuộc đời để tìm kiếm bạn là ai. Đúng hơn bạn hãy tự hỏi, "Tôi sống cho ai? "" (Đức Phanxicô, Bài phát biểu trong buổi canh thức cầu nguyện để chuẩn bị cho Ngày Giới trẻ Thế giới, Vương Cung Thánh Đường Santa Maria Maggiore, ngày 8 tháng 4 năm 2017). Sự khẳng định này làm sáng tỏ một cách sâu sắc các lựa chọn của cuộc sống, vì nó mời gọi ta đảm nhiệm chúng trong chân trời giải phóng của việc tự hiến chính mình. Đây là cách duy nhất để đạt được hạnh phúc đích thực và lâu dài! Thực tế, "sứ mệnh ở cõi lòng dân Chúa không phải là một phần của cuộc sống tôi cũng không phải là một vật trang trí mà tôi có thể lìa bỏ, cũng không phải là một phụ lục cũng không phải là một khoảnh khắc hiện hữu. Nó là một điều mà tôi không thể nhổ bỏ khỏi hữu thể mình nếu tôi không muốn tự hủy hoại bản thân mình. Tôi là một sứ mệnh trên trái đất này và vì thế, tôi đang ở thế giới này "(Đức Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 273).
Một phương pháp sư phạm có thể chất vấn
70. Sứ mệnh là một la bàn chắc chắn cho đường đời, nhưng không phải là "hoa tiêu", có thể cho thấy toàn bộ diễn trình bằng cách dự đoán. Tự do luôn có một chiều kích rủi ro cần phải được trân qúi một cách can đảm, và được đồng hành một cách tiệm tiến, khôn ngoan. Nhiều trang Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, Đấng mời gọi chúng ta dám ra khơi, từ luận lý học tuân giữ các giới răn bước qua việc hiến mình một cách quảng đại và vô điều kiện, mà không che giấu yêu cầu phải vác thập giá của mình (x. Mt 16:24). Người triệt để: "Người cho đi mọi sự và yêu cầu mọi sự: Người cho đi một tình yêu trọn vẹn và yêu cầu một trái tim không phân chia" (Đức Phanxicô, Bài Giảng ngày 14 tháng 10 năm 2018). Bằng cách tránh đánh lừa người trẻ bằng những đề xuất duy giản lược hoặc đè nặng họ bằng một bộ quy tắc tạo ra một hình ảnh giảm thiểu và dạy đời cho Kitô Giáo, chúng ta được kêu gọi đánh cuộc trên sự táo bạo của họ, khuyến khích họ và huấn luyện họ chịu lãnh trách nhiệm, chắc chắn rằng lầm lỗi, thất bại và khủng hoảng cũng tạo nên những kinh nghiệm có thể giúp họ lớn lên về phương diện nhân bản.
Ý nghĩa thực sự của thẩm quyền
71. Để thực hiện một hành trình trưởng thành thực sự, người trẻ cần người lớn thi hành thẩm quyền. Theo nghĩa từ nguyên của nó, auctoritas (thẩm quyền) chỉ khả năng làm cho lớn lên; nó không nói lên ý tưởng về một sức mạnh ra chỉ thị, mà là một sức mạnh sinh sản thực sự. Khi Chúa Giêsu gặp các người trẻ, thuộc đủ bậc sống và điều kiện, thậm chí cả chết nữa, bằng cách này hay cách khác, Người thường nói với họ: "Hãy đứng dậy đi! Hãy lớn lên! ". Và lời của Người đã đáp ứng những gì Người nói (xin xem Mc 5: 41, Lc 7:14). Trong tình tiết chữa lành người động kinh bị quỉ ám (x. Mc 9: 14-29), một tình tiết gợi lên nhiều hình thức tha hóa của giới trẻ ngày nay, điều xem ra rõ ràng là nắm tay của Chúa Giêsu không nhằm lấy đi sự tự do, mà là để kích thích nó, giải phóng nó. Chúa Giêsu thi hành đầy đủ thẩm quyền của Người: Người không muốn gì hơn là sự trưởng thành của người trẻ, không có bất cứ ý muốn chiếm hữu, thao túng hay rù quyến nào.
Mối liên kết với gia đình
72. Gia đình là cộng đồng đức tin đầu tiên, nơi, bất chấp các giới hạn và bất toàn, người trẻ trải nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bắt đầu biện phân ơn gọi của riêng mình. Các Thượng hội đồng trước đây, sau đó là Tông huấn Amoris laetitia, không ngừng nhấn mạnh rằng gia đình, trong tư cách một giáo hội tại gia, có nhiệm vụ sống niềm vui Tin mừng trong cuộc sống hàng ngày và làm cho mọi thành viên Giáo Hội tham gia vào đó theo điều kiện riêng của họ, bằng cách giúp họ mãi cởi mở đối với chiều kích ơn gọi và truyền giáo.
Tuy nhiên, không phải tất cả các gia đình đều luôn dạy con cái họ nhìn về tương lai từ viễn tượng ơn gọi. Đôi khi việc theo đuổi tiếng tăm xã hội hoặc thành công bản thân, tham vọng của cha mẹ hoặc xu hướng ấn định lựa chọn cho con cái, xâm chiếm hết không gian biện phân và lên điều kiện cho các quyết định. Thượng hội đồng nhìn nhận sự cần thiết phải giúp các gia đình nhận được cách rõ ràng hơn một quan niệm về cuộc sống như một ơn gọi. Câu chuyện Tin Mừng về Chúa Giêsu lúc thiếu niên (x. Lc 2: 41-52), vâng lời cha mẹ, nhưng vẫn có khả năng tự tách mình ra khỏi họ để chăm lo sự việc của Chúa Cha, có thể cung hiến nhiều ánh sáng quý giá để hướng dẫn các mối liên hệ gia đình trong ý hướng Tin Mừng.
Được kêu gọi tới tự do
Tin Mừng về tự do
73.Tự do là một điều kiện chủ yếu cho một sự lựa chọn đích thực của đời sống. Tuy nhiên, nó có nguy cơ bị hiểu lầm, nhất là vì không phải lúc nào nó cũng được trình bày chính xác. Dưới mắt nhiều người trẻ, chính Giáo hội kết cục bị xem như như một định chế chuyên áp đặt các quy tắc, cấm đoán và nghĩa vụ. Hoặc, Chúa Kitô đã "giải phóng chúng ta cho tự do" (Gal 5: 1), giúp chúng ta vượt khỏi chế độ của Luật lệ để bước vào chế độ của Chúa Thánh Thần. Ngày nay, dưới ánh sáng Tin mừng, điều hợp thời là nhìn nhận một cách rõ ràng hơn rằng tự do từ trong cốt lõi của nó vốn có tính tương quan và cho thấy các đam mê và xúc cảm là điều quan trọng trong chừng mực chúng dẫn chúng ta đến cuộc gặp gỡ đích thực với người khác. Một viễn ảnh như vậy rõ ràng chứng thực rằng tự do đích thực là điều chỉ có thể hiểu được và khả hữu trong tương quan với sự thật (xem Ga 8: 31-32) và nhất là đức ái (1 Cr 13: 1-13;, 13): tự do là trở nên chính mình trong trái tim của một người khác.
Một tự do có tính đáp ứng
74. Qua tình huynh đệ và tình liên đới, nhất là với những người bé nhỏ nhất, người trẻ phát hiện ra rằng tự do đích thực nảy sinh từ cảm quan thấy mình được lắng nghe và nó phát triển bằng cách dành chỗ cho người khác. Họ cũng thực hiện một trải nghiệm tương tự khi cố gắng trau dồi sự tiết độ hoặc tôn trọng môi trường. Trải nghiệm công nhận hỗ tương và cam kết chung dẫn họ tới chỗ phát hiện ra rằng trái tim của họ được mời gọi thầm lặng tiến đến tình yêu vốn phát xuất từ Thiên Chúa. Nhờ thế, người ta trở nên dễ dàng hơn trong việc nhận ra chiều kích siêu việt mà tự do vốn mang theo nó từ nguyên thủy và là một chiều kích, khi tiếp xúc với những trải nghiệm mãnh liệt nhất của cuộc sống - sinh và tử, tình bạn và tình yêu, lỗi lầm và tha thứ - tự đánh thức nó một cách rõ ràng hơn. Các kinh nghiệm này giúp nhận ra rằng bản chất của tự do có tính đáp ứng triệt để.
Tự do và đức tin
75. Hơn 50 năm trước, Thánh Phaolô VI đã dẫn nhập cụm từ "đối thoại ơn cứu rỗi" và giải thích sứ mệnh của Chúa Con trên thế giới như biểu thức của "đòi hỏi yêu đương đáng sợ". Tuy nhiên, ngài nói thêm rằng chúng ta "được tự do đáp ứng hoặc từ chối nó" (Ecclesiam suam, số 77). Trong viễn cảnh này, hành vi đức tin bản thân xuất hiện như tự do và giải thoát: nó sẽ là khởi điểm cho việc dần dần sở hữu hóa các nội dung của đức tin. Vì vậy, đức tin không tạo nên một yếu tố được thêm vào gần như từ bên ngoài cho tự do, nhưng nó đáp ứng mong muốn của lương tâm luôn khao khát sự thật, điều tốt và điều đẹp, bằng cách chào đón chúng một cách trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Chứng từ của nhiều vị tử đạo trẻ trong quá khứ và trong hiện tại, từng vang dội mạnh mẽ tại Thượng hội đồng, là bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy đức tin trở thành tự do trong tương quan với các thế lực trần gian, các bất công và thậm chí cả cái chết nữa.
Tự do bị thương tích và được chuộc lại
76. Tự do của con người được đánh dấu bằng những vết thương của tội lỗi bản thân và tư dục. Nhưng khi, nhờ sự tha thứ và lòng thương xót, con người nhận thức được các trở ngại giam hãm họ, họ lớn lên trong độ chín mùi và có thể dấn thân một cách sáng suốt hơn vào các lựa chọn dứt khoát của cuộc sống. Trong viễn tượng giáo dục, điều quan trọng là giúp người trẻ không nản lòng trước những sai lầm và thất bại, thậm chí cả các nhục nhã nữa, vì chúng là một phần cấu thành ra con đường dẫn đến một sự tự do chín mùi hơn, ý thức được sự vĩ đại và yếu đuối của nó.
Tuy nhiên, cái ác không có lời cuối cùng: "Vì Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban cho họ Người Con duy nhất của mình" (Ga 3:16). Người yêu chúng ta đến cùng và do đó chuộc lại tự do của chúng ta. Bằng việc chết vì chúng ta trên thập giá, Người đã ban phát Chúa Thánh Thần và "Thần Khí của Chúa ở đâu, ở đấy, có tự do" (2 Cr 3: 17): một sư tự do mới mẻ, vượt qua, được hoàn thành trong việc tự hiến hàng ngày.
Kỳ sau: Chương 2: Mầu nhiệm của ơn gọi
______________________________________________________________________________________________________________
(*) Có bản Việt Ngữ dịch cụm từ này là "diễn trình khám phá"; thực ra "anagraphique" gồm tiền từ ana (chữ Hy Lạp có nghĩa là xa rời, như trong anachorète (xa lìa xã hội = ẩn sĩ), và "graphique" (họa hình) chúng tôi tạm dịch là "diễn trình xa rời hình tượng" (từ thiếu niên qua tuởi trưởng thành).
Linh đạo Tin Mừng
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
09:20 06/01/2019
LINH ĐẠO TIN MỪNG
Khoá trình Linh Đạo cơ bản (tt)
Trước khi đi vào nội dung nầy, chúng ta cùng lắng nghe chính lời huấn dụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Chương III (TRONG ÁNH SÁNG CỦA VỊ TÔN SƯ) của tông huấn Gaudete et Exsultate về tầm quan trọng và sự cần thiết của Tin Mừng, tức những “lời giảng dạy của Chúa Giêsu” về đàng nên thánh :
“Có thể có nhiều lý thuyết về điều gì làm nên sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Suy tư như vậy có thể hữu ích, nhưng không gì giúp soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và nhìn xem cách Người giảng dạy chân lý.(số 63)
“Một lần nữa, chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giêsu với tất cả lòng yêu thương và kính trọng mà vị Tôn sư đáng nhận được. Chúng ta hãy để cho những lời của Người khuấy động, thúc bách và đòi hỏi chúng ta phải thật sự thay đối cách sống của mình. Bằng không, sự thánh thiện vẫn chẳng khác gì một từ ngữ trống rỗng.” (số 66)
I. GHI NHẬN MỞ ĐẦU
1. Đức Kitô chính là “hiện thân đích thực của linh đạo” :
Tất cả những “thuyết minh” về “Lịch sử cứu rỗi”, về “Mặc khải”, về “Ơn Cứu Độ”, về mầu nhiệm Hội Thánh…, nói cho cùng, đều là những “chú giải” hay “cắt nghĩa mở rộng” chính câu “Lời Chúa” được cô đọng súc tích như một “công thức tuyên xưng”, một “tín điều”, mà chúng ta tìm thấy trong thư gởi giáo đoàn Do Thái : “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1-2).
Thế nhưng, chính Vị “Thánh Tử” và cái “thời sau hết” mà thư Do Thái nhắc tới đó lại đã được Tin Mừng Gioan thông báo trước, không phải bằng lời phát biểu của loài người, nhưng bằng lời khẳng định thẳng thừng của chính “Đương Sự” về bản thân mình : “Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ta” (Ga 14,6), và về cái thời điểm, cái “GIỜ”, mà ở đó : “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật…” (Ga 4,21-23).
Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng : nét chủ đạo của toàn bộ “Linh đạo Kitô” trong thời Tân ước, đặc biệt, thời Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng cùng với các môn sinh của Ngài, đó chính là CON NGƯỜI GIÊSU, một Ngôi Vị sống động, mà tất cả phải quy hướng về, phải “đi ngang qua”, phải là “điểm xuất phát”. Đây chính là điểm “khác biệt căn cội” đối với các nền linh đạo của các tôn giáo khác (Phật giáo, Khổng giáo, Hồi giáo…), là những tôn giáo mà nền tảng linh đạo không nhằm quy chiếu vào bản thân của Đấng sáng lập cho bằng vào giáo lý, lời dạy, con đường gợi mở…của Đấng ấy.[1]
Mà không chỉ là điểm cốt yếu của “cái thời đầu tiên” nầy thôi đâu. Đức Kitô chính là “hiện thân của một linh đạo đích thực” cho mọi nơi, mọi thời, mà bất cứ một “cố gắng nào nhằm xây dựng một linh đạo có tính “hợp thời hơn” đều chỉ là ảo tưởng”[2]
Nếu “linh đạo” là con đường nhằm giúp con người hoàn thiện bản thân để tiến tới gặp gỡ Thiên Chúa, thì quả thật, không có một con đường nào khác, ngoài “con đường Giêsu”; bởi vì chính Ngài, Đấng vừa mạc khải rõ ràng về Thiên Chúa, vừa vén mở mọi chiều kích về thân phận con người, như Công Đồng Vatican II đã minh giải trong hiến chế Mục Vụ :
“Mầu nhiệm con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Thật vậy, Ađam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Ađam mới, trong khi mặc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Bởi thế, không lạ gì khi những chân lý đã nói ở trên đều tìm thấy nguồn gốc và đạt tới đỉnh điểm nơi Chúa Kitô”.[3](Xem thêm : ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông huấn GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU”- Ecclesia in Asia, số 13 : Đức Giêsu Kitô : Chân lý của Nhân loại; Sách GLHTCG số 516[4]).
Cũng chính vì lẽ đó mà “lời khuyên thường hằng” của Hội Thánh về “con đường hoàn thiện” dành cho mọi Kitô hữu, cách riêng cho những người chọn sống đời thánh hiến, là phải luôn “xuất phát lại từ Đức Kitô” :
“Vì thế cần gắn bó ngày càng mật thiết hơn với Đức Ki-tô, trung tâm của đời sống thánh hiến và lại một lần nữa đi lại con đường hoán cải và canh tân, giống như kinh nghiệm đầu tiên của các tông đồ, trước và sau biến cố phục sinh, đó là xuất phát lại từ Đức Ki-tô. Vâng, ta phải xuất phát lại từ Đức Ki-tô bởi vì chính từ nơi Người mà các môn đệ đầu tiên đã khởi hành tại Ga-li-lê; từ nơi Người mà suốt giòng lịch sử, những người nam nữ thuộc mọi cấp bậc và văn hoá, được Chúa Thánh Thần hiến thánh theo ơn gọi của họ, đã khởi hành; vì Người, họ đã từ bỏ gia đình và quê hương, theo Người cách vô điều kiện, chuẩn bị sẵn sàng để loan báo Nước Trời và làm điều lành cho mọi người (x. Cv 10,38).”[5].
Mà quả thật, ngoài Đức Kitô, Hội Thánh muôn nơi muôn thuở, những ai nối bước các Tông Đồ Phêrô, Gioan…của một thuở ban đầu, nào có gì để “trao cho thế giới” ngoài chính Đức Kitô : “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây : nhân danh Đức Giêsu Kitô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi !” (Cv 3,6).
Nếu chính Đức Kitô là “hiện thân đích thực của linh đạo”, thì việc “tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô” lại chính là đích điểm mà linh đạo nhắm tới; bởi vì chỉ qua con đường duy nhất đó con người mới “được tái sinh và được nâng lên trong trật tự siêu nhiên”.[6] (Xem thêm Mary Milligan, R.S.H.M, Linh đạo Kitô giáo, Ngô Công Đức dịch. Nguồn : Trang mạng Xuân Bích. Link : https://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/04/11/dan-vao-than-hoc-chuong-ix/)[7]
Nói cách khác, đúng như nhận định của nhà thần học Dom Columba Marmion : “Tất cả đời sống Kitô giáo, tất cả sự thánh thiện, đó là nhờ ơn sủng mà trở nên điều vốn là bản tính của Đức Giêsu : Trở nên Con Thiên Chúa”[8]
2. Tin Mừng : Bảng chỉ đường linh đạo Kitô :
Thế nhưng, làm sao biết rõ và biết đúng về Chúa Kitô để bước theo Ngài ?
Chúng ta đã tìm thấy câu trả lời của Thánh Giêrônimô mà Hiến chế Mạc Khải của Công Đồng chung Vatican II đã nhắc đến : “Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”[9]; và Công Đồng lại xác quyết : “Không ai không biết rằng trong tất cả các Sách Thánh, kể cả các sách Tân Ước, thì các sách Tin Mừng xứng đáng có địa vị trổi vượt, vì là chứng tích chính yếu về đời sống và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Cứu chuộc chúng ta”.[10]
3. Vài điểm lưu ý tổng quát về việc đọc Tin Mừng :
3.1 : Khái quát “quá trình hình thành” :
Khi nói đến “yếu tố Tin Mừng” ở đây không có ý nhấn mạnh đến một “giai đoạn”, một “thời điểm” (liên quan đến cuộc đời của Đức Kitô) cho bằng là “địa chỉ” để cùng nhau tìm lại những giáo huấn ban đầu của chính Đức Kitô; vì khi Đức Kitô rao giảng Tin Mừng, thì chắc chắn Ngài không soạn tác một cuốn sách, một tài liệu, một thủ bản nào. Trong khi đó, 4 cuốn Tin Mừng Matthêu, Máccô, Luca và Gioan mà chúng ta đang nói tới lại hình thành sau khi Chúa về trời khá lâu (khoảng 30 năm) theo ba giai đoạn sau :
- Đầu tiên Chúa Giêsu truyền giảng trực tiếp (khoảng năm 30-33)
- Tiếp đến : Các Tông Đồ ra đi làm chứng về Đấng Phục Sinh và nhắc lại những lời nói và việc làm của “Thầy mình” (Khoảng năm 33 – 80).
- Sau cùng : 4 Thánh sử đã gom góp lại các lời rao giảng của các Tông Đồ, các ký ức sống động của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, được ơn Linh Hứng, đã viết lại thành 4 Tin Mừng như chúng ta có hôm nay, theo trình tự thời gian khác nhau : Tin mừng Matthêu khoảng năm 80-90; Tin mừng Máccô khoảng năm 65-70; Tin mừng Luca khoảng năm 80 và Tin mừng Gioan khoảng năm 90-95.[11]
3.2 : Khái quát nội dung cốt yếu : “TIN MỪNG CỦA MỘT THỰC TẠI LỊCH SỬ” :
Bốn cuốn Tin Mừng hay còn được gọi là “PHÚC ÂM” có chung một tên gọi xuất phát từ một từ Hy Lạp : ev-angélion có nghĩa “Tin Vui”, “Tin Mừng”, “Tin tốt lành”…; và cái “TIN MỪNG” đặc biệt đó lại liên quan đến một “nhân vật lịch sử”, một “thực tại lịch sử” : GIÊSU THÀNH NA-DA-RÉT”. Còn hơn thế nữa, “Tin Mừng về Con Người” đặc biệt đó không phải được “tung ra”, được “thông báo” như một “tin tức đơn thuần” rồi bỏ mặc cho mọi suy tưởng, cắt nghĩa tuỳ nghi; nhưng đó là một “Tin Vui” tốt lành, mang ơn cứu độ, nguồn sống và hy vọng cho toàn thể loài người.[12]
3.3. Tin Mừng với những sắc thái riêng và thái độ cần có để tiếp cận :
Thật sự ra, chỉ có một Tin Mừng duy nhất, đúng như lời giới thiệu mở đầu của Thánh sử Máccô : “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1); và nội dung cốt yếu đó chính là “giải thích một biến cố lịch sử để biến cố ấy giao tiếp với những người mà Phúc âm đến với họ…”; hoặc cụ thể hơn, đó là “lời huấn thị dựa vào một biến cố dĩ vãng chất vấn mỗi người, sau khi cho biết ý nghĩa sâu xa của biến cố đó, phải thâm nhập vào lịch sử từng người một, ngày xưa cũng như ngày nay…”[13]
Tuy nhiên, tuỳ theo cách cảm nhận riêng của từng tác giả cùng với những ảnh hưởng đi theo hoặc do “nguồn” tiếp cận, do văn hoá vùng miền, do yêu cầu cộng đoàn, do thời điểm soạn tác…, truyền thống xưa nay vẫn cho rằng : Tin Mừng Máccô thiên về “giảng để nghe”, Matthêu thích hợp để “đối chiếu nghiên cứu”, Luca mang chất hoài niệm để “đọc” và Gioan lại hướng tâm hồn đến chỗ trầm sâu “suy niệm”[14].
Riêng Jordan Aumann trong “Lịch sử linh đạo Công Giáo” đã lưu ý 3 thái độ cần có để đọc Tin Mừng, Tân Ước trong chiều kích “linh đạo” :
- Sống sự hiện diện mầu nhiệm của Đức Kitô ngay trong đời sống hiện tại (Không phải chỉ tìm hiểu Đức Kitô lịch sử, một câu chuyện của quá khứ…).
- Sống mầu nhiệm Chúa Kitô phát triển trong hiện tại và hướng đến kiện toàn trong tương lai (Không cố chấp giữ nguyên trạng và bảo thủ quá khứ)
- Sống Tin Mừng (linh đạo Tin Mừng) trong hiện thực cuộc sống và môi trường xã hội muôn nơi, muôn thuở.[15]
II. LINH ĐẠO TIN MỪNG TRONG CÁI NHÌN TỔNG QUAN
Khi nhắc đến “Tin Mừng” trong ý nghĩa “4 tác phẩm đầu tiên của Tân Ước”, cho dù đều có chung một nội dung cốt lỏi : CON NGƯỜI VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA KITÔ, nhưng truyền thống xưa nay vẫn phân làm “hai nhánh” : Tin Mừng Nhất Lãm với 3 tác giả Matthêu, Máccô, Luca; và Tin Mừng Gioan.
Chúng ta sẽ dừng lại “các điểm nhấn linh đạo” riêng của hai “nhánh” nầy.
1 : Điểm nhấn chung của Tin Mừng Nhất Lãm:
a/. Thuộc về Nước Thiên Chúa :
Chúng ta không dừng lại phạm vi “chú giải” mang tính thần học chuyên biệt về Kinh Thánh hay tín lý; chúng ta ghi nhận ý nghĩa liên quan đến linh đạo, đến đời sống thiêng liêng.
Theo tác giả Jordan Aumann thì “Trong bối cảnh thiêng liêng, Nước Thiên Chúa thuộc nội tâm, nó ở bên trong chúng ta (Lc 17,21), nó có thể lớn lên và tiến hoá, và từ mỗi người nó sẽ vươn ra tới toàn nhân loại, toàn thế giới. Nước Thiên Chúa là đời sống trong Đức Kitô, với Ngài và cả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng hiện diện (Ga 14,23). Đó là nước có mặt nhưng luôn luôn chuyển hoá, và do đó chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện cho “Nước Cha trị đến”.[16]
- Nước Thiên Chúa chính là Đức Kitô : “Nếu ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì Nước Thiên Chúa đã ở giữa các ngươi” (Lc 11,20)
- Nước Thiên Chúa là của Đức Kitô : “Thầy trao Vương quyền cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương quốc của Thầy” (Lc 22,29-30)….
- Nước Thiên Chúa dành cho những kẻ bé nhỏ, khó nghèo : “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng vào được Nước Trời” (Mt 18,1-4; Mc 9,33-37; Lc 9,46-48)…
Từ giáo lý nền tảng đó, chúng ta gặp lại ý nghĩa cốt yếu của linh đạo Kitô : thuộc về Nước Thiên Chúa là thuộc về Đức Kitô, được tham dự vào Nước Thiên Chúa là tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô, xây dựng Nước Thiên Chúa là làm cho Đức Kitô được lớn lên trong nhân loại nầy, thế giới nầy.
b/. Từ bỏ chính mình và đi theo Chúa Giêsu. (Lc 9,23, Mt 16,24; Mc 8,34)
Theo linh mục P. Pourrat, thì toàn bộ sứ điệp về tu đức của Tin Mừng có thể tóm tắt qua những lời sau của Chúa Giêsu :
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
“Từ bỏ” và “theo Chúa” chính là hai “chọn lựa nền tảng và có tương quan mật thiết với nhau” làm nên “linh đạo của Tin Mừng”[17]
Như vậy, muốn hiểu rõ hơn những con đường được đề nghị để thuộc về “Nước Thiên Chúa” và những hướng dẫn thực hành cụ thể việc “từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày theo Chúa”, chúng ta phải dừng lại nơi từng Tin Mừng.
2. Điểm nhấn riêng của mỗi Tin Mừng :
3.1. Tin Mừng Máccô và Chiều kích Khổ Nạn :
Trước hết, Tin Mừng Máccô xuất hiện sớm nhất (khoảng năm 65-70) so với 3 Tin Mừng còn lại; và nội dung chủ yếu cũng là tập trung “giới thiệu con người và cuộc đời của Đức Giêsu” : “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1), đặc biệt, cho các cộng đoàn ngoại giáo (ngoài Do Thái giáo).
Nói cách khác, Máccô muốn mang lại câu trả lời “dứt dạc” cho các vấn nạn : “Ông ta là ai vậy ?” (Mc 4,41); “Ông không phải là một bác thợ mộc đấy ư ?” (Mc 6,2); “Anh em thử nói xem tôi là ai ?” (Mc 8,27.29)…
Thoạt đầu, cũng như các Tin Mừng khác, “con đường sơ khởi” Máccô dùng để người ta tiếp cận và khám phá Chúa Giêsu đó chính là các phép lạ, vừa là những “dữ liệu để minh chứng tính cách siêu phàm của của Đức Giêsu”, vừa là một “sự úp mở” để dẫn tới một câu trả lời dứt dạc, chuẩn xác .[18]
Và đây chính là “nhân vật Giêsu đích thực” mà Tin Mừng Máccô muốn chuyển tải : ĐỨC KITÔ KHỔ NẠN.
Nó cách khác, muốn khám phá dung mạo đích thực của Chúa Giêsu, muốn tin nhận Ngài, phải chiêm ngắm cuộc khổ nạn, phải đi ngang qua “diễn trình thập giá”.[19]
Cũng theo Máccô, đi theo con đường thập giá cụ thể đó là :
- Từ bỏ mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng : Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; con ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (8,5).
- Chia sẻ của cải cho người nghèo, thanh thản lên đường theo Chúa : Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (10,21).
- Phục vụ và hiến mạng sống : “Vì con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (10,45).
- Đích điểm của khổ nạn, thập giá là phục sinh, sau mất mát thiệt thòi là vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu : “Thầy bảo thật anh em : Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giời, ở đời nầy, lại không nhận được nhà cửa,, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau…” (10,28-31).[20]
3.2. Tin Mừng Matthêu và Con đường Tám mối Phúc Thật. (Mt 5,1-12; Lc 6,20-23)
Nếu “Nước Thiên Chúa” là một chủ đề chung” của Tin Mừng Nhất Lãm, thì theo Matthêu, một trong những con đường chính yếu để “đi vào Nước Thiên Chúa”, “thuộc về Nước Trời”, đã được Chúa Kitô nhấn mạnh như một “Hiến Chương”, một quy luật tối thượng của “nền công chính mới” đó chính là “TÁM MỐI PHÚC THẬT”.
Tuy nhiên, trước khi phân tích rõ hơn “điểm nhấn quan trọng nầy, chúng ta cũng cần nhắc đến một vài nét “đặc trưng” của Tin Mừng Matthêu, một Tin Mừng “dành cho các cộng đoàn Kitô hữu gốc Do Thái”, và luôn chứng tỏ một tương quan mật thiết giữa Cựu ước và Tân ước, đặc biệt giữa việc trung thành với luật cũ Mô-sê và việc kiện toàn luật cũ theo nhãn giới (luật mới) của Tin Mừng. (Xem thêm Phan Tấn Thành)[21]
Và sau đây là những nét đặc trưng của Matthêu :
- Kiện toàn lề luật : Luật tôn trọng sự sống con người (Mt 5,21-22); luật về sự trung tín trong hôn nhân và sự trong sạch (5,21-22); luật về giá trị lời thề (5,33-37); luật về công bằng, bác ái (5,38-42); luật về yêu thương (5,43-45)[22]…
- “Ngũ đạo hành thiện” của Tân ước : Được Matthêu trình bày qua 5 bài giảng quan trọng (tương đương Ngũ thư của Mô-sê) : Bài giảng trên núi (Hiến chương Nước Trời) (Chương 5-7); bài giảng truyền giáo (Chương 10); bài giảng về Nước Trời qua các dụ ngôn (Chương 13); bài giảng về đời sống cộng đoàn Giáo Hội (Chương 18); bài giảng về Cánh chung (Chương 24).[23]
- Đức Kitô đang hiện diện : Hiện diện thường xuyên cho đến tận thế (28,20); hiện diện khi tín hữu họp nhau cầu nguyện (18,20); hiện diện nơi những kẻ khổ đau, ốm đói…(25,31-46)[24]
- Trang bị tinh thần :
- Tinh thần phó thác cho sự quan phòng : “Chim sẻ, hoa đồng” (6,25-32; 10,29-31)
- Tinh thần khiêm hạ, nội tâm (6,1-6) : Bố thí kín đáo (6,2-4); cầu nguyện kín đáo (6,5-6).
- Tinh thần sẻ chia tha thứ (18,35) : “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
- Tinh thần truyền giáo (28,19) : “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần”.
- Tinh thần trông cậy vững vàng, hy vọng cánh chung : (13,3-8.31-32; 13,36-43).
- Con đường Tám Mối phúc :
Khi đề nghị “con đường” có vẽ “ngược dòng nầy, Chúa Kitô muốn một đàng “kiện toàn việc thực hành Luật Cựu ước” và một đàng “hướng đến một chân trời mới trong tương quan của con người với Thiên Chúa và với đồng loại”[25]
Riêng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dành trọn cả chương III trong tông huấn Gaudete et Exsultate với tựa đề “TRONG ÁNH SÁNG CỦA VỊ TÔN SƯ” để khai triển chủ đề “Tám Mối Phúc Thật” mà ngài đặt cho một tên gọi là “căn cước của người Kitô hữu”. Xin trích :
“Có thể có nhiều lý thuyết về điều gì làm nên sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Suy tư như vậy có thể hữu ích, nhưng không gì giúp soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và nhìn xem cách Người giảng dạy chân lý. Đức Giêsu giải thích một cách rất giản dị nên thánh có nghĩa là gì khi Người ban cho chúng ta các Mối Phúc (x. Mt 5,3-12; Lc 6,20-23). Các Mối Phúc tựa như thẻ căn cước của người Kitô hữu. Vì vậy, nếu ai hỏi: “Ta phải làm gì để trở nên một Kitô hữu tốt?” thì câu trả lời rất đơn giản. Chúng ta phải làm, mỗi người theo cách riêng của mình, điều Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Bài Giảng về các Mối Phúc. Trong các Mối Phúc, chúng ta tìm thấy một chân dung của vị Tôn Sư, và chúng ta được mời gọi phản chiểu chân dung ấy trong cuộc sống hằng ngày của mình.”[26]
Để có thể dễ dàng tiếp cận giáo lý của Đức Giáo Hoàng về việc nên thánh qua nẻo đường “Tám Mối Phúc Thật”, cũng là “điểm nhấn đặc biệt của “Linh đạo Tin Mừng”, chúng ta có thể theo chân cha Phan Tấn Thành tóm tắt các ý tưởng chính như sau :
“Đâu là con đường nên thánh? Câu trả lời có thể tìm nơi tám mối phúc thật (GE 63). “Phúc” (hạnh phúc) và “Thánh” đồng nghĩa với nhau, bởi vì diễn tả con người đã đạt tới hạnh phúc vì đã trung thành với Thiên Chúa, hiến thân phụng sự Chúa (GE 64). Thiết tưởng nên nhắc lại điều nhận xét của các giáo phụ, - được Sách Giáo lý Hội thánh Công Giáo lấy lại ở các số 1716-1717) -, đó là: các mối phúc thật không chỉ là tóm lược các lời giảng của Thầy Giêsu nhưng nhất là chúng phác họa dung mạo của Chúa Giêsu. Nói khác đi, việc nên thánh không chỉ là tuân giữ lời dạy của Thầy Giêsu nhưng còn là chiêm ngắm và kết hợp với Người. Nói ngược lại cũng đúng: nếu ai muốn đi theo Thầy Giêsu thì hãy thực hành chương trình sống mà Người đã vạch ra, chứ đừng nên chỉ nhìn ngắm rồi bỏ đó (GE 97). Mặt khác, chúng ta cũng đừng quên những lời nhắn nhủ vừa nói ở chương trước: đường nên thánh không phải là ngọn núi mà ta gắng sức leo trèo; cần đến ân sủng của Chúa nữa. Đức Kitô không chỉ là một Thầy dạy (hoặc nhà lập luật), nhưng còn là Đấng dẫn ta đi bằng ân sủng.
Trong chương này, Đức Thánh Cha giải thích từng mối phúc và áp dụng vào những hoàn cảnh cụ thể, dưới lăng kính của truyền thống tâm linh Kitô giáo (GE 69-94). Bản văn chính là Mt 5,3-12, nhưng cũng được đối chiếu với Lc 6,20-23.
1/ Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Nghèo khó trong tinh thần không chỉ được hiểu về thái độ đối với tài sản vật chất, mà còn là thái độ tự do về tinh thần, “dửng dưng” đối với mọi tình huống xảy ra (tư tưởng của thánh Inhaxio: “santa indifferenza” (GE 69). Nghèo khó cũng có nghĩa là chấp nhận một lối sống khắc khổ đạm bạc.
2/ Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp.
Hiền lành là bình thản chấp nhận những khuyết điểm của tha nhân. Cần giữ thái độ hiền lành ngay cả khi phải cương quyết bảo vệ đức tin và chân lý. Tiếc thay, trong quá khứ, nhiều lần Giáo Hội đã quên lời dạy của Thầy về đức hiền lành và khiêm tốn (Mt 11,29). (GE 73)
3/ Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Chân phúc này được liên kết với ơn nước mắt, đặc biệt khi chia sẻ những thống khổ của tha nhân.
4/ Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Công chính có nghĩa là trung thành với ý Chúa. Công chính cũng được hiểu là công lý (hoặc công bình) mà ta khao khát thực hiện cho những người yếu kém. Tiếc rằng chúng ta thường trở thành đồng lõa với bất công khi bị lôi cuốn vào nạn tham nhũng (GE 78).
5/ Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Chúng ta biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc trao ban và tha thứ
6/ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Trái tim trong sạch khi yêu mến Chúa và tha nhân thật tình, chứ không chỉ bằng môi mép.
7/ Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Xây dựng hòa bình kể cả bằng lời nói, ít là không nói xấu người khác.
8/ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao" (Mt 5,3-12).
Bị bách hại vì sống công chính có nghĩa là sống theo lý tưởng, chứ không lê thê kéo dài cuộc đời tầm thường. Đức Thánh Cha nhắc nhở chúng ta là không dễ gì sống tám mối phúc, bởi vì không chỉ vì những yêu sách của nó trái ngược với tính ươn lười của ta, nhưng bởi vì khung cảnh xã hội hiện nay hầu như đi ngược với tinh thần ấy.
Đường nên thánh Kitô giáo cũng cần liên kết với chương 25 của Tin Mừng thánh Matthêu (câu 31-46), kêu gọi cứu giúp những người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nơi nương tựa, thiếu tự do (GE 95-109). Vào thời nay, đó là những người di dân, những người bị gạt bỏ, những hình thức nô lệ mới, vv. Việc thờ phượng Chúa không thể nào tách rời khỏi các công việc bày tỏ lòng thương xót.
Có lẽ không phải là thừa khi nhắc lại rằng những lời kết thúc “tuyên ngôn bát phúc” đã được dùng làm lời mở đầu cho tông huấn: “Anh em hãy vui mừng và hớn hở” (Gaudete et exsultate).[27]
3.3. Tin Mừng Luca : Lòng thương xót – Niềm vui :
a/. Lòng thương xót :
Là một “Thầy thuốc” và được mệnh danh là “văn sĩ của lòng nhân hậu”, cho nên chủ đề “lòng thương xót” chính là nét đặc trưng của Tin Mừng Luca :
“Xem ra đạo của Đức Giêsu quá cam go, đòi hỏi quá nhiều. Tuy nhiên, Luca được đặ biệt hiệu là “văn hào của lòng nhân hậu” (scriba mansuetudinis), bởi vì ông thích trình bày Thiên Chúa như là Đấng giàu lòng thương xót”[28]
- Sự hoàn thiện của Thiên Chúa chính là lòng thương xót : “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng xót thương” (Lc 6,36)[29]
- Những dụ ngôn điển hình hoàn hảo về lòng thương xót : Người Samari nhân hậu (Lc 10,25-37) và Người con hoang đàng (Lc 15,11-32).[30]
- Lòng thương xót được biểu hiện qua sự kiếm tìm, đợi chờ hoán cải, tha thứ và niềm vui : thiếu phụ tai tiếng (Lc 7,36-50), Giakê (19,1-10); đặc biệt với 3 dụ ngôn của chương 15…
- Thái độ khiêm tốn để lãnh ơn tha thứ : Người thu thuế trong đền thờ (18,13-14), tên trộm bị đóng đinh (23,42-43)…
- Tha thứ ngay trong cuộc khổ nạn : Cái nhìn dành cho Phêrô (22,61-62)…
b/. Niềm vui :
Song song với chủ đề “Lòng Thương xót”, “Niềm vui” cũng chiếm một chỗ quan trọng trong sứ điệp Tin Mừng Luca, đặc biệt trong các trình thuật về thời thơ ấu.[31]
Sau đây là 5 “chiều kích vui” theo phân tích của tác giả Pierre Dumoulin :
- Niềm vui của Tin Mừng (Tin mừng Nhập Thể, Tin vui cứu độ…) : “Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (1,14); “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (1,28); “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (1,44); “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (1,58); “thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” (1,47); “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân :…”[32]
- Niềm vui được làm con Thiên Chúa : Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha…” (Lc 10,21-22)
- Niềm vui vì được tha thứ : “Vậy tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” ( 15,7); “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (15,10);
- Niềm vui của sứ vụ : Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói : “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng khuất phục chúng con” (10,17); “Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy vui mừng vì tên anh em dã được ghi trên trời” (10,20)
- Niềm vui của Phục Sinh : Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi : Ở đây anh em có gì ăn không?” (24,41); “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ…” (24,52)[33]
- Cùng với “đặc sản lòng thương xót” và “niềm vui” đó, sứ điệp Tin Mừng Luca còn nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần (1,35; 11,20…), và đời sống cầu nguyện (3,21; 6,12-13; 9,18; 22,41; 23,46…); đặc biệt, Tin Mừng Luca còn chứa đựng những mẫu kinh nguyện chúc tụng ngợi khen mà hiện nay Giáo Hội sử dụng thường xuyên trong các Giờ kinh Phụng vụ : Kinh Magnificat (1,46-55); Kinh Benedictus (1,68-79); kinh Nunc dimittis (2,29-32)[34]
3. Tin Mừng Gioan : kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô :
Nếu “linh đạo” được hiểu đó là con đường dẫn đến sự gặp gỡ trọn vẹn Đức Kitô để thuộc về Ngài, trở nên môn sinh đích thực của Ngài…thì quả thật, Tin Mừng Gioan đã cho chúng ta những chỉ dẫn rất cần thiết để hiểu và thực hiện.
a/. Từ xác thể tới tâm linh :
Thánh Gioan, ngay từ đầu trang Tin Mừng, đã chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ độc đáo nầy như sau :
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói : “Đây là chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi : “Các anh tìm gì thế ?” Họ đáp : “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đau ?” Người bảo họ : “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,36-39).
- Trước hết, với kinh nghiệm của Gioan, “nghe” Lời Chúa, tiếng Chúa, ý Chúa…không chỉ là một “mở đầu cho cuộc gặp gỡ Đức Giêsu mà còn là thái độ căn bản kéo dài suốt hành trình Đức tin” [35]:
- Tin là luôn chú ý nghe lời Thầy dạy : “Ai nghe Lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết sống lại” (Ga 5,24).
- Tin là cảm nhận mối tương quan đặc biệt khi nghe tiếng của nhau : “Chiên nghe tiếng của mục tử, ông gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra” (10,4); “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng” (3,29).
- Từ cái nhìn, xem, thấy “dấu lạ” (bên ngoài) tiến tới “nhận thấy” một Đức Kitô đích thực : “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39); “Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu” (4,48); “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên nầy tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11); qua dấu lạ “bánh hoá nhiều” để nhận ra “Bánh Hằng Sống” (Ga 6,51); từ dấu lạ chữa lành người mù để nhận ra Chúa Giêsu là ánh sáng dẫn đưa đến ánh sáng bất diệt (8,12); qua dấu chỉ vết thương để Tôma nhận ra Đấng Phục Sinh : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin” (20,29); phải thấy ông Giêsu đến từ Nadaret để nhận ra Con Người đến từ Chúa Cha và Cha ở trong Người (7,27-29; 14,9)[36]
Đặc biệt Thánh Gioan, người Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu mến, lại có “đôi mắt tinh tường” để “ngộ ra Thầy”, mà đôi khi những người khác không thấy được : Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (Ga 20,8); Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô : “Chúa đó !” (Ga 20,7)
Gioan đúng là “le Voyant” !
- Để tin và thuộc về Đức Kitô phải tiếp xúc thân mật với Ngài : rờ, đụng chạm : “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” (1 Ga 1,1); những hành vi yêu thương và hoán cải của các bà Maria : Xức dầu ở Bêtania (Ga 12,3); ôm chân (20,17); Tôma đặt tay vào cạnh sườn (20,25); môn đệ ngồi dựa vào ngực Chúa (13,25); người lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra (19,34-37)
b/. Từ “Biết” tới ‘Yêu” :
Có lẽ, từ thời Thánh Gioan, trào lưu triết học “Ngộ Đạo” (Gnosticism) đã ảnh hưởng không nhỏ trên lãnh vực niềm tin, giáo lý, cho nên ngài đã khai triển “sự hiểu biết của đức tin” để phân biệt với sự hiểu biết như một cảm nghiệm tâm linh thuần tuý nhân loại (vốn là chủ trương của Ngộ Đạo thuyết).[37] “Sự sống đời đời là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha sai đến là Giêsu Kitô” (15,3).
Và cái “Biết” mà Thánh Gioan khai triển chính là một “cảm nhận của tình yêu”, tình yêu của Thiên Chúa và trong Thiên Chúa : “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu : ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. (1 Ga 4,16).
Từ cái “biết của tình yêu đó”, Đức Kitô đã thực hiện tình yêu với Cha và cho nhân loại; và Ngài cũng muốn các môn sinh thể hiện “cái biết tình yêu” đó dành cho nhau : Rửa chân (13,1-20), trao hiến bản thân (10,17-18).
c/. Từ “biết”, “yêu” tới “ở lại” :
Phúc âm thứ tư nhiều lần dùng từ “ở lại”. Ý nghĩa “Ở Lại” vừa diễn tả chiều kích sinh động của mầu nhiệm Nhập Thể : “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta’ (Ga 1,14) vừa nói lên mối tương quan thân mật hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Kitô và các môn sinh của Ngài : “hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em (…) Thày là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo…” (Ga 15,4-10) (Xem thêm Phan Tấn Thành, ĐỜI SỐNG TÂM LINH II)[38]
Kết luận :
Những gì nêu ra ở trên thật ra chỉ là những “nét chấm phá”. Hội Thánh muôn nơi muôn thuở vẫn miệt mài bước đi dưới ánh sáng của ngọn đuốc Tin Mừng. Mọi nền tu đức, mọi lối đi nên thánh, mọi định hướng đức tin...đều cần thiết và phải quy chiếu vào Lời dạy của chính Đức Kitô trong Tin Mừng. Vì thế, “Linh đạo Tin Mừng”, như tác giả Jordan Aumann, là “linh đạo Kitô giáo ở mức toàn bích” và khả năng “thích nghi với mọi thời đại”.[39]
Nhận định trên có thể dễ dàng được tìm thấy trong những lời đầu tiên của một tác phẩm tu đức nổi tiếng từ thế kỷ 15 được cho là của Thomas à Kempis (1380-1471), cuốn GƯƠNG CHÚA GIÊSU (THE IMITATION OF CHRIST) :
1. Lời Chúa Giêsu : “Ai theo Ta, người ấy không đi trong đường tối” (Ga 8,12). Lời ấy, Chúa dùng để khuyên nhủ ta bắt chước tính hạnh và hành vi Chúa, nếu ta muốn được sáng thật và thoát ly mọi tối tăm trong tâm hồn. Bài học chính của ta sẽ là suy gẫm về tính hạnh Chúa Kitô vậy.
2. Học thuyết Chúa Kitô trỗi vượt trên học thuyết các thánh. Ai thấu nhập được tinh thần Chúa Giêsu, người ấy gặp được lương thực giấu ẩn trong đó. Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc Âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu rõ và nếm thử thi vị của Lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa.[40]
Đối với những người đang dấn thân trong “đời sống thánh hiến”, Tin Mừng chính là con đường gần nhất để cùng “xuất phát lại từ Đức Kitô” như Huấn Thị của Thánh Bộ Giáo sĩ đã nhấn mạnh :
“Con đường mà đời sống thánh hiến được mời gọi đi theo khi khởi đầu ngàn năm mới được hướng dẫn bởi việc chiêm ngưỡng Đức Ki-tô, cái nhìn chúng ta hơn bao giờ hết, chăm chú vào khuôn mặt của Đức Chúa. Nhưng ta chiêm ngưỡng cách cụ thể khuôn mặt Đức Ki-tô ở đâu? Có vô vàn sự hiện diện cần được khám phá ra theo những cách thức luôn luôn mới mẻ.(…)
Đức Ki-tô thực sự hiện diện trong Lời của Người (…) Thánh thiện là hoa quả của cuộc gặp gỡ với Người trong nhiều cách thế hiện diện qua đó chúng ta có thể khám phá khuôn mặt của Người như là Con Thiên Chúa, một khuôn mặt đau khổ và đồng thời khuôn mặt của Đấng phục sinh. (…)
Đức Gio-an Phao-lô II nhắc nhở các người thánh hiến rằng sống linh đạo trước tiên có nghĩa là xuất phát lại từ ngôi vị Đức Ki-tô, Thiên Chúa thật và người thật, hiện diện trong Lời của Người, “nguồn mạch đầu tiên của mọi linh đạo” Thánh thiện không thể có được nếu không lắng nghe lời Thiên Chúa. (…)
“Lời Thiên Chúa là của ăn cho đời sống, cho việc cầu nguyện và cho cuộc hành trình hằng ngày, nguyên lý hiệp nhất cộng đoàn nên một lòng một ý, cảm hứng cho việc canh tân của thường huấn và những sáng kiến tông đồ. Công đồng Vatican II đã chỉ rõ rằng nguyên tắc canh tân quan trọng đầu tiên là trở về với Tin mừng.
Trong các cộng đoàn và trong các nhóm người thánh hiến, cũng như trong toàn thể Giáo hội, một sự tiếp xúc sống động và trực tiếp hơn với Lời Chúa đã phát triển trong những năm gần đây. Đó là một con đường cần phải tiếp tục bước đi với một năng động lớn hơn. Đức Giáo Hoàng đã nói: “Anh chị em đừng mệt mỏi suy niệm Kinh Thánh và nhất là Tin mừng…”[41]
(Còn tiếp)
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
[1] Joseph Doré, Dictionnaire de Théologie Chrétienne, Bản dịch của Hoàng Xuân Việt, hiệu đính Thiên Hựu, nxb. Tôn giáo 2015, tr. 48 : “Trong Chúa Giêsu Kitô, hết các kích thước của con người được đảm thụ và sử dụng để phô diễn Lời Chúa như : ngôn ngữ, hành vi, cử điệu, chết, sống lại. Chính trong đó, có sai biệt nền tảng giữa Chúa Kitô và các nhà lập giáo khác (như Đức Phật, Đức Khổng, Đức Mahomet v.v…). Các chư vị nầy không tự bản thân mình đề nghị cho các môn đồ có đức tin. Còn Chúa Giêsu, chính Người trình bày coi như dứt điểm cho phần rỗi cái lập trường mà người ta phải có đối với Người. Bởi lẽ Chúa Giêsu là lời nói yêu thương của Thiên Chúa tự hiến cho nhân thế và tự truyền thông cho ai chấp nhận Người.”
[2] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 23 : “Đức Kitô, vì thế, là hiện thân của linh đạo đích thực và ta hoàn toàn có cơ sở để nói rằng đời sống thiêng liêng phải là một sự tham dự vào “mầu nhiệm Đức Kitô”. Vậy thì, Đức Kitô là của mọi thời – hôm qua, hôm nay và mãi mãi – và bất cứ cố gắng nào nhằm xây dựng một linh đạo có tính “hợp thời hơn” đều chỉ là ảo tưởng”.
[3] GS 22
[4] HĐGMVN, UBGLĐT, SGLHTCG, nxb. Tôn giáo 2012, số 516, tr. 163 : “Cả cuộc đời của Đức Kitô là một Mạc khải về Chúa Cha : những lời Người nói, những việc Người làm, những lúc Người im lặng, những đau khổ Người chịu, cách thế Người sống và giảng dạy. Chúa Giêsu có thể nói : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), và Chúa Cha nói : “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người” (Lc 9,35). Vì Chúa chúng ta đã làm người để chu toàn thánh ý Chúa Cha, nên ngay cả những điểm nhỏ nhặt nhất trong các mầu nhiệm của Người đều biểu lộ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta”.
[5] Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ, Huấn thị “XUẤT PHÁT LẠI TỪ ĐỨC KITÔ”, số 21
[6] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 26-27 : “Vì thế, tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô có nghĩa là chia sẻ trong cùng một sự sống của vị Thiên Chúa làm người, sự sống mà Lời nhập thể chia sẻ với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; và qua sự sống nầy, con người được sinh lại và được nâng lên tới trật tự siêu nhiên”.
[7] SĐD : “Thật vậy, đời sống Đức Giêsu là gương mẫu của mọi linh đạo Kitô giáo, và hành trình tâm linh của Kitô hữu luôn luôn là chính hành trình mà Đức Giêsu đã bước đi. “Để biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người” (Pl 3,10) – đó là mục tiêu của đời sống Kitô hữu. Mối quan tâm noi gương sống của Đức Giêsu vốn được ghi nhận rõ ràng trong các trang Tân Ước.”
[8] Ibid., tr. 29.
[9] HĐGMVN, Uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Công Đồng Vaticanô II (Bản dịch Việt ngữ), HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẶC KHẢI THIÊN CHÚA (DEI VERBUM), viết tắt : MK, nxb. Tôn Giáo 2012, số 25, tr. 212 : “Cũng vậy, Thánh Công Đồng ân cần và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, nhất là các tu sĩ, hãy đạt đến “sự hiểu biết tuyệt vời về Chúa Giêsu Kitô” (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh. “Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Vì thế, họ phải năng tìm đến với chính bản văn Thánh Kinh, hoặc nhờ Phụng vụ thánh chứa đựng dồi dào Lời Chúa, hoặc nhờ việc sốt sắng đọc Sách Thánh, hoặc nhờ những lớp học hỏi thích hợp và những phương tiện khác hiện đang được phổ biến khắp nơi với sự chuẩn nhận và quan tâm của các vị Chủ chăn trong Giáo Hội”.
[10] Ibid. 18
[11] GS. Đaminh Phạm Xuân Uyển, SDB, NHẬP MÔN KINH THÁNH, nxb. Đồng Nai 2014, tr. 137-140
[12] Để làm giàu kiến thức Kinh Thánh, nhiều tác giả trong tạp chí En ce temps Là Le Journal De La Bible, chuyển ngữ : Lm. Fx. Lã Thanh Lịch, , hiệu đính : Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Phần Tân ước Tập 2, nxb. Tôn giáo 2012, tr. 1074 : “Trước hết là một tin, hay việc loan báo một biến cố : “Bạn có biết tin không?”. Phúc âm khác hẳn với một ý thức hệ thông thái, một triết học, một suy tưởng tinh thông, kết quả của khối óc tinh xảo loài người. Phúc âm cho biết một thực tại lịch sử. Thực tại đó là Giêsu thành Nazareth. Khởi điểm không thể chối cãi được và ngày nay chỉ còn một số ít người lạc hậu phản đối thực tại đó. Lại nữa, tin tức về biến cố mới đó lại là tin mừng. Phúc âm không đưa ra một tin đơn thuần, rồi bỏ mặc cho độc giả suy tưởng, Nhưng Phúc âm giới thiệu sự kiện mang sẵn một ý nghĩa : sự kiện đó, biến cố đó tốt lành, tế độ, là nguồn sống và hy vọng của mọi người…” (Jean Pièrre Charlier O.P).
[13] Ibid. Tr. 1074 -1075.
[14] Ibid. Tr 1075 -1076 : “Thực sự, Marcô loan Tin mừng, “giảng” hơn là “viết”. Đó là một lời nói trực tiếp hơn là một sản phẩm văn chương, lời nói được hăng hái gào lên, không hoa hoè nhưng mãnh liệt, có sức va chạm mạnh. (…) Theo sát bản văn chúng ta đang có, ý định của Matthêu lại khác : ông đã viết một cuốn sách, chính ông nói điều ấy: “Sách gia phả của Đức Giêsu Kitô” (Mt 1,1). Thời đại ông, một cuốn sách được viết ra để được tra cứu hơn là để đọc một hơi…Phúc âm Matthêu ra đời khoảng năm 85 và viết cho một giáo đoàn đã có tổ chức vững vàng…như một cuốn “sách giáo lý” dạy những chân lý và phương pháp mục vụ. Như thế không còn phải là một Tin Mừng được loan truyền nữa mà là cuốn sách tuỳ thân được soạn đàng hoàng để bất cứ tời nào khi cần đến thì tra cứu. (…) Luca lại khác nữa. Tác giả là một văn sĩ giỏi. Như ông nói, ông soạn một bản tường thuật về những biến cố đã xảy ra (Lc 1,1). Với ông lần đầu tiên trong văn chương Kitô giáo xuất hiện một tác phẩm thời danh : Đời sống của Đức Giêsu. Đang khi sách của Marcô thì 9/10 các động từ được dùng ở hiện tại (“Đây việc xảy ra”) còn trong sách của Luca tường thuật đối chiếu đó được đặt vào quá khứ như trọng tâm là kỷ niệm : “Đây việc đã xảy ra”. Do đó “Phúc âm thứ ba” với giọng điệu rất nhiệt thành, rất cảm động, kiệt tác của văn chương thời cổ, không ngừng gây ấn tượng. Còn về Gioan, chẳng có gì nói rõ bản chất tác phẩm của ông. Nhưng không ai còn lầm lẫn gì nữa. “Tin Mừng” coi như được độc giả biết đến từ lâu rồi, nên sách của Gioan mời họ suy gẫm sâu xa hơn nữa. Ở đây khoa thần bí tiếp nối kinh nghiệm đã được Marcô tiết lộ, với những âm điệu được các bậc hiền triết xưa kia đã gióng lên. Nếu sách của Marcô để nghe, của Matthêu để tra cứu, của Luca để đọc thì sách của Gioan đem lại những cái nhìn vô tận trong chiêm niệm”.
[15] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 23-25.
[16] Ibid. Tr. 30
[17] P. Pourrat. Christian Spirituality. London Bunrs Oates and Washbourne LTD. P. 1 : “The Christian life and, a fortiori, the perfect life consist in two fundamental and correlative dispositions, each of which calls for the other, unable to exist without each other, which should inspire all our acts. (1) the renuntiation of self; (2) the firm determination to follow or imitate Christ” (Tạm dịch : Đời sống Kitô hữu, nhất là đời sống hoàn thiện luôn cần hai nhân tố nền tảng và hỗ tương, tác động lẫn nhau và cần thiết cho nhau để định hướng mọi hành động của chúng ta. Hai nhân tố đó là (1)sự từ bỏ chính mình; (2) quyết tâm bước theo hay noi gương Chúa Kitô”
[18] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH II” – NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG LINH ĐẠO NỔI BẬT TRỌNG LỊCH SỬ KITÔ GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 28 : “Thực vậy, một đàng thánh Máccô cung cấp khá nhiều dữ liệu để minh chứng tính cách siêu phàm của Đức Giêsu qua các phép lạ; (một phần ba tác phẩm được dành để thuật lại các phép lạ chữa lành, trữ quỷ). Nhưng đồng thời, ông Máccô ra như che dấu cái gì đó, (điều được các học giả đặt tên là “bí mật Đấng Mêsia”, - secretum messianicum-, bởi vì Đức Giêsu buộc những người được phép lạ và thậm chí các môn đệ phải im lặng, không được tiết lộ về Người : 1,25.44; 3,12; 5,43; 7,36; 8,30; 9,9). Phải chăng đây là một kỷ thuật trình bày úp mở, vừa hé mở, vừa che dấu? Thiết tưởng có thể trả lời như thế nầy : các phép lạ tự nó cho ta thấy rằng Đức Giêsu là Đấng siêu phàm; nhưng đừng ai vội vàng tự hào rằng mình đã thấu hiểu bản tính của Đấng siêu phàm đó ! Chúng ta sẽ hiểu sai lầm về Người nếu chỉ nhìn thấy một danh sư chữa bệnh hay một pháp sư quyền năng. Thậm chí nếu ai tiếp tục nuôi dưỡng hình ảnh đó trong đầu óc thì sớm sẽ bị thất vọng”.
[19] Ibid. Tr. 29 : “Các học giả nhìn nhận tài bố trí của thánh Marcô. Ở đầu tác phẩm, ông muốn trình bày Tin Mừng đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1). Người đọc tưởng chừng như đã khám phá được điều gì đó khi nghe các bài giảng hoặc chứng kiến các phép lạ. Nhưng không, các cảm giác đó đều trật hết ! Chân lý về Đức Giêsu Con Thiên Chúa chỉ được bộc lộ rõ rệt khi Người bị chết treo trên thập giá, với lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng phụ trách cuộc hành hình (15,39), đang khi các môn đệ bỏ chạy tán loạn (14,50). Qua đó, ra như ông Marcô muốn nói rằng : ai muốn hiểu biết về Đức Giêsu thì cần phải chiêm ngắm cuộc Tử Nạn của Người. Những thứ cảm nghiệm bên ngoài Thập Giá có nguy cơ rơi vào hão huyền. Con đường dẫn tới cảm nghiệm tâm linh chân chính không thể nào tách rời khỏi thập giá…”
[20] Ibid. Tr. 30 : “Dĩ nhiên là chúng ta không thể nào hiểu các phần thưởng đó theo nghĩa vật chất, nhưng theo nghĩa tinh thần. Phải chăng đó chẳng phải là chính cảm nghiệm tâm linh đó sao, một thứ cảm nghiệm tâm linh tinh ròng, đã được thanh luyện khỏi những áo tưởng ?”
[21] Ibid. Tr. 30.
[22] Ibid.
[23] Ibid. Tr. 31
[24] Ibid. Tr. 33-34
[25] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 33
[26] SĐD (GE) 63
[27] Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP. (Giới thiệu) Tông huấn GAUDETE ET EXSULTATE. Nguồn : Trang mạng Tổng giáo phận Hà Nội. Link : http://www.giaolyductin.net/gioi-thieu-tong-huan-gaudete-et-exsultate.html
[28] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH II” – NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG LINH ĐẠO NỔI BẬT TRỌNG LỊCH SỬ KITÔ GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 35
[29] Đức Hồng Y Walter Kasper, La Miséricorde Notion fondamentale de l ‘ Évangile Clé de la vie chretienne (LÒNG THƯƠNG XÓT cốt lõi của Tin Mừng và chìa khoá của đời sống Kitô hữu), bản dịch tiếng Việt ; Bayard Việt Nam. Dịch thuật : Lm. Gioakim Nguyễn Khương Duy, AA, Nt. Marie Paulina Nguyễn Thị Chung, RNDM, Nt. Maria Phạm Thị Bích Giang, OA, nxb Tôn giáo 2016, tr. 81 : “Thánh sử Luca đã chỉ đúng vào những gì quan trọng trong thông điệp của Chúa Giêsu : nơi mà Thánh Matthêu nói về sự trọn hảo của Thiên Chúa (Mt 5,48), thì Thánh Luca nói về lòng thương xót của Người (Lc 6,36). Vậy, đối với Thánh Luca, lòng thương xót là sự trọn hảo của cả chính Thiên Chúa. Người không kết án, Người tha thứ. Người cho và cho mãi; đấu đo của Người là một đấu tràn đầy, lèn lắc, đầy đến ngọn và trào tràn ra. Lòng thương xót của Thiên Chúa có thể nói được là vượt quá mọi kích thước; nó vượt xa mọi mức đo khác”.
[30] Ibid. Tr. 82-85 “Chính qua những dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã trình bày cách hoàn hảo nhất thông điệp lòng thương xót của Chúa Cha. Nhất là đối với những dụ ngôn về người Samari nhân hậu (Lc 10,25-37) và người con hoang đàng (lc 15,11-32). Chúng ta được khắc sâu vào trong ký ức của nhân loại và hầu như đã trở thành những ngạn ngữ điển hình. (…). Tuy nhiên, sẽ là sai, nếu đem gán cho thông điệp của những dụ ngôn một chủ nghĩa nhân văn nói chung. Các dụ ngôn được dùng là để nói lên cách xử sự của Chúa Giêsu và để thấy nơi Người, cách cư xử của Cha trên trời. “Ai thấy tôi, là thấy Cha tôi” (Ga 14,7.9). Nơi Người thể hiện lòng nhân từ và sự yêu thương của Thiên Chúa, Vị Cứu tinh của chúng ta (Tt 3,4)”. Nơi Người, chúng ta có một vị Thầy Cả có khả năng động lòng trắc ẩn trước các yếu đuối của chúng ta, vì Người đã thấu hiểu các thử thách và cám dỗ như chúng ta, nhưng không hề phạm tọi (Dt 4,15). Đòng thời Chúa Giêsu cũng muốn nói với chúng ta điều nầy : trong dụ ngôn người con hoang đàng, câu chuyện được kể lại chính là câu chuyện của con. Chính con là đứa con hư hỏng đó, con cũng vậy, con cần phải sám hối và thay đổi đời sống. Đừng sợ ! Chính Thiên Chúa đang đến với con và ôm con vào lòng. Người không hạ thấp con; người trả lại cho con phẩm giá làm con của người.”
[31] Pierre Dumoulin, LUC – L ‘ ÉVANGILE DE LA JOIE, EdB 2013, p. 162 : “Luc est vraiment le témoin d’ une Bonne Nouvelle ; on trouve plus d’ une vingtaine de fois le mot “joie” et ses dérivés dans l’ évangile. Dans les récits de l’ Enfance, l’ insistance est plus forte qu’ ailleurs…” (Luca thật đúng là chứng nhân của Tin Mừng: trong phúc âm (Luca), từ “vui” và những gì liên quan được tìm thấy hơn 20 lần. Trong các trích đoạn về thời thơ ấu, ý nghĩa đó lại càng được nhấn mạnh.”
[32] Ibid. P. 163 : “Tous les personnages sont donc présentés comme porteurs de joie : les anges, Zacharie, Marie, Jean Baptiste, EElisabeth, les bergers vivent cette joie sous l' action de l' Esprit Saint ou lors de la visite des anges, et ils la rayonnent autour d' eux : le Ciel se fait proche. Par l' annonce de la Bonne Nouvelle en marche, ils recoivent interieurement cet emerveillement joiyeux.” (Như những người đang mang niềm vui, tất cả các nhân vật như các thiên sứ, ông Zachacrie, mẹ Maria, Gioan Tẩy giả, bà Êlisabeth, các mục đồng, tất cả họ đang sống chính niềm vui được tác động bởi Chúa Thánh Thần hoặc niềm vui khi họ được các thiên sứ viếng thăm chiếu toả : trời cao gần lại. Nhờ Tin Mừng được loan báo, họ đón nhận niềm vui diệu kỳ nầy trong tâm hồn.)
[33] Ibid. Tr. 162-168.
[34] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH II” – NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG LINH ĐẠO NỔI BẬT TRỌNG LỊCH SỬ KITÔ GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 36-37.
[35] Ibid. Tr. 66-67
[36] Ibid. Tr. 67-68
[37] ĐGH Phanxicô, Tông huấn GE, Chương II, HAI KẺ THÙ CỦA SỰ THÁNH THIỆN.
[38] SĐD (Phan Tấn Thành) tr. 71 : “Từ ngữ ở, ở lại được sử dụng khá nhiều trong Phúc âm thứ bốn để diễn tả sự thân mật giữa Thiên Chúa với nhân loại. Quyển sách mở đầu bằng biến cố “Lời Thiên Chúa” đến làm người và cư ngụ (cắm lều) ở giữa chúng ta (1,14). Mối tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại được lồng trong khung cảnh một cuộc đối thoại : Thiên Chúa đến với loài người qua Lời của Ngài. Đối lại, ai tiếp đón Lời của Chúa thì “ở lại” trong Chúa, và Chúa ở lại trong họ (15,4-10), như cành nho ở lại trong cây nho. Dĩ nhiên việc “ở lại” nầy hàm ngụ tình yêu hợp nhất.”
[39] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 39 : “Tới đây ta có thể khép lại sự mô tả vắn tắt của mình về linh đạo của các Tin Mừng, cũng là linh đạo Kitô giáo ở mức toàn bích. (...) Linh đạo Tin Mừng tự thích nghi nói với mọi thời đại, nhưng mỗi hoàn cảnh lịch sử và mỗi nền văn hoá đáp lại các mệnh lệnh của Tin Mừng theo các nhu cầu và các khả năng riêng của mình. Do đó linh đạo của Tin Mừng là một tiến hoá năng động không thể bị giới hạn ở bất cứ nơi nào hoặc cột chặt vĩnh viễn vào bất cứ bối cảnh lịch sử nào...”
[40] GƯƠNG CHÚA GIÊSU, Cứu thế Tùng thư, nxb Hà Nội 2004, tr. 9
[41] Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ, Huấn thị “XUẤT PHÁT LẠI TỪ ĐỨC KITÔ”, số 23,24
Khoá trình Linh Đạo cơ bản (tt)
Trước khi đi vào nội dung nầy, chúng ta cùng lắng nghe chính lời huấn dụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Chương III (TRONG ÁNH SÁNG CỦA VỊ TÔN SƯ) của tông huấn Gaudete et Exsultate về tầm quan trọng và sự cần thiết của Tin Mừng, tức những “lời giảng dạy của Chúa Giêsu” về đàng nên thánh :
“Có thể có nhiều lý thuyết về điều gì làm nên sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Suy tư như vậy có thể hữu ích, nhưng không gì giúp soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và nhìn xem cách Người giảng dạy chân lý.(số 63)
“Một lần nữa, chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giêsu với tất cả lòng yêu thương và kính trọng mà vị Tôn sư đáng nhận được. Chúng ta hãy để cho những lời của Người khuấy động, thúc bách và đòi hỏi chúng ta phải thật sự thay đối cách sống của mình. Bằng không, sự thánh thiện vẫn chẳng khác gì một từ ngữ trống rỗng.” (số 66)
I. GHI NHẬN MỞ ĐẦU
1. Đức Kitô chính là “hiện thân đích thực của linh đạo” :
Tất cả những “thuyết minh” về “Lịch sử cứu rỗi”, về “Mặc khải”, về “Ơn Cứu Độ”, về mầu nhiệm Hội Thánh…, nói cho cùng, đều là những “chú giải” hay “cắt nghĩa mở rộng” chính câu “Lời Chúa” được cô đọng súc tích như một “công thức tuyên xưng”, một “tín điều”, mà chúng ta tìm thấy trong thư gởi giáo đoàn Do Thái : “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1-2).
Thế nhưng, chính Vị “Thánh Tử” và cái “thời sau hết” mà thư Do Thái nhắc tới đó lại đã được Tin Mừng Gioan thông báo trước, không phải bằng lời phát biểu của loài người, nhưng bằng lời khẳng định thẳng thừng của chính “Đương Sự” về bản thân mình : “Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ta” (Ga 14,6), và về cái thời điểm, cái “GIỜ”, mà ở đó : “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật…” (Ga 4,21-23).
Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng : nét chủ đạo của toàn bộ “Linh đạo Kitô” trong thời Tân ước, đặc biệt, thời Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng cùng với các môn sinh của Ngài, đó chính là CON NGƯỜI GIÊSU, một Ngôi Vị sống động, mà tất cả phải quy hướng về, phải “đi ngang qua”, phải là “điểm xuất phát”. Đây chính là điểm “khác biệt căn cội” đối với các nền linh đạo của các tôn giáo khác (Phật giáo, Khổng giáo, Hồi giáo…), là những tôn giáo mà nền tảng linh đạo không nhằm quy chiếu vào bản thân của Đấng sáng lập cho bằng vào giáo lý, lời dạy, con đường gợi mở…của Đấng ấy.[1]
Mà không chỉ là điểm cốt yếu của “cái thời đầu tiên” nầy thôi đâu. Đức Kitô chính là “hiện thân của một linh đạo đích thực” cho mọi nơi, mọi thời, mà bất cứ một “cố gắng nào nhằm xây dựng một linh đạo có tính “hợp thời hơn” đều chỉ là ảo tưởng”[2]
Nếu “linh đạo” là con đường nhằm giúp con người hoàn thiện bản thân để tiến tới gặp gỡ Thiên Chúa, thì quả thật, không có một con đường nào khác, ngoài “con đường Giêsu”; bởi vì chính Ngài, Đấng vừa mạc khải rõ ràng về Thiên Chúa, vừa vén mở mọi chiều kích về thân phận con người, như Công Đồng Vatican II đã minh giải trong hiến chế Mục Vụ :
“Mầu nhiệm con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Thật vậy, Ađam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Ađam mới, trong khi mặc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Bởi thế, không lạ gì khi những chân lý đã nói ở trên đều tìm thấy nguồn gốc và đạt tới đỉnh điểm nơi Chúa Kitô”.[3](Xem thêm : ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông huấn GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU”- Ecclesia in Asia, số 13 : Đức Giêsu Kitô : Chân lý của Nhân loại; Sách GLHTCG số 516[4]).
Cũng chính vì lẽ đó mà “lời khuyên thường hằng” của Hội Thánh về “con đường hoàn thiện” dành cho mọi Kitô hữu, cách riêng cho những người chọn sống đời thánh hiến, là phải luôn “xuất phát lại từ Đức Kitô” :
“Vì thế cần gắn bó ngày càng mật thiết hơn với Đức Ki-tô, trung tâm của đời sống thánh hiến và lại một lần nữa đi lại con đường hoán cải và canh tân, giống như kinh nghiệm đầu tiên của các tông đồ, trước và sau biến cố phục sinh, đó là xuất phát lại từ Đức Ki-tô. Vâng, ta phải xuất phát lại từ Đức Ki-tô bởi vì chính từ nơi Người mà các môn đệ đầu tiên đã khởi hành tại Ga-li-lê; từ nơi Người mà suốt giòng lịch sử, những người nam nữ thuộc mọi cấp bậc và văn hoá, được Chúa Thánh Thần hiến thánh theo ơn gọi của họ, đã khởi hành; vì Người, họ đã từ bỏ gia đình và quê hương, theo Người cách vô điều kiện, chuẩn bị sẵn sàng để loan báo Nước Trời và làm điều lành cho mọi người (x. Cv 10,38).”[5].
Mà quả thật, ngoài Đức Kitô, Hội Thánh muôn nơi muôn thuở, những ai nối bước các Tông Đồ Phêrô, Gioan…của một thuở ban đầu, nào có gì để “trao cho thế giới” ngoài chính Đức Kitô : “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây : nhân danh Đức Giêsu Kitô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi !” (Cv 3,6).
Nếu chính Đức Kitô là “hiện thân đích thực của linh đạo”, thì việc “tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô” lại chính là đích điểm mà linh đạo nhắm tới; bởi vì chỉ qua con đường duy nhất đó con người mới “được tái sinh và được nâng lên trong trật tự siêu nhiên”.[6] (Xem thêm Mary Milligan, R.S.H.M, Linh đạo Kitô giáo, Ngô Công Đức dịch. Nguồn : Trang mạng Xuân Bích. Link : https://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/04/11/dan-vao-than-hoc-chuong-ix/)[7]
Nói cách khác, đúng như nhận định của nhà thần học Dom Columba Marmion : “Tất cả đời sống Kitô giáo, tất cả sự thánh thiện, đó là nhờ ơn sủng mà trở nên điều vốn là bản tính của Đức Giêsu : Trở nên Con Thiên Chúa”[8]
2. Tin Mừng : Bảng chỉ đường linh đạo Kitô :
Thế nhưng, làm sao biết rõ và biết đúng về Chúa Kitô để bước theo Ngài ?
Chúng ta đã tìm thấy câu trả lời của Thánh Giêrônimô mà Hiến chế Mạc Khải của Công Đồng chung Vatican II đã nhắc đến : “Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”[9]; và Công Đồng lại xác quyết : “Không ai không biết rằng trong tất cả các Sách Thánh, kể cả các sách Tân Ước, thì các sách Tin Mừng xứng đáng có địa vị trổi vượt, vì là chứng tích chính yếu về đời sống và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Cứu chuộc chúng ta”.[10]
3. Vài điểm lưu ý tổng quát về việc đọc Tin Mừng :
3.1 : Khái quát “quá trình hình thành” :
Khi nói đến “yếu tố Tin Mừng” ở đây không có ý nhấn mạnh đến một “giai đoạn”, một “thời điểm” (liên quan đến cuộc đời của Đức Kitô) cho bằng là “địa chỉ” để cùng nhau tìm lại những giáo huấn ban đầu của chính Đức Kitô; vì khi Đức Kitô rao giảng Tin Mừng, thì chắc chắn Ngài không soạn tác một cuốn sách, một tài liệu, một thủ bản nào. Trong khi đó, 4 cuốn Tin Mừng Matthêu, Máccô, Luca và Gioan mà chúng ta đang nói tới lại hình thành sau khi Chúa về trời khá lâu (khoảng 30 năm) theo ba giai đoạn sau :
- Đầu tiên Chúa Giêsu truyền giảng trực tiếp (khoảng năm 30-33)
- Tiếp đến : Các Tông Đồ ra đi làm chứng về Đấng Phục Sinh và nhắc lại những lời nói và việc làm của “Thầy mình” (Khoảng năm 33 – 80).
- Sau cùng : 4 Thánh sử đã gom góp lại các lời rao giảng của các Tông Đồ, các ký ức sống động của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, được ơn Linh Hứng, đã viết lại thành 4 Tin Mừng như chúng ta có hôm nay, theo trình tự thời gian khác nhau : Tin mừng Matthêu khoảng năm 80-90; Tin mừng Máccô khoảng năm 65-70; Tin mừng Luca khoảng năm 80 và Tin mừng Gioan khoảng năm 90-95.[11]
3.2 : Khái quát nội dung cốt yếu : “TIN MỪNG CỦA MỘT THỰC TẠI LỊCH SỬ” :
Bốn cuốn Tin Mừng hay còn được gọi là “PHÚC ÂM” có chung một tên gọi xuất phát từ một từ Hy Lạp : ev-angélion có nghĩa “Tin Vui”, “Tin Mừng”, “Tin tốt lành”…; và cái “TIN MỪNG” đặc biệt đó lại liên quan đến một “nhân vật lịch sử”, một “thực tại lịch sử” : GIÊSU THÀNH NA-DA-RÉT”. Còn hơn thế nữa, “Tin Mừng về Con Người” đặc biệt đó không phải được “tung ra”, được “thông báo” như một “tin tức đơn thuần” rồi bỏ mặc cho mọi suy tưởng, cắt nghĩa tuỳ nghi; nhưng đó là một “Tin Vui” tốt lành, mang ơn cứu độ, nguồn sống và hy vọng cho toàn thể loài người.[12]
3.3. Tin Mừng với những sắc thái riêng và thái độ cần có để tiếp cận :
Thật sự ra, chỉ có một Tin Mừng duy nhất, đúng như lời giới thiệu mở đầu của Thánh sử Máccô : “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1); và nội dung cốt yếu đó chính là “giải thích một biến cố lịch sử để biến cố ấy giao tiếp với những người mà Phúc âm đến với họ…”; hoặc cụ thể hơn, đó là “lời huấn thị dựa vào một biến cố dĩ vãng chất vấn mỗi người, sau khi cho biết ý nghĩa sâu xa của biến cố đó, phải thâm nhập vào lịch sử từng người một, ngày xưa cũng như ngày nay…”[13]
Tuy nhiên, tuỳ theo cách cảm nhận riêng của từng tác giả cùng với những ảnh hưởng đi theo hoặc do “nguồn” tiếp cận, do văn hoá vùng miền, do yêu cầu cộng đoàn, do thời điểm soạn tác…, truyền thống xưa nay vẫn cho rằng : Tin Mừng Máccô thiên về “giảng để nghe”, Matthêu thích hợp để “đối chiếu nghiên cứu”, Luca mang chất hoài niệm để “đọc” và Gioan lại hướng tâm hồn đến chỗ trầm sâu “suy niệm”[14].
Riêng Jordan Aumann trong “Lịch sử linh đạo Công Giáo” đã lưu ý 3 thái độ cần có để đọc Tin Mừng, Tân Ước trong chiều kích “linh đạo” :
- Sống sự hiện diện mầu nhiệm của Đức Kitô ngay trong đời sống hiện tại (Không phải chỉ tìm hiểu Đức Kitô lịch sử, một câu chuyện của quá khứ…).
- Sống mầu nhiệm Chúa Kitô phát triển trong hiện tại và hướng đến kiện toàn trong tương lai (Không cố chấp giữ nguyên trạng và bảo thủ quá khứ)
- Sống Tin Mừng (linh đạo Tin Mừng) trong hiện thực cuộc sống và môi trường xã hội muôn nơi, muôn thuở.[15]
II. LINH ĐẠO TIN MỪNG TRONG CÁI NHÌN TỔNG QUAN
Khi nhắc đến “Tin Mừng” trong ý nghĩa “4 tác phẩm đầu tiên của Tân Ước”, cho dù đều có chung một nội dung cốt lỏi : CON NGƯỜI VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA KITÔ, nhưng truyền thống xưa nay vẫn phân làm “hai nhánh” : Tin Mừng Nhất Lãm với 3 tác giả Matthêu, Máccô, Luca; và Tin Mừng Gioan.
Chúng ta sẽ dừng lại “các điểm nhấn linh đạo” riêng của hai “nhánh” nầy.
1 : Điểm nhấn chung của Tin Mừng Nhất Lãm:
a/. Thuộc về Nước Thiên Chúa :
Chúng ta không dừng lại phạm vi “chú giải” mang tính thần học chuyên biệt về Kinh Thánh hay tín lý; chúng ta ghi nhận ý nghĩa liên quan đến linh đạo, đến đời sống thiêng liêng.
Theo tác giả Jordan Aumann thì “Trong bối cảnh thiêng liêng, Nước Thiên Chúa thuộc nội tâm, nó ở bên trong chúng ta (Lc 17,21), nó có thể lớn lên và tiến hoá, và từ mỗi người nó sẽ vươn ra tới toàn nhân loại, toàn thế giới. Nước Thiên Chúa là đời sống trong Đức Kitô, với Ngài và cả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng hiện diện (Ga 14,23). Đó là nước có mặt nhưng luôn luôn chuyển hoá, và do đó chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện cho “Nước Cha trị đến”.[16]
- Nước Thiên Chúa chính là Đức Kitô : “Nếu ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì Nước Thiên Chúa đã ở giữa các ngươi” (Lc 11,20)
- Nước Thiên Chúa là của Đức Kitô : “Thầy trao Vương quyền cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương quốc của Thầy” (Lc 22,29-30)….
- Nước Thiên Chúa dành cho những kẻ bé nhỏ, khó nghèo : “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng vào được Nước Trời” (Mt 18,1-4; Mc 9,33-37; Lc 9,46-48)…
Từ giáo lý nền tảng đó, chúng ta gặp lại ý nghĩa cốt yếu của linh đạo Kitô : thuộc về Nước Thiên Chúa là thuộc về Đức Kitô, được tham dự vào Nước Thiên Chúa là tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô, xây dựng Nước Thiên Chúa là làm cho Đức Kitô được lớn lên trong nhân loại nầy, thế giới nầy.
b/. Từ bỏ chính mình và đi theo Chúa Giêsu. (Lc 9,23, Mt 16,24; Mc 8,34)
Theo linh mục P. Pourrat, thì toàn bộ sứ điệp về tu đức của Tin Mừng có thể tóm tắt qua những lời sau của Chúa Giêsu :
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
“Từ bỏ” và “theo Chúa” chính là hai “chọn lựa nền tảng và có tương quan mật thiết với nhau” làm nên “linh đạo của Tin Mừng”[17]
Như vậy, muốn hiểu rõ hơn những con đường được đề nghị để thuộc về “Nước Thiên Chúa” và những hướng dẫn thực hành cụ thể việc “từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày theo Chúa”, chúng ta phải dừng lại nơi từng Tin Mừng.
2. Điểm nhấn riêng của mỗi Tin Mừng :
3.1. Tin Mừng Máccô và Chiều kích Khổ Nạn :
Trước hết, Tin Mừng Máccô xuất hiện sớm nhất (khoảng năm 65-70) so với 3 Tin Mừng còn lại; và nội dung chủ yếu cũng là tập trung “giới thiệu con người và cuộc đời của Đức Giêsu” : “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1), đặc biệt, cho các cộng đoàn ngoại giáo (ngoài Do Thái giáo).
Nói cách khác, Máccô muốn mang lại câu trả lời “dứt dạc” cho các vấn nạn : “Ông ta là ai vậy ?” (Mc 4,41); “Ông không phải là một bác thợ mộc đấy ư ?” (Mc 6,2); “Anh em thử nói xem tôi là ai ?” (Mc 8,27.29)…
Thoạt đầu, cũng như các Tin Mừng khác, “con đường sơ khởi” Máccô dùng để người ta tiếp cận và khám phá Chúa Giêsu đó chính là các phép lạ, vừa là những “dữ liệu để minh chứng tính cách siêu phàm của của Đức Giêsu”, vừa là một “sự úp mở” để dẫn tới một câu trả lời dứt dạc, chuẩn xác .[18]
Và đây chính là “nhân vật Giêsu đích thực” mà Tin Mừng Máccô muốn chuyển tải : ĐỨC KITÔ KHỔ NẠN.
Nó cách khác, muốn khám phá dung mạo đích thực của Chúa Giêsu, muốn tin nhận Ngài, phải chiêm ngắm cuộc khổ nạn, phải đi ngang qua “diễn trình thập giá”.[19]
Cũng theo Máccô, đi theo con đường thập giá cụ thể đó là :
- Từ bỏ mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng : Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; con ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (8,5).
- Chia sẻ của cải cho người nghèo, thanh thản lên đường theo Chúa : Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (10,21).
- Phục vụ và hiến mạng sống : “Vì con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (10,45).
- Đích điểm của khổ nạn, thập giá là phục sinh, sau mất mát thiệt thòi là vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu : “Thầy bảo thật anh em : Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giời, ở đời nầy, lại không nhận được nhà cửa,, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau…” (10,28-31).[20]
3.2. Tin Mừng Matthêu và Con đường Tám mối Phúc Thật. (Mt 5,1-12; Lc 6,20-23)
Nếu “Nước Thiên Chúa” là một chủ đề chung” của Tin Mừng Nhất Lãm, thì theo Matthêu, một trong những con đường chính yếu để “đi vào Nước Thiên Chúa”, “thuộc về Nước Trời”, đã được Chúa Kitô nhấn mạnh như một “Hiến Chương”, một quy luật tối thượng của “nền công chính mới” đó chính là “TÁM MỐI PHÚC THẬT”.
Tuy nhiên, trước khi phân tích rõ hơn “điểm nhấn quan trọng nầy, chúng ta cũng cần nhắc đến một vài nét “đặc trưng” của Tin Mừng Matthêu, một Tin Mừng “dành cho các cộng đoàn Kitô hữu gốc Do Thái”, và luôn chứng tỏ một tương quan mật thiết giữa Cựu ước và Tân ước, đặc biệt giữa việc trung thành với luật cũ Mô-sê và việc kiện toàn luật cũ theo nhãn giới (luật mới) của Tin Mừng. (Xem thêm Phan Tấn Thành)[21]
Và sau đây là những nét đặc trưng của Matthêu :
- Kiện toàn lề luật : Luật tôn trọng sự sống con người (Mt 5,21-22); luật về sự trung tín trong hôn nhân và sự trong sạch (5,21-22); luật về giá trị lời thề (5,33-37); luật về công bằng, bác ái (5,38-42); luật về yêu thương (5,43-45)[22]…
- “Ngũ đạo hành thiện” của Tân ước : Được Matthêu trình bày qua 5 bài giảng quan trọng (tương đương Ngũ thư của Mô-sê) : Bài giảng trên núi (Hiến chương Nước Trời) (Chương 5-7); bài giảng truyền giáo (Chương 10); bài giảng về Nước Trời qua các dụ ngôn (Chương 13); bài giảng về đời sống cộng đoàn Giáo Hội (Chương 18); bài giảng về Cánh chung (Chương 24).[23]
- Đức Kitô đang hiện diện : Hiện diện thường xuyên cho đến tận thế (28,20); hiện diện khi tín hữu họp nhau cầu nguyện (18,20); hiện diện nơi những kẻ khổ đau, ốm đói…(25,31-46)[24]
- Trang bị tinh thần :
- Tinh thần phó thác cho sự quan phòng : “Chim sẻ, hoa đồng” (6,25-32; 10,29-31)
- Tinh thần khiêm hạ, nội tâm (6,1-6) : Bố thí kín đáo (6,2-4); cầu nguyện kín đáo (6,5-6).
- Tinh thần sẻ chia tha thứ (18,35) : “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
- Tinh thần truyền giáo (28,19) : “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần”.
- Tinh thần trông cậy vững vàng, hy vọng cánh chung : (13,3-8.31-32; 13,36-43).
- Con đường Tám Mối phúc :
Khi đề nghị “con đường” có vẽ “ngược dòng nầy, Chúa Kitô muốn một đàng “kiện toàn việc thực hành Luật Cựu ước” và một đàng “hướng đến một chân trời mới trong tương quan của con người với Thiên Chúa và với đồng loại”[25]
Riêng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dành trọn cả chương III trong tông huấn Gaudete et Exsultate với tựa đề “TRONG ÁNH SÁNG CỦA VỊ TÔN SƯ” để khai triển chủ đề “Tám Mối Phúc Thật” mà ngài đặt cho một tên gọi là “căn cước của người Kitô hữu”. Xin trích :
“Có thể có nhiều lý thuyết về điều gì làm nên sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Suy tư như vậy có thể hữu ích, nhưng không gì giúp soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và nhìn xem cách Người giảng dạy chân lý. Đức Giêsu giải thích một cách rất giản dị nên thánh có nghĩa là gì khi Người ban cho chúng ta các Mối Phúc (x. Mt 5,3-12; Lc 6,20-23). Các Mối Phúc tựa như thẻ căn cước của người Kitô hữu. Vì vậy, nếu ai hỏi: “Ta phải làm gì để trở nên một Kitô hữu tốt?” thì câu trả lời rất đơn giản. Chúng ta phải làm, mỗi người theo cách riêng của mình, điều Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Bài Giảng về các Mối Phúc. Trong các Mối Phúc, chúng ta tìm thấy một chân dung của vị Tôn Sư, và chúng ta được mời gọi phản chiểu chân dung ấy trong cuộc sống hằng ngày của mình.”[26]
Để có thể dễ dàng tiếp cận giáo lý của Đức Giáo Hoàng về việc nên thánh qua nẻo đường “Tám Mối Phúc Thật”, cũng là “điểm nhấn đặc biệt của “Linh đạo Tin Mừng”, chúng ta có thể theo chân cha Phan Tấn Thành tóm tắt các ý tưởng chính như sau :
“Đâu là con đường nên thánh? Câu trả lời có thể tìm nơi tám mối phúc thật (GE 63). “Phúc” (hạnh phúc) và “Thánh” đồng nghĩa với nhau, bởi vì diễn tả con người đã đạt tới hạnh phúc vì đã trung thành với Thiên Chúa, hiến thân phụng sự Chúa (GE 64). Thiết tưởng nên nhắc lại điều nhận xét của các giáo phụ, - được Sách Giáo lý Hội thánh Công Giáo lấy lại ở các số 1716-1717) -, đó là: các mối phúc thật không chỉ là tóm lược các lời giảng của Thầy Giêsu nhưng nhất là chúng phác họa dung mạo của Chúa Giêsu. Nói khác đi, việc nên thánh không chỉ là tuân giữ lời dạy của Thầy Giêsu nhưng còn là chiêm ngắm và kết hợp với Người. Nói ngược lại cũng đúng: nếu ai muốn đi theo Thầy Giêsu thì hãy thực hành chương trình sống mà Người đã vạch ra, chứ đừng nên chỉ nhìn ngắm rồi bỏ đó (GE 97). Mặt khác, chúng ta cũng đừng quên những lời nhắn nhủ vừa nói ở chương trước: đường nên thánh không phải là ngọn núi mà ta gắng sức leo trèo; cần đến ân sủng của Chúa nữa. Đức Kitô không chỉ là một Thầy dạy (hoặc nhà lập luật), nhưng còn là Đấng dẫn ta đi bằng ân sủng.
Trong chương này, Đức Thánh Cha giải thích từng mối phúc và áp dụng vào những hoàn cảnh cụ thể, dưới lăng kính của truyền thống tâm linh Kitô giáo (GE 69-94). Bản văn chính là Mt 5,3-12, nhưng cũng được đối chiếu với Lc 6,20-23.
1/ Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Nghèo khó trong tinh thần không chỉ được hiểu về thái độ đối với tài sản vật chất, mà còn là thái độ tự do về tinh thần, “dửng dưng” đối với mọi tình huống xảy ra (tư tưởng của thánh Inhaxio: “santa indifferenza” (GE 69). Nghèo khó cũng có nghĩa là chấp nhận một lối sống khắc khổ đạm bạc.
2/ Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp.
Hiền lành là bình thản chấp nhận những khuyết điểm của tha nhân. Cần giữ thái độ hiền lành ngay cả khi phải cương quyết bảo vệ đức tin và chân lý. Tiếc thay, trong quá khứ, nhiều lần Giáo Hội đã quên lời dạy của Thầy về đức hiền lành và khiêm tốn (Mt 11,29). (GE 73)
3/ Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Chân phúc này được liên kết với ơn nước mắt, đặc biệt khi chia sẻ những thống khổ của tha nhân.
4/ Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Công chính có nghĩa là trung thành với ý Chúa. Công chính cũng được hiểu là công lý (hoặc công bình) mà ta khao khát thực hiện cho những người yếu kém. Tiếc rằng chúng ta thường trở thành đồng lõa với bất công khi bị lôi cuốn vào nạn tham nhũng (GE 78).
5/ Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Chúng ta biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc trao ban và tha thứ
6/ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Trái tim trong sạch khi yêu mến Chúa và tha nhân thật tình, chứ không chỉ bằng môi mép.
7/ Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Xây dựng hòa bình kể cả bằng lời nói, ít là không nói xấu người khác.
8/ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao" (Mt 5,3-12).
Bị bách hại vì sống công chính có nghĩa là sống theo lý tưởng, chứ không lê thê kéo dài cuộc đời tầm thường. Đức Thánh Cha nhắc nhở chúng ta là không dễ gì sống tám mối phúc, bởi vì không chỉ vì những yêu sách của nó trái ngược với tính ươn lười của ta, nhưng bởi vì khung cảnh xã hội hiện nay hầu như đi ngược với tinh thần ấy.
Đường nên thánh Kitô giáo cũng cần liên kết với chương 25 của Tin Mừng thánh Matthêu (câu 31-46), kêu gọi cứu giúp những người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nơi nương tựa, thiếu tự do (GE 95-109). Vào thời nay, đó là những người di dân, những người bị gạt bỏ, những hình thức nô lệ mới, vv. Việc thờ phượng Chúa không thể nào tách rời khỏi các công việc bày tỏ lòng thương xót.
Có lẽ không phải là thừa khi nhắc lại rằng những lời kết thúc “tuyên ngôn bát phúc” đã được dùng làm lời mở đầu cho tông huấn: “Anh em hãy vui mừng và hớn hở” (Gaudete et exsultate).[27]
3.3. Tin Mừng Luca : Lòng thương xót – Niềm vui :
a/. Lòng thương xót :
Là một “Thầy thuốc” và được mệnh danh là “văn sĩ của lòng nhân hậu”, cho nên chủ đề “lòng thương xót” chính là nét đặc trưng của Tin Mừng Luca :
“Xem ra đạo của Đức Giêsu quá cam go, đòi hỏi quá nhiều. Tuy nhiên, Luca được đặ biệt hiệu là “văn hào của lòng nhân hậu” (scriba mansuetudinis), bởi vì ông thích trình bày Thiên Chúa như là Đấng giàu lòng thương xót”[28]
- Sự hoàn thiện của Thiên Chúa chính là lòng thương xót : “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng xót thương” (Lc 6,36)[29]
- Những dụ ngôn điển hình hoàn hảo về lòng thương xót : Người Samari nhân hậu (Lc 10,25-37) và Người con hoang đàng (Lc 15,11-32).[30]
- Lòng thương xót được biểu hiện qua sự kiếm tìm, đợi chờ hoán cải, tha thứ và niềm vui : thiếu phụ tai tiếng (Lc 7,36-50), Giakê (19,1-10); đặc biệt với 3 dụ ngôn của chương 15…
- Thái độ khiêm tốn để lãnh ơn tha thứ : Người thu thuế trong đền thờ (18,13-14), tên trộm bị đóng đinh (23,42-43)…
- Tha thứ ngay trong cuộc khổ nạn : Cái nhìn dành cho Phêrô (22,61-62)…
b/. Niềm vui :
Song song với chủ đề “Lòng Thương xót”, “Niềm vui” cũng chiếm một chỗ quan trọng trong sứ điệp Tin Mừng Luca, đặc biệt trong các trình thuật về thời thơ ấu.[31]
Sau đây là 5 “chiều kích vui” theo phân tích của tác giả Pierre Dumoulin :
- Niềm vui của Tin Mừng (Tin mừng Nhập Thể, Tin vui cứu độ…) : “Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (1,14); “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (1,28); “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (1,44); “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (1,58); “thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” (1,47); “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân :…”[32]
- Niềm vui được làm con Thiên Chúa : Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha…” (Lc 10,21-22)
- Niềm vui vì được tha thứ : “Vậy tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” ( 15,7); “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (15,10);
- Niềm vui của sứ vụ : Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói : “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng khuất phục chúng con” (10,17); “Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy vui mừng vì tên anh em dã được ghi trên trời” (10,20)
- Niềm vui của Phục Sinh : Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi : Ở đây anh em có gì ăn không?” (24,41); “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ…” (24,52)[33]
- Cùng với “đặc sản lòng thương xót” và “niềm vui” đó, sứ điệp Tin Mừng Luca còn nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần (1,35; 11,20…), và đời sống cầu nguyện (3,21; 6,12-13; 9,18; 22,41; 23,46…); đặc biệt, Tin Mừng Luca còn chứa đựng những mẫu kinh nguyện chúc tụng ngợi khen mà hiện nay Giáo Hội sử dụng thường xuyên trong các Giờ kinh Phụng vụ : Kinh Magnificat (1,46-55); Kinh Benedictus (1,68-79); kinh Nunc dimittis (2,29-32)[34]
3. Tin Mừng Gioan : kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô :
Nếu “linh đạo” được hiểu đó là con đường dẫn đến sự gặp gỡ trọn vẹn Đức Kitô để thuộc về Ngài, trở nên môn sinh đích thực của Ngài…thì quả thật, Tin Mừng Gioan đã cho chúng ta những chỉ dẫn rất cần thiết để hiểu và thực hiện.
a/. Từ xác thể tới tâm linh :
Thánh Gioan, ngay từ đầu trang Tin Mừng, đã chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ độc đáo nầy như sau :
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói : “Đây là chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi : “Các anh tìm gì thế ?” Họ đáp : “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đau ?” Người bảo họ : “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,36-39).
- Trước hết, với kinh nghiệm của Gioan, “nghe” Lời Chúa, tiếng Chúa, ý Chúa…không chỉ là một “mở đầu cho cuộc gặp gỡ Đức Giêsu mà còn là thái độ căn bản kéo dài suốt hành trình Đức tin” [35]:
- Tin là luôn chú ý nghe lời Thầy dạy : “Ai nghe Lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết sống lại” (Ga 5,24).
- Tin là cảm nhận mối tương quan đặc biệt khi nghe tiếng của nhau : “Chiên nghe tiếng của mục tử, ông gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra” (10,4); “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng” (3,29).
- Từ cái nhìn, xem, thấy “dấu lạ” (bên ngoài) tiến tới “nhận thấy” một Đức Kitô đích thực : “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39); “Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu” (4,48); “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên nầy tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11); qua dấu lạ “bánh hoá nhiều” để nhận ra “Bánh Hằng Sống” (Ga 6,51); từ dấu lạ chữa lành người mù để nhận ra Chúa Giêsu là ánh sáng dẫn đưa đến ánh sáng bất diệt (8,12); qua dấu chỉ vết thương để Tôma nhận ra Đấng Phục Sinh : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin” (20,29); phải thấy ông Giêsu đến từ Nadaret để nhận ra Con Người đến từ Chúa Cha và Cha ở trong Người (7,27-29; 14,9)[36]
Đặc biệt Thánh Gioan, người Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu mến, lại có “đôi mắt tinh tường” để “ngộ ra Thầy”, mà đôi khi những người khác không thấy được : Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (Ga 20,8); Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô : “Chúa đó !” (Ga 20,7)
Gioan đúng là “le Voyant” !
- Để tin và thuộc về Đức Kitô phải tiếp xúc thân mật với Ngài : rờ, đụng chạm : “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” (1 Ga 1,1); những hành vi yêu thương và hoán cải của các bà Maria : Xức dầu ở Bêtania (Ga 12,3); ôm chân (20,17); Tôma đặt tay vào cạnh sườn (20,25); môn đệ ngồi dựa vào ngực Chúa (13,25); người lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra (19,34-37)
b/. Từ “Biết” tới ‘Yêu” :
Có lẽ, từ thời Thánh Gioan, trào lưu triết học “Ngộ Đạo” (Gnosticism) đã ảnh hưởng không nhỏ trên lãnh vực niềm tin, giáo lý, cho nên ngài đã khai triển “sự hiểu biết của đức tin” để phân biệt với sự hiểu biết như một cảm nghiệm tâm linh thuần tuý nhân loại (vốn là chủ trương của Ngộ Đạo thuyết).[37] “Sự sống đời đời là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha sai đến là Giêsu Kitô” (15,3).
Và cái “Biết” mà Thánh Gioan khai triển chính là một “cảm nhận của tình yêu”, tình yêu của Thiên Chúa và trong Thiên Chúa : “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu : ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. (1 Ga 4,16).
Từ cái “biết của tình yêu đó”, Đức Kitô đã thực hiện tình yêu với Cha và cho nhân loại; và Ngài cũng muốn các môn sinh thể hiện “cái biết tình yêu” đó dành cho nhau : Rửa chân (13,1-20), trao hiến bản thân (10,17-18).
c/. Từ “biết”, “yêu” tới “ở lại” :
Phúc âm thứ tư nhiều lần dùng từ “ở lại”. Ý nghĩa “Ở Lại” vừa diễn tả chiều kích sinh động của mầu nhiệm Nhập Thể : “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta’ (Ga 1,14) vừa nói lên mối tương quan thân mật hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Kitô và các môn sinh của Ngài : “hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em (…) Thày là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo…” (Ga 15,4-10) (Xem thêm Phan Tấn Thành, ĐỜI SỐNG TÂM LINH II)[38]
Kết luận :
Những gì nêu ra ở trên thật ra chỉ là những “nét chấm phá”. Hội Thánh muôn nơi muôn thuở vẫn miệt mài bước đi dưới ánh sáng của ngọn đuốc Tin Mừng. Mọi nền tu đức, mọi lối đi nên thánh, mọi định hướng đức tin...đều cần thiết và phải quy chiếu vào Lời dạy của chính Đức Kitô trong Tin Mừng. Vì thế, “Linh đạo Tin Mừng”, như tác giả Jordan Aumann, là “linh đạo Kitô giáo ở mức toàn bích” và khả năng “thích nghi với mọi thời đại”.[39]
Nhận định trên có thể dễ dàng được tìm thấy trong những lời đầu tiên của một tác phẩm tu đức nổi tiếng từ thế kỷ 15 được cho là của Thomas à Kempis (1380-1471), cuốn GƯƠNG CHÚA GIÊSU (THE IMITATION OF CHRIST) :
1. Lời Chúa Giêsu : “Ai theo Ta, người ấy không đi trong đường tối” (Ga 8,12). Lời ấy, Chúa dùng để khuyên nhủ ta bắt chước tính hạnh và hành vi Chúa, nếu ta muốn được sáng thật và thoát ly mọi tối tăm trong tâm hồn. Bài học chính của ta sẽ là suy gẫm về tính hạnh Chúa Kitô vậy.
2. Học thuyết Chúa Kitô trỗi vượt trên học thuyết các thánh. Ai thấu nhập được tinh thần Chúa Giêsu, người ấy gặp được lương thực giấu ẩn trong đó. Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc Âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu rõ và nếm thử thi vị của Lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa.[40]
Đối với những người đang dấn thân trong “đời sống thánh hiến”, Tin Mừng chính là con đường gần nhất để cùng “xuất phát lại từ Đức Kitô” như Huấn Thị của Thánh Bộ Giáo sĩ đã nhấn mạnh :
“Con đường mà đời sống thánh hiến được mời gọi đi theo khi khởi đầu ngàn năm mới được hướng dẫn bởi việc chiêm ngưỡng Đức Ki-tô, cái nhìn chúng ta hơn bao giờ hết, chăm chú vào khuôn mặt của Đức Chúa. Nhưng ta chiêm ngưỡng cách cụ thể khuôn mặt Đức Ki-tô ở đâu? Có vô vàn sự hiện diện cần được khám phá ra theo những cách thức luôn luôn mới mẻ.(…)
Đức Ki-tô thực sự hiện diện trong Lời của Người (…) Thánh thiện là hoa quả của cuộc gặp gỡ với Người trong nhiều cách thế hiện diện qua đó chúng ta có thể khám phá khuôn mặt của Người như là Con Thiên Chúa, một khuôn mặt đau khổ và đồng thời khuôn mặt của Đấng phục sinh. (…)
Đức Gio-an Phao-lô II nhắc nhở các người thánh hiến rằng sống linh đạo trước tiên có nghĩa là xuất phát lại từ ngôi vị Đức Ki-tô, Thiên Chúa thật và người thật, hiện diện trong Lời của Người, “nguồn mạch đầu tiên của mọi linh đạo” Thánh thiện không thể có được nếu không lắng nghe lời Thiên Chúa. (…)
“Lời Thiên Chúa là của ăn cho đời sống, cho việc cầu nguyện và cho cuộc hành trình hằng ngày, nguyên lý hiệp nhất cộng đoàn nên một lòng một ý, cảm hứng cho việc canh tân của thường huấn và những sáng kiến tông đồ. Công đồng Vatican II đã chỉ rõ rằng nguyên tắc canh tân quan trọng đầu tiên là trở về với Tin mừng.
Trong các cộng đoàn và trong các nhóm người thánh hiến, cũng như trong toàn thể Giáo hội, một sự tiếp xúc sống động và trực tiếp hơn với Lời Chúa đã phát triển trong những năm gần đây. Đó là một con đường cần phải tiếp tục bước đi với một năng động lớn hơn. Đức Giáo Hoàng đã nói: “Anh chị em đừng mệt mỏi suy niệm Kinh Thánh và nhất là Tin mừng…”[41]
(Còn tiếp)
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
[1] Joseph Doré, Dictionnaire de Théologie Chrétienne, Bản dịch của Hoàng Xuân Việt, hiệu đính Thiên Hựu, nxb. Tôn giáo 2015, tr. 48 : “Trong Chúa Giêsu Kitô, hết các kích thước của con người được đảm thụ và sử dụng để phô diễn Lời Chúa như : ngôn ngữ, hành vi, cử điệu, chết, sống lại. Chính trong đó, có sai biệt nền tảng giữa Chúa Kitô và các nhà lập giáo khác (như Đức Phật, Đức Khổng, Đức Mahomet v.v…). Các chư vị nầy không tự bản thân mình đề nghị cho các môn đồ có đức tin. Còn Chúa Giêsu, chính Người trình bày coi như dứt điểm cho phần rỗi cái lập trường mà người ta phải có đối với Người. Bởi lẽ Chúa Giêsu là lời nói yêu thương của Thiên Chúa tự hiến cho nhân thế và tự truyền thông cho ai chấp nhận Người.”
[2] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 23 : “Đức Kitô, vì thế, là hiện thân của linh đạo đích thực và ta hoàn toàn có cơ sở để nói rằng đời sống thiêng liêng phải là một sự tham dự vào “mầu nhiệm Đức Kitô”. Vậy thì, Đức Kitô là của mọi thời – hôm qua, hôm nay và mãi mãi – và bất cứ cố gắng nào nhằm xây dựng một linh đạo có tính “hợp thời hơn” đều chỉ là ảo tưởng”.
[3] GS 22
[4] HĐGMVN, UBGLĐT, SGLHTCG, nxb. Tôn giáo 2012, số 516, tr. 163 : “Cả cuộc đời của Đức Kitô là một Mạc khải về Chúa Cha : những lời Người nói, những việc Người làm, những lúc Người im lặng, những đau khổ Người chịu, cách thế Người sống và giảng dạy. Chúa Giêsu có thể nói : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), và Chúa Cha nói : “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người” (Lc 9,35). Vì Chúa chúng ta đã làm người để chu toàn thánh ý Chúa Cha, nên ngay cả những điểm nhỏ nhặt nhất trong các mầu nhiệm của Người đều biểu lộ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta”.
[5] Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ, Huấn thị “XUẤT PHÁT LẠI TỪ ĐỨC KITÔ”, số 21
[6] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 26-27 : “Vì thế, tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô có nghĩa là chia sẻ trong cùng một sự sống của vị Thiên Chúa làm người, sự sống mà Lời nhập thể chia sẻ với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; và qua sự sống nầy, con người được sinh lại và được nâng lên tới trật tự siêu nhiên”.
[7] SĐD : “Thật vậy, đời sống Đức Giêsu là gương mẫu của mọi linh đạo Kitô giáo, và hành trình tâm linh của Kitô hữu luôn luôn là chính hành trình mà Đức Giêsu đã bước đi. “Để biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người” (Pl 3,10) – đó là mục tiêu của đời sống Kitô hữu. Mối quan tâm noi gương sống của Đức Giêsu vốn được ghi nhận rõ ràng trong các trang Tân Ước.”
[8] Ibid., tr. 29.
[9] HĐGMVN, Uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Công Đồng Vaticanô II (Bản dịch Việt ngữ), HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẶC KHẢI THIÊN CHÚA (DEI VERBUM), viết tắt : MK, nxb. Tôn Giáo 2012, số 25, tr. 212 : “Cũng vậy, Thánh Công Đồng ân cần và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, nhất là các tu sĩ, hãy đạt đến “sự hiểu biết tuyệt vời về Chúa Giêsu Kitô” (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh. “Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Vì thế, họ phải năng tìm đến với chính bản văn Thánh Kinh, hoặc nhờ Phụng vụ thánh chứa đựng dồi dào Lời Chúa, hoặc nhờ việc sốt sắng đọc Sách Thánh, hoặc nhờ những lớp học hỏi thích hợp và những phương tiện khác hiện đang được phổ biến khắp nơi với sự chuẩn nhận và quan tâm của các vị Chủ chăn trong Giáo Hội”.
[10] Ibid. 18
[11] GS. Đaminh Phạm Xuân Uyển, SDB, NHẬP MÔN KINH THÁNH, nxb. Đồng Nai 2014, tr. 137-140
[12] Để làm giàu kiến thức Kinh Thánh, nhiều tác giả trong tạp chí En ce temps Là Le Journal De La Bible, chuyển ngữ : Lm. Fx. Lã Thanh Lịch, , hiệu đính : Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Phần Tân ước Tập 2, nxb. Tôn giáo 2012, tr. 1074 : “Trước hết là một tin, hay việc loan báo một biến cố : “Bạn có biết tin không?”. Phúc âm khác hẳn với một ý thức hệ thông thái, một triết học, một suy tưởng tinh thông, kết quả của khối óc tinh xảo loài người. Phúc âm cho biết một thực tại lịch sử. Thực tại đó là Giêsu thành Nazareth. Khởi điểm không thể chối cãi được và ngày nay chỉ còn một số ít người lạc hậu phản đối thực tại đó. Lại nữa, tin tức về biến cố mới đó lại là tin mừng. Phúc âm không đưa ra một tin đơn thuần, rồi bỏ mặc cho độc giả suy tưởng, Nhưng Phúc âm giới thiệu sự kiện mang sẵn một ý nghĩa : sự kiện đó, biến cố đó tốt lành, tế độ, là nguồn sống và hy vọng của mọi người…” (Jean Pièrre Charlier O.P).
[13] Ibid. Tr. 1074 -1075.
[14] Ibid. Tr 1075 -1076 : “Thực sự, Marcô loan Tin mừng, “giảng” hơn là “viết”. Đó là một lời nói trực tiếp hơn là một sản phẩm văn chương, lời nói được hăng hái gào lên, không hoa hoè nhưng mãnh liệt, có sức va chạm mạnh. (…) Theo sát bản văn chúng ta đang có, ý định của Matthêu lại khác : ông đã viết một cuốn sách, chính ông nói điều ấy: “Sách gia phả của Đức Giêsu Kitô” (Mt 1,1). Thời đại ông, một cuốn sách được viết ra để được tra cứu hơn là để đọc một hơi…Phúc âm Matthêu ra đời khoảng năm 85 và viết cho một giáo đoàn đã có tổ chức vững vàng…như một cuốn “sách giáo lý” dạy những chân lý và phương pháp mục vụ. Như thế không còn phải là một Tin Mừng được loan truyền nữa mà là cuốn sách tuỳ thân được soạn đàng hoàng để bất cứ tời nào khi cần đến thì tra cứu. (…) Luca lại khác nữa. Tác giả là một văn sĩ giỏi. Như ông nói, ông soạn một bản tường thuật về những biến cố đã xảy ra (Lc 1,1). Với ông lần đầu tiên trong văn chương Kitô giáo xuất hiện một tác phẩm thời danh : Đời sống của Đức Giêsu. Đang khi sách của Marcô thì 9/10 các động từ được dùng ở hiện tại (“Đây việc xảy ra”) còn trong sách của Luca tường thuật đối chiếu đó được đặt vào quá khứ như trọng tâm là kỷ niệm : “Đây việc đã xảy ra”. Do đó “Phúc âm thứ ba” với giọng điệu rất nhiệt thành, rất cảm động, kiệt tác của văn chương thời cổ, không ngừng gây ấn tượng. Còn về Gioan, chẳng có gì nói rõ bản chất tác phẩm của ông. Nhưng không ai còn lầm lẫn gì nữa. “Tin Mừng” coi như được độc giả biết đến từ lâu rồi, nên sách của Gioan mời họ suy gẫm sâu xa hơn nữa. Ở đây khoa thần bí tiếp nối kinh nghiệm đã được Marcô tiết lộ, với những âm điệu được các bậc hiền triết xưa kia đã gióng lên. Nếu sách của Marcô để nghe, của Matthêu để tra cứu, của Luca để đọc thì sách của Gioan đem lại những cái nhìn vô tận trong chiêm niệm”.
[15] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 23-25.
[16] Ibid. Tr. 30
[17] P. Pourrat. Christian Spirituality. London Bunrs Oates and Washbourne LTD. P. 1 : “The Christian life and, a fortiori, the perfect life consist in two fundamental and correlative dispositions, each of which calls for the other, unable to exist without each other, which should inspire all our acts. (1) the renuntiation of self; (2) the firm determination to follow or imitate Christ” (Tạm dịch : Đời sống Kitô hữu, nhất là đời sống hoàn thiện luôn cần hai nhân tố nền tảng và hỗ tương, tác động lẫn nhau và cần thiết cho nhau để định hướng mọi hành động của chúng ta. Hai nhân tố đó là (1)sự từ bỏ chính mình; (2) quyết tâm bước theo hay noi gương Chúa Kitô”
[18] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH II” – NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG LINH ĐẠO NỔI BẬT TRỌNG LỊCH SỬ KITÔ GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 28 : “Thực vậy, một đàng thánh Máccô cung cấp khá nhiều dữ liệu để minh chứng tính cách siêu phàm của Đức Giêsu qua các phép lạ; (một phần ba tác phẩm được dành để thuật lại các phép lạ chữa lành, trữ quỷ). Nhưng đồng thời, ông Máccô ra như che dấu cái gì đó, (điều được các học giả đặt tên là “bí mật Đấng Mêsia”, - secretum messianicum-, bởi vì Đức Giêsu buộc những người được phép lạ và thậm chí các môn đệ phải im lặng, không được tiết lộ về Người : 1,25.44; 3,12; 5,43; 7,36; 8,30; 9,9). Phải chăng đây là một kỷ thuật trình bày úp mở, vừa hé mở, vừa che dấu? Thiết tưởng có thể trả lời như thế nầy : các phép lạ tự nó cho ta thấy rằng Đức Giêsu là Đấng siêu phàm; nhưng đừng ai vội vàng tự hào rằng mình đã thấu hiểu bản tính của Đấng siêu phàm đó ! Chúng ta sẽ hiểu sai lầm về Người nếu chỉ nhìn thấy một danh sư chữa bệnh hay một pháp sư quyền năng. Thậm chí nếu ai tiếp tục nuôi dưỡng hình ảnh đó trong đầu óc thì sớm sẽ bị thất vọng”.
[19] Ibid. Tr. 29 : “Các học giả nhìn nhận tài bố trí của thánh Marcô. Ở đầu tác phẩm, ông muốn trình bày Tin Mừng đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1). Người đọc tưởng chừng như đã khám phá được điều gì đó khi nghe các bài giảng hoặc chứng kiến các phép lạ. Nhưng không, các cảm giác đó đều trật hết ! Chân lý về Đức Giêsu Con Thiên Chúa chỉ được bộc lộ rõ rệt khi Người bị chết treo trên thập giá, với lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng phụ trách cuộc hành hình (15,39), đang khi các môn đệ bỏ chạy tán loạn (14,50). Qua đó, ra như ông Marcô muốn nói rằng : ai muốn hiểu biết về Đức Giêsu thì cần phải chiêm ngắm cuộc Tử Nạn của Người. Những thứ cảm nghiệm bên ngoài Thập Giá có nguy cơ rơi vào hão huyền. Con đường dẫn tới cảm nghiệm tâm linh chân chính không thể nào tách rời khỏi thập giá…”
[20] Ibid. Tr. 30 : “Dĩ nhiên là chúng ta không thể nào hiểu các phần thưởng đó theo nghĩa vật chất, nhưng theo nghĩa tinh thần. Phải chăng đó chẳng phải là chính cảm nghiệm tâm linh đó sao, một thứ cảm nghiệm tâm linh tinh ròng, đã được thanh luyện khỏi những áo tưởng ?”
[21] Ibid. Tr. 30.
[22] Ibid.
[23] Ibid. Tr. 31
[24] Ibid. Tr. 33-34
[25] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 33
[26] SĐD (GE) 63
[27] Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP. (Giới thiệu) Tông huấn GAUDETE ET EXSULTATE. Nguồn : Trang mạng Tổng giáo phận Hà Nội. Link : http://www.giaolyductin.net/gioi-thieu-tong-huan-gaudete-et-exsultate.html
[28] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH II” – NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG LINH ĐẠO NỔI BẬT TRỌNG LỊCH SỬ KITÔ GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 35
[29] Đức Hồng Y Walter Kasper, La Miséricorde Notion fondamentale de l ‘ Évangile Clé de la vie chretienne (LÒNG THƯƠNG XÓT cốt lõi của Tin Mừng và chìa khoá của đời sống Kitô hữu), bản dịch tiếng Việt ; Bayard Việt Nam. Dịch thuật : Lm. Gioakim Nguyễn Khương Duy, AA, Nt. Marie Paulina Nguyễn Thị Chung, RNDM, Nt. Maria Phạm Thị Bích Giang, OA, nxb Tôn giáo 2016, tr. 81 : “Thánh sử Luca đã chỉ đúng vào những gì quan trọng trong thông điệp của Chúa Giêsu : nơi mà Thánh Matthêu nói về sự trọn hảo của Thiên Chúa (Mt 5,48), thì Thánh Luca nói về lòng thương xót của Người (Lc 6,36). Vậy, đối với Thánh Luca, lòng thương xót là sự trọn hảo của cả chính Thiên Chúa. Người không kết án, Người tha thứ. Người cho và cho mãi; đấu đo của Người là một đấu tràn đầy, lèn lắc, đầy đến ngọn và trào tràn ra. Lòng thương xót của Thiên Chúa có thể nói được là vượt quá mọi kích thước; nó vượt xa mọi mức đo khác”.
[30] Ibid. Tr. 82-85 “Chính qua những dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã trình bày cách hoàn hảo nhất thông điệp lòng thương xót của Chúa Cha. Nhất là đối với những dụ ngôn về người Samari nhân hậu (Lc 10,25-37) và người con hoang đàng (lc 15,11-32). Chúng ta được khắc sâu vào trong ký ức của nhân loại và hầu như đã trở thành những ngạn ngữ điển hình. (…). Tuy nhiên, sẽ là sai, nếu đem gán cho thông điệp của những dụ ngôn một chủ nghĩa nhân văn nói chung. Các dụ ngôn được dùng là để nói lên cách xử sự của Chúa Giêsu và để thấy nơi Người, cách cư xử của Cha trên trời. “Ai thấy tôi, là thấy Cha tôi” (Ga 14,7.9). Nơi Người thể hiện lòng nhân từ và sự yêu thương của Thiên Chúa, Vị Cứu tinh của chúng ta (Tt 3,4)”. Nơi Người, chúng ta có một vị Thầy Cả có khả năng động lòng trắc ẩn trước các yếu đuối của chúng ta, vì Người đã thấu hiểu các thử thách và cám dỗ như chúng ta, nhưng không hề phạm tọi (Dt 4,15). Đòng thời Chúa Giêsu cũng muốn nói với chúng ta điều nầy : trong dụ ngôn người con hoang đàng, câu chuyện được kể lại chính là câu chuyện của con. Chính con là đứa con hư hỏng đó, con cũng vậy, con cần phải sám hối và thay đổi đời sống. Đừng sợ ! Chính Thiên Chúa đang đến với con và ôm con vào lòng. Người không hạ thấp con; người trả lại cho con phẩm giá làm con của người.”
[31] Pierre Dumoulin, LUC – L ‘ ÉVANGILE DE LA JOIE, EdB 2013, p. 162 : “Luc est vraiment le témoin d’ une Bonne Nouvelle ; on trouve plus d’ une vingtaine de fois le mot “joie” et ses dérivés dans l’ évangile. Dans les récits de l’ Enfance, l’ insistance est plus forte qu’ ailleurs…” (Luca thật đúng là chứng nhân của Tin Mừng: trong phúc âm (Luca), từ “vui” và những gì liên quan được tìm thấy hơn 20 lần. Trong các trích đoạn về thời thơ ấu, ý nghĩa đó lại càng được nhấn mạnh.”
[32] Ibid. P. 163 : “Tous les personnages sont donc présentés comme porteurs de joie : les anges, Zacharie, Marie, Jean Baptiste, EElisabeth, les bergers vivent cette joie sous l' action de l' Esprit Saint ou lors de la visite des anges, et ils la rayonnent autour d' eux : le Ciel se fait proche. Par l' annonce de la Bonne Nouvelle en marche, ils recoivent interieurement cet emerveillement joiyeux.” (Như những người đang mang niềm vui, tất cả các nhân vật như các thiên sứ, ông Zachacrie, mẹ Maria, Gioan Tẩy giả, bà Êlisabeth, các mục đồng, tất cả họ đang sống chính niềm vui được tác động bởi Chúa Thánh Thần hoặc niềm vui khi họ được các thiên sứ viếng thăm chiếu toả : trời cao gần lại. Nhờ Tin Mừng được loan báo, họ đón nhận niềm vui diệu kỳ nầy trong tâm hồn.)
[33] Ibid. Tr. 162-168.
[34] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH II” – NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG LINH ĐẠO NỔI BẬT TRỌNG LỊCH SỬ KITÔ GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 36-37.
[35] Ibid. Tr. 66-67
[36] Ibid. Tr. 67-68
[37] ĐGH Phanxicô, Tông huấn GE, Chương II, HAI KẺ THÙ CỦA SỰ THÁNH THIỆN.
[38] SĐD (Phan Tấn Thành) tr. 71 : “Từ ngữ ở, ở lại được sử dụng khá nhiều trong Phúc âm thứ bốn để diễn tả sự thân mật giữa Thiên Chúa với nhân loại. Quyển sách mở đầu bằng biến cố “Lời Thiên Chúa” đến làm người và cư ngụ (cắm lều) ở giữa chúng ta (1,14). Mối tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại được lồng trong khung cảnh một cuộc đối thoại : Thiên Chúa đến với loài người qua Lời của Ngài. Đối lại, ai tiếp đón Lời của Chúa thì “ở lại” trong Chúa, và Chúa ở lại trong họ (15,4-10), như cành nho ở lại trong cây nho. Dĩ nhiên việc “ở lại” nầy hàm ngụ tình yêu hợp nhất.”
[39] Jordan Aumann, O.P. CHRISTIAN SPIRITUALITY IN THE CATHOLIC TRADITION. Bản Việt ngữ : LỊCH SỬ LINH ĐẠO Công Giáo, Lm. Giuse Lê Công Đức, nxb. Phương Đông 2013. Tr. 39 : “Tới đây ta có thể khép lại sự mô tả vắn tắt của mình về linh đạo của các Tin Mừng, cũng là linh đạo Kitô giáo ở mức toàn bích. (...) Linh đạo Tin Mừng tự thích nghi nói với mọi thời đại, nhưng mỗi hoàn cảnh lịch sử và mỗi nền văn hoá đáp lại các mệnh lệnh của Tin Mừng theo các nhu cầu và các khả năng riêng của mình. Do đó linh đạo của Tin Mừng là một tiến hoá năng động không thể bị giới hạn ở bất cứ nơi nào hoặc cột chặt vĩnh viễn vào bất cứ bối cảnh lịch sử nào...”
[40] GƯƠNG CHÚA GIÊSU, Cứu thế Tùng thư, nxb Hà Nội 2004, tr. 9
[41] Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ, Huấn thị “XUẤT PHÁT LẠI TỪ ĐỨC KITÔ”, số 23,24
Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 2, 2.4-2.6
Vũ Văn An
17:25 06/01/2019
2.4 Tính đồng nghị trong sự năng động của hiệp thông Công Giáo
58. Tính đồng nghị là một biểu thức sống động của tính Công Giáo của Giáo Hội như một hiệp thông. Trong Giáo Hội, Chúa Kitô hiện diện như là Đầu hợp nhất với Thân Thể Người (Ep 1: 22-23) một cách đến nỗi Giáo Hội nhận được từ Người sự viên mãn của các phương tiện cứu rỗi. Giáo hội là Công Giáo cũng bởi vì Giáo Hội được sai đến mọi người, để tụ họp toàn bộ gia đình nhân loại trong sự phong phú đa nguyên của các hình thức văn hóa, dưới quyền Chúa Tể của Chúa Kitô và trong sự hợp nhất của Thánh Thần Người. Con đường đồng nghị phát biểu và cổ vũ tính Công Giáo của Giáo Hội theo hai cách: nó cho thấy cách năng động, trong đó sự trọn vẹn của đức tin được chia sẻ bởi mọi thành viên của Dân Thiên Chúa và hỗ trợ việc chuyển giao nó cho mọi người và mọi dân tộc.
59. Giáo hội, vì là Công Giáo, nên làm cho phổ quát thành địa phương và địa phương thành phổ quát. Tính đặc thù của Giáo Hội ở một nơi được nên trọn tại trung tâm của Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội phổ quát được tỏ hiện và làm thành hiện thực trong các Giáo Hội địa phương, và trong sự hiệp thông của họ với nhau và với Giáo Hội Rôma.
"Mỗi Giáo hội cá thể nếu tự ý cắt đứt khỏi Giáo hội phổ quát sẽ đánh mất mối liên hệ của họ với kế hoạch của Thiên Chúa ... Nhưng, cùng một lúc, Giáo hội nào toto orbe diffusa (tản mác khắp địa cầu) sẽ trở nên trừu tượng nếu giáo hội ấy không lấy thân xác và sự sống qua các Giáo hội cá thể. Chỉ có sự chú ý liên tục đến hai cực này của Giáo hội mới giúp chúng ta cảm nhận được sự phong phú của mối liên hệ này "[69].
60. Sự tương quan nội tại qua lại của hai cực này có thể được phát biểu như là cách phổ quát và địa phương hiện diện trong nhau trong Giáo Hội của Chúa Kitô. Trong Giáo hội như là Công Giáo, sự đa dạng không chỉ là sự đồng hiện hữu mà là sự gắn kết trong sự liên hệ qua lại và lệ thuộc lẫn nhau: một perichoresis [đồng tương tại] có tính giáo hội học, trong đó sự hiệp thông Ba Ngôi thấy sự phản chiếu của mình nơi Giáo Hội. Sự hiệp thông của các Giáo hội với nhau trong một Giáo hội phổ quát làm sáng ý nghĩa giáo hội học của " cái chúng ta" có tính hợp đoàn trong hàng giám mục tập hợp trong sự hợp nhất cum Petro et sub Petro (với Phêrô và dưới Phêrô).
61. Các giáo hội địa phương là các chủ thể cộng đoàn làm cho dân Chúa duy nhất hiện thực một cách mới lạ trong các bối cảnh văn hóa khác nhau, và họ chia sẻ các ơn phúc của họ trong một cuộc trao đổi qua lại nhằm cổ vũ "mối liên kết hiệp thông chặt chẽ" [70]. Sự đa dạng của các Giáo hội địa phương - với các kỷ luật giáo hội, nghi thức phụng vụ, di sản thần học, các ơn phúc thiêng liêng và các quy tắc giáo luật của riêng họ - "là bằng chứng tuyệt vời cho tính Công Giáo của Giáo hội không chia rẽ" [71]. Thừa tác vụ của Thánh Phêrô, centrum unitatis [tâm điểm hợp nhất], "bảo vệ các dị biệt hợp pháp, đồng thời đảm bảo rằng những các dị biệt này không cản trở sự hợp nhất mà đúng hơn đóng góp cho sự hợp nhất này" [72]. Thừa tác vụ Phêrô có đó để phục vụ sự hợp nhất của Giáo hội và bảo đảm tính cách riêng biệt của mỗi Giáo hội địa phương. Tính đồng nghị mô tả con đường phải theo để cổ vũ tính Công Giáo của Giáo hội bằng việc biện phân các con đường phải theo với nhau trong Giáo hội hoàn vũ và phải theo khác nhau trong mỗi Giáo hội địa phương.
2.5 Tính đồng nghị trong truyền thống hiệp thông tông đồ
62. Giáo hội là tông truyền theo ba nghĩa: vì Giáo Hội đã và tiếp tục được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ (xem Ep 2: 20); vì, với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn và chuyển giao các giáo huấn của các ngài (xem Cv 2,42; 2 Tm 1,13-14); vì Giáo Hội tiếp tục được các Tông đồ dẫn dắt qua Giám mục Đoàn, những người kế vị các ngài và là Mục tử trong Giáo hội (Cv 20: 28) [73]. Ở đây, chúng ta đang tập chú vào mối liên hệ giữa sinh hoạt đồng nghị của Giáo hội và thừa tác vụ tông truyền được làm cho hiện thực trong thừa tác vụ của các Giám mục trong sự hiệp thông hợp đoàn và phẩm trật với nhau và với Giám mục Rôma.
63. Lumen Gentium dạy rằng Chúa Giêsu cử nhiệm Nhóm Mười Hai "theo cách của một hợp đoàn (collegium) hoặc một nhóm ổn định (cœtus), trên đó Người đặt Phêrô được chọn trong số họ" [74]. Hiến chế này khẳng định rằng việc kế vị tông đồ diễn ra qua việc thánh hiến các Giám mục, một việc trao ban cho các ngài sự trọn vẹn của Bí tích Truyền Chức và kết hợp họ vào sự hiệp thông hợp đoàn và phẩm trật với người đứng đầu và các thành viên của Hợp Đoàn [75]. Do đó, Hiến Chế tuyên bố rằng thừa tác vụ của các Giám mục, tương ứng và dẫn khởi từ thừa tác vụ của các Tông đồ, có tính hợp đoàn và phẩm trật. Hiến chế minh họa mối liên hệ giữa tính bí tích của hàng giám mục và tính hợp đoàn giám mục, vượt qua lối giải thích muốn tách thừa tác vụ giám mục ra khỏi gốc gác bí tích của nó và làm suy yếu chiều kích hợp đoàn của nó, một điều được Thánh Truyền xác nhận [76]. Nhờ cách này, trong bối cảnh giáo hội học hiệp thông và hợp đoàn, nó bổ sung cho tín lý của Vatican I về Giám mục Rôma như "nguyên tắc và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất của cả các Giám mục lẫn tín hữu" [77].
64. Có thể đi sâu hơn vào nền thần học đồng nghị dựa vào học thuyết cảm thức đức tin (sensus fidei) của dân Chúa và tính hợp đoàn bí tích của hàng giám mục trong hiệp thông phẩm trật với Giám mục Rôma.
Viễn kiến giáo hội học này mời gọi chúng ta nói rõ sự hiệp thông đồng nghị của "mọi người", của "một số người" và của "một người". Ở nhiều bình diện khác nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau, như các Giáo hội địa phương, các nhóm Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn cầu, tính đồng nghị liên quan đến việc thực thi cảm thức đức tin của universitas fidelium (mọi tín hữu), thừa tác vụ lãnh đạo của đoàn Giám mục, mỗi vị với linh mục đoàn của mình (một số người), và thừa tác vụ hợp nhất của Giám mục Rôma (một người). Do đó, sự năng động của tính đồng nghị nối kết khía cạnh cộng đồng, tức khía cạnh bao gồm toàn thể dân Chúa, chiều kích hợp đoàn, tức phần thi hành thừa tác vụ giám mục, và thừa tác vụ giáo chủ (primatial) của Giám mục Rôma.
Mối tương quan qua lại này cổ vũ singularis conspiratio (sự hợp tác độc đáo) giữa các tín hữu và các Mục tử của họ [78], một sự hợp tác vốn là hình tượng của sự hợp tác vĩnh cửu sống động nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Do đó, Giáo hội "không ngừng tiến về phía sự viên mãn của sự thật thần thiêng cho đến khi lời của Thiên Chúa đạt được sự thành toàn trọn vẹn trong Giáo Hội" [79].
65. Sự đổi mới đời sống đồng nghị của Giáo Hội đòi hỏi chúng ta phải khởi diễn các diễn trình tham khảo ý kiến của toàn thể dân Chúa. "Thực hành tham khảo các tín hữu không phải là điều mới lạ trong đời sống Giáo hội. Trong Giáo hội thời Trung cổ, một nguyên tắc của luật Rôma đã được sử dụng: Quod omnes tangit, ab omnibus seamari et acceptbari debet (những gì ảnh hưởng đến mọi người nên được thảo luận và chấp thuận bởi mọi người). Trong ba lãnh vực của đời sống Giáo hội (đức tin, bí tích, quản trị), 'truyền thống kết hợp một cơ cấu có phẩm trật với một chế độ lập hội và thỏa thuận cụ thể', và được coi là một thủ tục hoặc truyền thống tông truyền"[80 ]. Không nên hiểu châm ngôn này theo nghĩa duy công đồng ở bình diện giáo hội học hoặc theo nghĩa duy nghị viện ở bình diện chính trị. Sẽ hữu ích hơn khi suy nghĩ theo nghĩa thực thi tính đồng nghị tại tâm điểm của hiệp thông giáo hội.
66. Trong viễn kiến Công Giáo và tông truyền về tính đồng nghị, có một mối tương quan hỗ tương giữa communio fidelium (hiệp thông các tín hữu), communio episcoporum (hiệp thông các giám mục) và communio ecclesiarum (hiệp thông các giáo hội). Khái niệm đồng nghị rộng hơn khái niệm hợp đoàn vì nó bao gồm sự tham gia của mọi người trong Giáo hội và của mọi Giáo hội. Theo nghĩa chặt chẽ, tính hợp đoàn chỉ việc khẳng quyết và nói lên sự hiệp thông của dân Chúa trong hàng ngũ Giám mục, nói cách khác, trong hợp đoàn các Giám mục cum Petro et sub Petro (cùng Phêrô và dưới Phêrô), và - qua đó - sự hiệp thông giữa mọi Giáo hội. Khái niệm đồng nghị ngụ hàm tính hợp đoàn và ngược lại, vì cả hai, tuy khác nhau, nhưng hỗ trợ và xác nhận lẫn nhau. Giáo huấn của Vatican II về tính bí tích của hàng giám mục và về tính hợp đoàn là tiền đề thần học căn bản cho một nền thần học chính xác và đầy đủ về tính đồng nghị.
2.6 Sự tham gia và quyền bính trong sinh hoạt đồng nghị của Giáo hội
67. Giáo hội đồng nghị là Giáo hội tham gia và đồng trách nhiệm. Trong khi thực thi tính đồng nghị, Giáo Hội được mời gọi nói lên sự tham gia của mọi người, theo ơn gọi của mỗi người, vào thẩm quyền được Đức Kitô ban cho hợp đoàn Giám mục do Đức Giáo Hoàng đứng đầu. Sự tham gia dựa trên sự kiện này: mọi tín hữu đều có tư cách và được kêu gọi phục vụ lẫn nhau qua các ơn phúc họ đã nhận được từ Chúa Thánh Thần. Thẩm quyền của các Mục tử là đặc sủng của Thánh Thần Chúa Kitô, Đấng là Đầu, để xây dựng toàn bộ Cơ thể, chứ không phải là một chức năng được ủy nhiệm và đại diện cho người ta. Về điểm này cần làm rõ hai điều.
68. Điều đầu tiên là về ý nghĩa và giá trị của việc tham khảo mọi người trong Giáo hội. Việc phân biệt giữa các lá phiếu thảo luận và tham vấn (deliberative and consultative) không cho phép chúng ta đánh giá thấp các ý kiến được đưa ra và các phiếu bầu được thực hiện trong các phiên họp thượng hội đồng và công đồng khác nhau. Kiểu nói votum tantum consultivum (lá phiếu chỉ có tính tham vấn), cho thấy sức nặng các đánh giá và đề xuất trong các phiên họp đáng kính này, sẽ không thỏa đáng nếu nó được hiểu theo mens (tâm tư) của luật dân sự trong nhiều biểu thức khác nhau của nó [81].
Tham vấn diễn ra trong các phiên họp thượng hội đồng thực sự rất khác, bởi vì các thành viên của dân Chúa tham gia vào đó đang đáp trả lời triệu tập của Chúa, lắng nghe như một cộng đồng những điều Chúa Thánh Thần đang nói với Giáo hội qua Lời của Thiên Chúa đang vang dội trong hoàn cảnh của họ, và giải thích các dấu chỉ thời đại bằng con mắt đức tin. Trong Giáo hội đồng nghị, toàn thể cộng đồng, trong sự đa dạng tự do và phong phú của các thành viên, được mời gọi cùng nhau cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, đối thoại, biện phân và cống hiến lời cố vấn về việc đưa ra các quyết định mục vụ tương ứng bao nhiêu có thể với ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế, đến lúc phải đưa ra quyết định của riêng mình, các Mục tử phải lắng nghe cẩn thận các mong muốn (vota) của các tín hữu. Bộ Giáo Luật quy định rằng, trong một số trường hợp, các ngài chỉ nên hành động sau khi đã tìm hiểu và nhận được các ý kiến khác nhau theo các thủ tục được thiết lập hợp pháp [82].
69. Minh xác thứ hai liên quan đến chức năng cai quản của riêng Mục Tử [83]. Không có khoảng cách hoặc tách biệt giữa cộng đồng và các mục tử của nó - những vị được kêu gọi hành động nhân danh Vị Mục Tử duy nhất - nhưng là một sự phân biệt giữa các nhiệm vụ trong tính tương hỗ của hiệp thông. Một công nghị (synod), một hội nghị (assembly), một công đồng (council) không thể đưa ra quyết định mà không có các mục tử hợp pháp của nó. Diễn trình đồng nghị phải diễn ra tại trung tâm của một cộng đồng có cơ cấu phẩm trật. Chẳng hạn, trong một giáo phận, cần phân biệt giữa diễn trình ra quyết định (decision-making) thông qua việc thực hành biện phân, tham khảo và hợp tác chung, và nhận quyết định (decision-taking), vốn thuộc năng quyền của Giám mục, người bảo lãnh tính tông truyền và tính Công Giáo. Giải quyết sự việc là một nhiệm vụ có tính đồng nghị; quyết định là trách nhiệm có tính thừa tác. Một việc thực thi chính xác tính đồng nghị phải góp phần vào việc nối kết (articulation) tốt hơn thừa tác vụ thi hành thẩm quyền tông truyền bản thân và hợp đoàn với việc thi hành đồng nghị sự biện phân của cộng đồng.
70. Tóm lại, dưới ánh sáng các nguồn quy phạm và nền tảng thần học của nó, mà chúng ta đã nhắc đến ở các chương 1 và 2, chúng ta có thể kết luận bằng một mô tả chính xác về tính đồng nghị như một chiều kích chủ yếu của Giáo hội.
a. Trước hết và trên hết, tính đồng nghị chỉ phong cách đặc thù làm đặc điểm cho đời sống và sứ mệnh của Giáo hội, nói lên bản chất của Giáo Hội như là dân Chúa đang cùng nhau lữ thứ và tụ họp nhau thành cộng đoàn, được Chúa Giêsu triệu tập trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Tính đồng nghị phải được phát biểu trong cách sống và làm việc thông thường của Giáo hội. Modus vivendi et operandi (cách sống và hành động) này hoạt động thông qua cộng đồng biết lắng nghe Lời Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể, tình anh em hiệp thông và đồng trách nhiệm và sự tham gia của toàn thể Dân Thiên Chúa vào đời sống và sứ mệnh của nó, trên mọi bình diện và phân biệt giữa nhiều thừa tác vụ và vai trò khác nhau.
b. Theo một nghĩa chuyên biệt hơn, một nghĩa được xác định theo quan điểm thần học và giáo luật, tính đồng nghị chỉ các cơ cấu và diễn trình giáo hội trong đó bản chất đồng nghị của Giáo hội được phát biểu ở bình diện định chế, nhưng một cách loại suy ở nhiều bình diện khác nhau: địa phương, miền và hoàn vũ. Các cơ cấu và diễn trình này chính thức phục vụ Giáo hội, một việc phục vụ phải khám phá ra con đường tiến lên bằng cách lắng nghe Chúa Thánh Thần.
c. Cuối cùng, tính đồng nghị chỉ chương trình các biến cố đồng nghị trong đó Giáo hội được triệu mời với nhau bởi thẩm quyền có năng quyền theo các thủ tục chuyên biệt do kỷ luật của giáo hội đặt ra, liên quan đến toàn thể Dân Thiên Chúa nhiều cách khác nhau trên bình diện địa phương, khu miền và hoàn vũ, được chủ tọa bởi các Giám mục hiệp thông hợp đoàn với Giám mục Rôma, để biện phân cách tiến lên phía trước và các vấn đề đặc thù khác, cũng như đưa ra các quyết định và hướng đi đặc thù nhằm mục đích hoàn tất sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.
Kỳ sau: Chương Ba: Thực Thi Tính Đồng Nghị
58. Tính đồng nghị là một biểu thức sống động của tính Công Giáo của Giáo Hội như một hiệp thông. Trong Giáo Hội, Chúa Kitô hiện diện như là Đầu hợp nhất với Thân Thể Người (Ep 1: 22-23) một cách đến nỗi Giáo Hội nhận được từ Người sự viên mãn của các phương tiện cứu rỗi. Giáo hội là Công Giáo cũng bởi vì Giáo Hội được sai đến mọi người, để tụ họp toàn bộ gia đình nhân loại trong sự phong phú đa nguyên của các hình thức văn hóa, dưới quyền Chúa Tể của Chúa Kitô và trong sự hợp nhất của Thánh Thần Người. Con đường đồng nghị phát biểu và cổ vũ tính Công Giáo của Giáo Hội theo hai cách: nó cho thấy cách năng động, trong đó sự trọn vẹn của đức tin được chia sẻ bởi mọi thành viên của Dân Thiên Chúa và hỗ trợ việc chuyển giao nó cho mọi người và mọi dân tộc.
59. Giáo hội, vì là Công Giáo, nên làm cho phổ quát thành địa phương và địa phương thành phổ quát. Tính đặc thù của Giáo Hội ở một nơi được nên trọn tại trung tâm của Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội phổ quát được tỏ hiện và làm thành hiện thực trong các Giáo Hội địa phương, và trong sự hiệp thông của họ với nhau và với Giáo Hội Rôma.
"Mỗi Giáo hội cá thể nếu tự ý cắt đứt khỏi Giáo hội phổ quát sẽ đánh mất mối liên hệ của họ với kế hoạch của Thiên Chúa ... Nhưng, cùng một lúc, Giáo hội nào toto orbe diffusa (tản mác khắp địa cầu) sẽ trở nên trừu tượng nếu giáo hội ấy không lấy thân xác và sự sống qua các Giáo hội cá thể. Chỉ có sự chú ý liên tục đến hai cực này của Giáo hội mới giúp chúng ta cảm nhận được sự phong phú của mối liên hệ này "[69].
60. Sự tương quan nội tại qua lại của hai cực này có thể được phát biểu như là cách phổ quát và địa phương hiện diện trong nhau trong Giáo Hội của Chúa Kitô. Trong Giáo hội như là Công Giáo, sự đa dạng không chỉ là sự đồng hiện hữu mà là sự gắn kết trong sự liên hệ qua lại và lệ thuộc lẫn nhau: một perichoresis [đồng tương tại] có tính giáo hội học, trong đó sự hiệp thông Ba Ngôi thấy sự phản chiếu của mình nơi Giáo Hội. Sự hiệp thông của các Giáo hội với nhau trong một Giáo hội phổ quát làm sáng ý nghĩa giáo hội học của " cái chúng ta" có tính hợp đoàn trong hàng giám mục tập hợp trong sự hợp nhất cum Petro et sub Petro (với Phêrô và dưới Phêrô).
61. Các giáo hội địa phương là các chủ thể cộng đoàn làm cho dân Chúa duy nhất hiện thực một cách mới lạ trong các bối cảnh văn hóa khác nhau, và họ chia sẻ các ơn phúc của họ trong một cuộc trao đổi qua lại nhằm cổ vũ "mối liên kết hiệp thông chặt chẽ" [70]. Sự đa dạng của các Giáo hội địa phương - với các kỷ luật giáo hội, nghi thức phụng vụ, di sản thần học, các ơn phúc thiêng liêng và các quy tắc giáo luật của riêng họ - "là bằng chứng tuyệt vời cho tính Công Giáo của Giáo hội không chia rẽ" [71]. Thừa tác vụ của Thánh Phêrô, centrum unitatis [tâm điểm hợp nhất], "bảo vệ các dị biệt hợp pháp, đồng thời đảm bảo rằng những các dị biệt này không cản trở sự hợp nhất mà đúng hơn đóng góp cho sự hợp nhất này" [72]. Thừa tác vụ Phêrô có đó để phục vụ sự hợp nhất của Giáo hội và bảo đảm tính cách riêng biệt của mỗi Giáo hội địa phương. Tính đồng nghị mô tả con đường phải theo để cổ vũ tính Công Giáo của Giáo hội bằng việc biện phân các con đường phải theo với nhau trong Giáo hội hoàn vũ và phải theo khác nhau trong mỗi Giáo hội địa phương.
2.5 Tính đồng nghị trong truyền thống hiệp thông tông đồ
62. Giáo hội là tông truyền theo ba nghĩa: vì Giáo Hội đã và tiếp tục được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ (xem Ep 2: 20); vì, với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn và chuyển giao các giáo huấn của các ngài (xem Cv 2,42; 2 Tm 1,13-14); vì Giáo Hội tiếp tục được các Tông đồ dẫn dắt qua Giám mục Đoàn, những người kế vị các ngài và là Mục tử trong Giáo hội (Cv 20: 28) [73]. Ở đây, chúng ta đang tập chú vào mối liên hệ giữa sinh hoạt đồng nghị của Giáo hội và thừa tác vụ tông truyền được làm cho hiện thực trong thừa tác vụ của các Giám mục trong sự hiệp thông hợp đoàn và phẩm trật với nhau và với Giám mục Rôma.
63. Lumen Gentium dạy rằng Chúa Giêsu cử nhiệm Nhóm Mười Hai "theo cách của một hợp đoàn (collegium) hoặc một nhóm ổn định (cœtus), trên đó Người đặt Phêrô được chọn trong số họ" [74]. Hiến chế này khẳng định rằng việc kế vị tông đồ diễn ra qua việc thánh hiến các Giám mục, một việc trao ban cho các ngài sự trọn vẹn của Bí tích Truyền Chức và kết hợp họ vào sự hiệp thông hợp đoàn và phẩm trật với người đứng đầu và các thành viên của Hợp Đoàn [75]. Do đó, Hiến Chế tuyên bố rằng thừa tác vụ của các Giám mục, tương ứng và dẫn khởi từ thừa tác vụ của các Tông đồ, có tính hợp đoàn và phẩm trật. Hiến chế minh họa mối liên hệ giữa tính bí tích của hàng giám mục và tính hợp đoàn giám mục, vượt qua lối giải thích muốn tách thừa tác vụ giám mục ra khỏi gốc gác bí tích của nó và làm suy yếu chiều kích hợp đoàn của nó, một điều được Thánh Truyền xác nhận [76]. Nhờ cách này, trong bối cảnh giáo hội học hiệp thông và hợp đoàn, nó bổ sung cho tín lý của Vatican I về Giám mục Rôma như "nguyên tắc và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất của cả các Giám mục lẫn tín hữu" [77].
64. Có thể đi sâu hơn vào nền thần học đồng nghị dựa vào học thuyết cảm thức đức tin (sensus fidei) của dân Chúa và tính hợp đoàn bí tích của hàng giám mục trong hiệp thông phẩm trật với Giám mục Rôma.
Viễn kiến giáo hội học này mời gọi chúng ta nói rõ sự hiệp thông đồng nghị của "mọi người", của "một số người" và của "một người". Ở nhiều bình diện khác nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau, như các Giáo hội địa phương, các nhóm Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn cầu, tính đồng nghị liên quan đến việc thực thi cảm thức đức tin của universitas fidelium (mọi tín hữu), thừa tác vụ lãnh đạo của đoàn Giám mục, mỗi vị với linh mục đoàn của mình (một số người), và thừa tác vụ hợp nhất của Giám mục Rôma (một người). Do đó, sự năng động của tính đồng nghị nối kết khía cạnh cộng đồng, tức khía cạnh bao gồm toàn thể dân Chúa, chiều kích hợp đoàn, tức phần thi hành thừa tác vụ giám mục, và thừa tác vụ giáo chủ (primatial) của Giám mục Rôma.
Mối tương quan qua lại này cổ vũ singularis conspiratio (sự hợp tác độc đáo) giữa các tín hữu và các Mục tử của họ [78], một sự hợp tác vốn là hình tượng của sự hợp tác vĩnh cửu sống động nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Do đó, Giáo hội "không ngừng tiến về phía sự viên mãn của sự thật thần thiêng cho đến khi lời của Thiên Chúa đạt được sự thành toàn trọn vẹn trong Giáo Hội" [79].
65. Sự đổi mới đời sống đồng nghị của Giáo Hội đòi hỏi chúng ta phải khởi diễn các diễn trình tham khảo ý kiến của toàn thể dân Chúa. "Thực hành tham khảo các tín hữu không phải là điều mới lạ trong đời sống Giáo hội. Trong Giáo hội thời Trung cổ, một nguyên tắc của luật Rôma đã được sử dụng: Quod omnes tangit, ab omnibus seamari et acceptbari debet (những gì ảnh hưởng đến mọi người nên được thảo luận và chấp thuận bởi mọi người). Trong ba lãnh vực của đời sống Giáo hội (đức tin, bí tích, quản trị), 'truyền thống kết hợp một cơ cấu có phẩm trật với một chế độ lập hội và thỏa thuận cụ thể', và được coi là một thủ tục hoặc truyền thống tông truyền"[80 ]. Không nên hiểu châm ngôn này theo nghĩa duy công đồng ở bình diện giáo hội học hoặc theo nghĩa duy nghị viện ở bình diện chính trị. Sẽ hữu ích hơn khi suy nghĩ theo nghĩa thực thi tính đồng nghị tại tâm điểm của hiệp thông giáo hội.
66. Trong viễn kiến Công Giáo và tông truyền về tính đồng nghị, có một mối tương quan hỗ tương giữa communio fidelium (hiệp thông các tín hữu), communio episcoporum (hiệp thông các giám mục) và communio ecclesiarum (hiệp thông các giáo hội). Khái niệm đồng nghị rộng hơn khái niệm hợp đoàn vì nó bao gồm sự tham gia của mọi người trong Giáo hội và của mọi Giáo hội. Theo nghĩa chặt chẽ, tính hợp đoàn chỉ việc khẳng quyết và nói lên sự hiệp thông của dân Chúa trong hàng ngũ Giám mục, nói cách khác, trong hợp đoàn các Giám mục cum Petro et sub Petro (cùng Phêrô và dưới Phêrô), và - qua đó - sự hiệp thông giữa mọi Giáo hội. Khái niệm đồng nghị ngụ hàm tính hợp đoàn và ngược lại, vì cả hai, tuy khác nhau, nhưng hỗ trợ và xác nhận lẫn nhau. Giáo huấn của Vatican II về tính bí tích của hàng giám mục và về tính hợp đoàn là tiền đề thần học căn bản cho một nền thần học chính xác và đầy đủ về tính đồng nghị.
2.6 Sự tham gia và quyền bính trong sinh hoạt đồng nghị của Giáo hội
67. Giáo hội đồng nghị là Giáo hội tham gia và đồng trách nhiệm. Trong khi thực thi tính đồng nghị, Giáo Hội được mời gọi nói lên sự tham gia của mọi người, theo ơn gọi của mỗi người, vào thẩm quyền được Đức Kitô ban cho hợp đoàn Giám mục do Đức Giáo Hoàng đứng đầu. Sự tham gia dựa trên sự kiện này: mọi tín hữu đều có tư cách và được kêu gọi phục vụ lẫn nhau qua các ơn phúc họ đã nhận được từ Chúa Thánh Thần. Thẩm quyền của các Mục tử là đặc sủng của Thánh Thần Chúa Kitô, Đấng là Đầu, để xây dựng toàn bộ Cơ thể, chứ không phải là một chức năng được ủy nhiệm và đại diện cho người ta. Về điểm này cần làm rõ hai điều.
68. Điều đầu tiên là về ý nghĩa và giá trị của việc tham khảo mọi người trong Giáo hội. Việc phân biệt giữa các lá phiếu thảo luận và tham vấn (deliberative and consultative) không cho phép chúng ta đánh giá thấp các ý kiến được đưa ra và các phiếu bầu được thực hiện trong các phiên họp thượng hội đồng và công đồng khác nhau. Kiểu nói votum tantum consultivum (lá phiếu chỉ có tính tham vấn), cho thấy sức nặng các đánh giá và đề xuất trong các phiên họp đáng kính này, sẽ không thỏa đáng nếu nó được hiểu theo mens (tâm tư) của luật dân sự trong nhiều biểu thức khác nhau của nó [81].
Tham vấn diễn ra trong các phiên họp thượng hội đồng thực sự rất khác, bởi vì các thành viên của dân Chúa tham gia vào đó đang đáp trả lời triệu tập của Chúa, lắng nghe như một cộng đồng những điều Chúa Thánh Thần đang nói với Giáo hội qua Lời của Thiên Chúa đang vang dội trong hoàn cảnh của họ, và giải thích các dấu chỉ thời đại bằng con mắt đức tin. Trong Giáo hội đồng nghị, toàn thể cộng đồng, trong sự đa dạng tự do và phong phú của các thành viên, được mời gọi cùng nhau cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, đối thoại, biện phân và cống hiến lời cố vấn về việc đưa ra các quyết định mục vụ tương ứng bao nhiêu có thể với ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế, đến lúc phải đưa ra quyết định của riêng mình, các Mục tử phải lắng nghe cẩn thận các mong muốn (vota) của các tín hữu. Bộ Giáo Luật quy định rằng, trong một số trường hợp, các ngài chỉ nên hành động sau khi đã tìm hiểu và nhận được các ý kiến khác nhau theo các thủ tục được thiết lập hợp pháp [82].
69. Minh xác thứ hai liên quan đến chức năng cai quản của riêng Mục Tử [83]. Không có khoảng cách hoặc tách biệt giữa cộng đồng và các mục tử của nó - những vị được kêu gọi hành động nhân danh Vị Mục Tử duy nhất - nhưng là một sự phân biệt giữa các nhiệm vụ trong tính tương hỗ của hiệp thông. Một công nghị (synod), một hội nghị (assembly), một công đồng (council) không thể đưa ra quyết định mà không có các mục tử hợp pháp của nó. Diễn trình đồng nghị phải diễn ra tại trung tâm của một cộng đồng có cơ cấu phẩm trật. Chẳng hạn, trong một giáo phận, cần phân biệt giữa diễn trình ra quyết định (decision-making) thông qua việc thực hành biện phân, tham khảo và hợp tác chung, và nhận quyết định (decision-taking), vốn thuộc năng quyền của Giám mục, người bảo lãnh tính tông truyền và tính Công Giáo. Giải quyết sự việc là một nhiệm vụ có tính đồng nghị; quyết định là trách nhiệm có tính thừa tác. Một việc thực thi chính xác tính đồng nghị phải góp phần vào việc nối kết (articulation) tốt hơn thừa tác vụ thi hành thẩm quyền tông truyền bản thân và hợp đoàn với việc thi hành đồng nghị sự biện phân của cộng đồng.
70. Tóm lại, dưới ánh sáng các nguồn quy phạm và nền tảng thần học của nó, mà chúng ta đã nhắc đến ở các chương 1 và 2, chúng ta có thể kết luận bằng một mô tả chính xác về tính đồng nghị như một chiều kích chủ yếu của Giáo hội.
a. Trước hết và trên hết, tính đồng nghị chỉ phong cách đặc thù làm đặc điểm cho đời sống và sứ mệnh của Giáo hội, nói lên bản chất của Giáo Hội như là dân Chúa đang cùng nhau lữ thứ và tụ họp nhau thành cộng đoàn, được Chúa Giêsu triệu tập trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Tính đồng nghị phải được phát biểu trong cách sống và làm việc thông thường của Giáo hội. Modus vivendi et operandi (cách sống và hành động) này hoạt động thông qua cộng đồng biết lắng nghe Lời Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể, tình anh em hiệp thông và đồng trách nhiệm và sự tham gia của toàn thể Dân Thiên Chúa vào đời sống và sứ mệnh của nó, trên mọi bình diện và phân biệt giữa nhiều thừa tác vụ và vai trò khác nhau.
b. Theo một nghĩa chuyên biệt hơn, một nghĩa được xác định theo quan điểm thần học và giáo luật, tính đồng nghị chỉ các cơ cấu và diễn trình giáo hội trong đó bản chất đồng nghị của Giáo hội được phát biểu ở bình diện định chế, nhưng một cách loại suy ở nhiều bình diện khác nhau: địa phương, miền và hoàn vũ. Các cơ cấu và diễn trình này chính thức phục vụ Giáo hội, một việc phục vụ phải khám phá ra con đường tiến lên bằng cách lắng nghe Chúa Thánh Thần.
c. Cuối cùng, tính đồng nghị chỉ chương trình các biến cố đồng nghị trong đó Giáo hội được triệu mời với nhau bởi thẩm quyền có năng quyền theo các thủ tục chuyên biệt do kỷ luật của giáo hội đặt ra, liên quan đến toàn thể Dân Thiên Chúa nhiều cách khác nhau trên bình diện địa phương, khu miền và hoàn vũ, được chủ tọa bởi các Giám mục hiệp thông hợp đoàn với Giám mục Rôma, để biện phân cách tiến lên phía trước và các vấn đề đặc thù khác, cũng như đưa ra các quyết định và hướng đi đặc thù nhằm mục đích hoàn tất sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.
Kỳ sau: Chương Ba: Thực Thi Tính Đồng Nghị
Văn Hóa
Khúc Trường Ca Dâng Hiến
Nữ Tu Anna Hiền Linh, MTGQN
09:04 06/01/2019
KHÚC “TRƯỜNG CA D NG HIẾN”
Có những lúc cuộc sống ta tưởng chừng như êm ả, nhưng trên hành trình bước theo Chúa, chúng ta không sao tránh khỏi những khó khăn, thử thách, phải đi qua những khúc quanh co của cuộc đời. Tuy nhiên, có khó khăn, thử thách chúng ta mới hiểu được giá trị của khổ đau và “ngộ” ra những ý nghĩa tuyệt vời, như cách cảm nhận của nhà chí sĩ Phan Bội Châu : “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”.
Cũng vậy, một bản nhạc hay ít khi vắng những nhịp đảo phách, những nốt thăng, trầm và cả những dấu lặng. Nếu không có những “nuances” nầy, bản nhạc chỉ còn là “một tổ hợp” nốt nhạc xếp cạnh nhau, những âm thanh đều đều, buồn tẻ; và dĩ nhiên, bài hát sẽ không cho người nghe chút cảm nhận nào. Phải chăng trong “bản trường ca theo Chúa” của người tu sĩ, cũng không thể thiếu vắng những “nhịp đảo phách” như thế. Chúng ta không đi tìm sóng gió, khổ đau hay những “ngã rẽ, khúc quanh” ngoài ý muốn…; nhưng có những khó khăn sóng gió tự đến và rồi sẽ “tự đi” mà chúng ta gần như không thể tiên liệu. Dù muốn dù không chúng ta vẫn phải đối diện và trải qua. “Điều quan trọng không phải là những gì xảy ra với bạn mà chính là cách bạn đối phó với chúng như thế nào” (Theo Word of Wisdom).Có những khó khăn do tác động của môi trường xã hội, có những khó khăn do hoàn cảnh gia đình, cộng đoàn tạo nên hay có những khó khăn hằn sâu trong tâm hồn chỉ mình ta với Chúa biết. Đứng trước muôn vàn khó khăn đó có thể ta tự giải quyết được, nhưng cũng có những khó khăn phải đối diện và đón nhận trong hy sinh từng ngày từng giờ.
Ngày nay đời sống cộng đoàn các dòng tu hầu như đang trải qua nhiều áp lực và thử thách từ ảnh hưởng của các trào lưu thế tục, dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu cực, mất thăng bằng. Trong một kỳ nghỉ chúng tôi có dịp gặp nhau, một tu sĩ đã chia sẻ: “Tôi cố gắng mãi nhưng sao vẫn không hòa nhịp được với đời sống cộng đoàn, khó thương được người chị em sống bên cạnh tôi. Các giờ kinh đối với tôi ngày càng lơ là và vô vị, mặc dù tôi đã dấn bước lâu năm trên hành trình ơn gọi. Đã nhiều lần tôi cố gắng đi bước trước để cởi mở với mọi người, cố gắng yêu thương tin tưởng cách chân thành nhưng vẫn không được và chỉ muốn rút lui vào vỏ ốc của riêng mình và chỉ thấy mình là nơi chốn an toàn nhất. Trong đời sống chung thường xuyên đổ vỡ, mặc dù tôi rất thận trọng trong các mối tương quan. Tôi đã rất cố gắng để vượt qua những yếu đuối, bất toàn nhưng sao cứ sai phạm mãi. Đã nhiều lần tôi chạy theo tiền tài, danh vọng và những mối tình chẳng đi về đâu khiến tâm hồn vướng víu và tâm trí tôi như nặng trĩu…Phải chăng đây là những cú đảo phách của bản trường ca đời dâng hiến?”.
Những lời chia sẻ rất chân tình trên đây của vị tu sĩ như một “chứng từ” về những “cung buồn” của đời dâng hiến ! Biết đâu trong bản nhạc ấy, đang thiếu đi một “dấu lặng cần thiết” để khúc “hoà âm dâng hiến” hay hơn, trọn hảo hơn. Trong bản trường ca của mỗi người tu sĩ chúng ta rất cần những dấu lặng như thế. Dấu lặng của sự hồi tâm, dấu lặng của đời sống cầu nguyện, dấu lặng của những giây phút diện đối diện trước mặt Chúa…Nếu thiếu những dấu lặng như thế bản nhạc đời chúng ta sẽ bị khập khiễng và người nghe không thể cảm thụ được cái hay mà tác giả muốn gửi đến.
Lần giở lại những trang Tin Mừng ta thấy, trước những biến cố quan trọng, Chúa Giêsu luôn rút lui vào nơi thanh vắng để thinh lặng và cầu nguyện với Chúa Cha. Người cũng mời gọi các môn đệ hãy đi vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút. Người tu sĩ chúng ta cũng được mời gọi dành những phút giây thinh lặng để có thể nghe được tiếng Chúa, và có đủ sức để vượt qua những sóng gió, những dịp tội, những đam mê. Cần một phút thinh lặng để hàn gắn lại những đổ vỡ trong các mối tương quan, cần một phút thinh lặng để tìm ra lối thoát khi phải đối diện với những thất bại, hiểu lầm.
Khi chúng ta đi vào thinh lặng chính là lúc chúng ta được Chúa mời gọi đi vào mối tâm giao thân tình với Chúa. Ngài là Đấng trung thành sẵn sàng lắng nghe và chia sẻ trọn vẹn những vui buồn của chúng ta trong cuộc sống. Trải qua những cô đơn thất vọng, chúng ta mới cảm nhận rằng: Chỉ có Chúa là Đấng lấp đầy những khoảng trống và những khát vọng trong tâm hồn ta. Đã nhiều lần chúng ta cố đi tìm những thứ khác không phải là Chúa để lấp đầy sự cô đơn trống vắng, nhưng càng tìm chúng ta càng thấy tâm hồn ta bị khoét sâu và vụn nát hơn. Trải qua những đêm tối của cuộc đời, qua những nhịp đảo phách của bản trường ca đời dâng hiến, chúng ta cảm nhận được rằng: Đức Giêsu là người bạn trung thành nhất. Ngài không đưa chúng ta đi vào sự cô đơn như chúng ta từng nghĩ, nhưng Ngài vẫn lặng lẽ và sớt chia những nỗi vui buồn cùng ta trong những lúc khốn cùng nhất, Ngài là người bạn luôn đồng hành và sẵn sàng cảm thông, tha thứ. Chúa Giêsu, một người cô đơn, từng bị bỏ rơi nhưng không gục ngã, đau khổ nhưng không bỏ cuộc, vẫn đi hết cuộc hành trình vâng phục Chúa Cha “Xin vâng ý Cha, đừng theo ý con” (Mc 14,36)
Ngày nay, người tu sĩ chúng ta sống trong một xã hội đề cao danh vọng, quyền lực và đủ mọi thứ tác động bên ngoài làm cho cuộc sống chúng ta dễ bị cuốn theo dòng chảy của sự ồn ào, náo nhiệt, đánh mất chính mình. Nếu cuộc sống chúng ta thiếu vắng sự thinh lặng sẽ trở thành miếng mồi ngon cho cạm bẫy của sự dữ. Nếu chỉ biết bám vào sự thành công của những công việc hoạt động bên ngoài để tự khẳng định chính mình, dần dần chúng ta sẽ tự chui vào vỏ ốc của sự ích kỷ, lo âu, cắt đứt hết mọi tương quan với Chúa và tha nhân. Lúc này cuộc sống của người tu sĩ sẽ mất hết giá trị cao cả của huyền nhiệm tình yêu, của cảm thông và tha thứ…
Trong đời sống thiêng liêng, thinh lặng không chỉ là dành thời gian và không gian để sống thân tình với Thiên Chúa, nhưng cần phải dành cho Chúa một chỗ đứng ưu tiên trong tâm hồn, để dù đi bất cứ nơi nào hay làm việc gì thì Chúa vẫn có nơi cư ngụ. Nếu một người tu sĩ thiếu đời sống thinh lặng, chúng ta sẽ không thể nào cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và cũng không ý thức được sự hiện diện của chính mình, có thể dẫn đến đánh mất ân nghĩa với Thiên Chúa và đánh mất chính mình.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong tông huấn gọi mời dân Chúa nên thánh (Gaudete et Exsultate” đã lưu ý tầm quan trọng của việc thinh lặng cầu nguyện bằng những lời sau :
“Chúng ta cần nhớ rằng “việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, sẽ phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nhân tính ấy bị tan tác bởi những vất vả của cuộc đời hoặc bị ghi dấu bởi tội lỗi. Chúng ta không được làm suy giảm quyền năng của dung nhan Đức Kitô”.113 Vì thế, tôi xin hỏi các bạn: Có những giây phút nào bạn thinh lặng đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, những lúc bạn thư thái ở với Người, và để Người nhìn ngắm bạn hay không? Bạn có để ngọn lửa của Người cháy lên trong lòng mình không? Nếu không để Người sưởi ấm bạn bằng tình yêu và sự dịu dàng của Người, bạn sẽ không có lửa, và như thế làm sao bạn có thể đốt nóng trái tim người khác bằng chứng tá và lời nói của bạn? Và nếu trước dung nhan của Đức Kitô bạn vẫn cảm thấy không thể được chữa lành và biến đổi, thi hãy bước vào Trái Tim của Chúa, bước vào những vết thương của Người, vì đó là chỗ của Lòng Chúa Xót Thương.” (GE 151)
Ước gì trên hành trình dâng hiến mỗi người chúng ta cảm nhận được rằng: Thiên Chúa là một nhạc sĩ hòa âm rất tuyệt vời. Ngài đã viết nên những bản trường ca đời dâng hiến của ta với những nhịp đảo phách đầy chông gai thử thách mà mỗi người chúng ta từng ngày phải đối diện, cùng với những dấu lặng của hy sinh nguyện cầu. Để từ đó chúng ta xác tín rằng con đường ta đi không phải là con đường của hoa thơm cỏ lạ, nhưng là con đường mòn đầy sỏi đá chông gai, con đường dài với những bước thăng trầm của hành trình phục vụ. Và chính trên con đường đó, mỗi người chúng ta được mời gọi bước theo Ngài.
Anna Hiền Linh MTGQN
Có những lúc cuộc sống ta tưởng chừng như êm ả, nhưng trên hành trình bước theo Chúa, chúng ta không sao tránh khỏi những khó khăn, thử thách, phải đi qua những khúc quanh co của cuộc đời. Tuy nhiên, có khó khăn, thử thách chúng ta mới hiểu được giá trị của khổ đau và “ngộ” ra những ý nghĩa tuyệt vời, như cách cảm nhận của nhà chí sĩ Phan Bội Châu : “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”.
Cũng vậy, một bản nhạc hay ít khi vắng những nhịp đảo phách, những nốt thăng, trầm và cả những dấu lặng. Nếu không có những “nuances” nầy, bản nhạc chỉ còn là “một tổ hợp” nốt nhạc xếp cạnh nhau, những âm thanh đều đều, buồn tẻ; và dĩ nhiên, bài hát sẽ không cho người nghe chút cảm nhận nào. Phải chăng trong “bản trường ca theo Chúa” của người tu sĩ, cũng không thể thiếu vắng những “nhịp đảo phách” như thế. Chúng ta không đi tìm sóng gió, khổ đau hay những “ngã rẽ, khúc quanh” ngoài ý muốn…; nhưng có những khó khăn sóng gió tự đến và rồi sẽ “tự đi” mà chúng ta gần như không thể tiên liệu. Dù muốn dù không chúng ta vẫn phải đối diện và trải qua. “Điều quan trọng không phải là những gì xảy ra với bạn mà chính là cách bạn đối phó với chúng như thế nào” (Theo Word of Wisdom).Có những khó khăn do tác động của môi trường xã hội, có những khó khăn do hoàn cảnh gia đình, cộng đoàn tạo nên hay có những khó khăn hằn sâu trong tâm hồn chỉ mình ta với Chúa biết. Đứng trước muôn vàn khó khăn đó có thể ta tự giải quyết được, nhưng cũng có những khó khăn phải đối diện và đón nhận trong hy sinh từng ngày từng giờ.
Ngày nay đời sống cộng đoàn các dòng tu hầu như đang trải qua nhiều áp lực và thử thách từ ảnh hưởng của các trào lưu thế tục, dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu cực, mất thăng bằng. Trong một kỳ nghỉ chúng tôi có dịp gặp nhau, một tu sĩ đã chia sẻ: “Tôi cố gắng mãi nhưng sao vẫn không hòa nhịp được với đời sống cộng đoàn, khó thương được người chị em sống bên cạnh tôi. Các giờ kinh đối với tôi ngày càng lơ là và vô vị, mặc dù tôi đã dấn bước lâu năm trên hành trình ơn gọi. Đã nhiều lần tôi cố gắng đi bước trước để cởi mở với mọi người, cố gắng yêu thương tin tưởng cách chân thành nhưng vẫn không được và chỉ muốn rút lui vào vỏ ốc của riêng mình và chỉ thấy mình là nơi chốn an toàn nhất. Trong đời sống chung thường xuyên đổ vỡ, mặc dù tôi rất thận trọng trong các mối tương quan. Tôi đã rất cố gắng để vượt qua những yếu đuối, bất toàn nhưng sao cứ sai phạm mãi. Đã nhiều lần tôi chạy theo tiền tài, danh vọng và những mối tình chẳng đi về đâu khiến tâm hồn vướng víu và tâm trí tôi như nặng trĩu…Phải chăng đây là những cú đảo phách của bản trường ca đời dâng hiến?”.
Những lời chia sẻ rất chân tình trên đây của vị tu sĩ như một “chứng từ” về những “cung buồn” của đời dâng hiến ! Biết đâu trong bản nhạc ấy, đang thiếu đi một “dấu lặng cần thiết” để khúc “hoà âm dâng hiến” hay hơn, trọn hảo hơn. Trong bản trường ca của mỗi người tu sĩ chúng ta rất cần những dấu lặng như thế. Dấu lặng của sự hồi tâm, dấu lặng của đời sống cầu nguyện, dấu lặng của những giây phút diện đối diện trước mặt Chúa…Nếu thiếu những dấu lặng như thế bản nhạc đời chúng ta sẽ bị khập khiễng và người nghe không thể cảm thụ được cái hay mà tác giả muốn gửi đến.
Lần giở lại những trang Tin Mừng ta thấy, trước những biến cố quan trọng, Chúa Giêsu luôn rút lui vào nơi thanh vắng để thinh lặng và cầu nguyện với Chúa Cha. Người cũng mời gọi các môn đệ hãy đi vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút. Người tu sĩ chúng ta cũng được mời gọi dành những phút giây thinh lặng để có thể nghe được tiếng Chúa, và có đủ sức để vượt qua những sóng gió, những dịp tội, những đam mê. Cần một phút thinh lặng để hàn gắn lại những đổ vỡ trong các mối tương quan, cần một phút thinh lặng để tìm ra lối thoát khi phải đối diện với những thất bại, hiểu lầm.
Khi chúng ta đi vào thinh lặng chính là lúc chúng ta được Chúa mời gọi đi vào mối tâm giao thân tình với Chúa. Ngài là Đấng trung thành sẵn sàng lắng nghe và chia sẻ trọn vẹn những vui buồn của chúng ta trong cuộc sống. Trải qua những cô đơn thất vọng, chúng ta mới cảm nhận rằng: Chỉ có Chúa là Đấng lấp đầy những khoảng trống và những khát vọng trong tâm hồn ta. Đã nhiều lần chúng ta cố đi tìm những thứ khác không phải là Chúa để lấp đầy sự cô đơn trống vắng, nhưng càng tìm chúng ta càng thấy tâm hồn ta bị khoét sâu và vụn nát hơn. Trải qua những đêm tối của cuộc đời, qua những nhịp đảo phách của bản trường ca đời dâng hiến, chúng ta cảm nhận được rằng: Đức Giêsu là người bạn trung thành nhất. Ngài không đưa chúng ta đi vào sự cô đơn như chúng ta từng nghĩ, nhưng Ngài vẫn lặng lẽ và sớt chia những nỗi vui buồn cùng ta trong những lúc khốn cùng nhất, Ngài là người bạn luôn đồng hành và sẵn sàng cảm thông, tha thứ. Chúa Giêsu, một người cô đơn, từng bị bỏ rơi nhưng không gục ngã, đau khổ nhưng không bỏ cuộc, vẫn đi hết cuộc hành trình vâng phục Chúa Cha “Xin vâng ý Cha, đừng theo ý con” (Mc 14,36)
Ngày nay, người tu sĩ chúng ta sống trong một xã hội đề cao danh vọng, quyền lực và đủ mọi thứ tác động bên ngoài làm cho cuộc sống chúng ta dễ bị cuốn theo dòng chảy của sự ồn ào, náo nhiệt, đánh mất chính mình. Nếu cuộc sống chúng ta thiếu vắng sự thinh lặng sẽ trở thành miếng mồi ngon cho cạm bẫy của sự dữ. Nếu chỉ biết bám vào sự thành công của những công việc hoạt động bên ngoài để tự khẳng định chính mình, dần dần chúng ta sẽ tự chui vào vỏ ốc của sự ích kỷ, lo âu, cắt đứt hết mọi tương quan với Chúa và tha nhân. Lúc này cuộc sống của người tu sĩ sẽ mất hết giá trị cao cả của huyền nhiệm tình yêu, của cảm thông và tha thứ…
Trong đời sống thiêng liêng, thinh lặng không chỉ là dành thời gian và không gian để sống thân tình với Thiên Chúa, nhưng cần phải dành cho Chúa một chỗ đứng ưu tiên trong tâm hồn, để dù đi bất cứ nơi nào hay làm việc gì thì Chúa vẫn có nơi cư ngụ. Nếu một người tu sĩ thiếu đời sống thinh lặng, chúng ta sẽ không thể nào cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và cũng không ý thức được sự hiện diện của chính mình, có thể dẫn đến đánh mất ân nghĩa với Thiên Chúa và đánh mất chính mình.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong tông huấn gọi mời dân Chúa nên thánh (Gaudete et Exsultate” đã lưu ý tầm quan trọng của việc thinh lặng cầu nguyện bằng những lời sau :
“Chúng ta cần nhớ rằng “việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, sẽ phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nhân tính ấy bị tan tác bởi những vất vả của cuộc đời hoặc bị ghi dấu bởi tội lỗi. Chúng ta không được làm suy giảm quyền năng của dung nhan Đức Kitô”.113 Vì thế, tôi xin hỏi các bạn: Có những giây phút nào bạn thinh lặng đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, những lúc bạn thư thái ở với Người, và để Người nhìn ngắm bạn hay không? Bạn có để ngọn lửa của Người cháy lên trong lòng mình không? Nếu không để Người sưởi ấm bạn bằng tình yêu và sự dịu dàng của Người, bạn sẽ không có lửa, và như thế làm sao bạn có thể đốt nóng trái tim người khác bằng chứng tá và lời nói của bạn? Và nếu trước dung nhan của Đức Kitô bạn vẫn cảm thấy không thể được chữa lành và biến đổi, thi hãy bước vào Trái Tim của Chúa, bước vào những vết thương của Người, vì đó là chỗ của Lòng Chúa Xót Thương.” (GE 151)
Ước gì trên hành trình dâng hiến mỗi người chúng ta cảm nhận được rằng: Thiên Chúa là một nhạc sĩ hòa âm rất tuyệt vời. Ngài đã viết nên những bản trường ca đời dâng hiến của ta với những nhịp đảo phách đầy chông gai thử thách mà mỗi người chúng ta từng ngày phải đối diện, cùng với những dấu lặng của hy sinh nguyện cầu. Để từ đó chúng ta xác tín rằng con đường ta đi không phải là con đường của hoa thơm cỏ lạ, nhưng là con đường mòn đầy sỏi đá chông gai, con đường dài với những bước thăng trầm của hành trình phục vụ. Và chính trên con đường đó, mỗi người chúng ta được mời gọi bước theo Ngài.
Anna Hiền Linh MTGQN